Văn bản sự giàu đẹp của tiếng việt năm 2024

Trong bài viết Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng có viết: “Có lẽ tiếng Việt của chúng ta đẹp bời vì tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp, bởi vì đời sống, cuộc đấu tranh của nhân của ta từ trước tới nay là cao quý, là vĩ đại, nghĩa là rất đẹp…”. Một lần nữa, nhà phê bình Đặng Thai Mai đã khẳng định mạnh mẽ điều ấy trong văn bản Sự giàu đẹp của Tiếng Việt, trích đoạn trích ở phần đầu của bài nghiên cứu dài Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc in lần đầu năm 1967.

Mở đầu văn bản, tác giả Đặng Thai Mai đã đưa ra nhận định: “Tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay”. Đồng thời, tác giả cũng giải thích nhận định ấy một cách ngắn gọn: “Nói như thế có nghĩa là là nói rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng hài hoà về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng có nghĩa là nói rằng: Tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thoả mãn cho yêu cầu của đời sống văn hoá nước nhà qua các thời kỳ lịch sử”.

Tiếp theo, tác giả đã tập trung chứng minh sự giàu đẹp và phong phú của Tiếng Việt về các mặt ngữ âm, từ vựng và cú pháp: “Tiếng Việt là một thứ tiếng giàu chất nhạc”; “rất rành mạch trong lối nói, rất uyển chuyển trong câu kéo, rất ngon lành trong những câu tục ngữ”; “gồm một hệ thống nguyên âm và phụ âm khá phong phú”; “là phương tiện trao đổi tình cảm, ý nghĩa giữa người với người”; “có những khả năng dồi dào về phấn cấu tạo từ ngữ cũng như hình thức diễn đạt”; “từ vựng tiếng Việt qua các thời kỳ diễn biến của nó tăng lên mỗi ngày một nhiều”; “ngữ pháp cũng dần dần trở nên uyển chuyển”; “không ngừng đặt ra những từ mới, những cách nói mới”...

Với những dẫn chứng tương đối phong phú và toàn diện, tác giả đã làm rõ sự giàu đẹp của tiếng Việt và trên cơ sở đó kết luận: “Cấu tạo tiếng Việt với khả năng thích ứng với hoàn cảnh là một chứng cứ về sức sống của nó”.

Tác giả đã có hệ thống dẫn chứng khá phong phú và toàn diện, chính xác, giàu sức thuyết phục. Cách giải thích và chứng minh ngắn gọn, rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Văn bản đã cho ta thấy vốn tri thức phong phú, niềm tự hào, tin tưởng và tình yêu của tác giả đối với tiếng Việt – thứ tiếng thiêng liêng, yêu mến của dân tộc Việt Nam.

Bài văn sử dụng phương thức nghị luận, chủ yếu dùng lí lẽ và dẫn chứng để khẳng định sự giàu đẹp của tiếng Việt. Tác giả Đặng Thai Mai đã sử dụng cách chứng minh trực tiếp và gián tiếp để làm rõ cái hay, cái đẹp của tiếng Việt. Tác giả không chỉ trực tiếp phân tích, bình luận và giải thích để làm rõ sự phong phú, giàu đẹp của tiếng Việt mà đồng thời còn đưa ra các ý kiến, nhận định, các lời bình luận của người nước ngoài về tiếng Việt để tạo ra sự khách quan và tăng sức thuyết phục cho bài văn.

Tác giả cũng đã kết hợp sử dụng hiệu quả các thao tác giải thích, chứng minh và bình luân một cách hài hoà, nhuần nhuyễn. Kết hợp với cách lập luận ngắn gọn, chặt chẽ, rõ ràng, mạch lạc, lí lẽ giàu sức thuyết phục.

Bằng những lý lẽ, chứng cứ chặt chẽ và toàn diện, bài văn đã chứng minh sự giàu có và đẹp đẽ của tiếng Việt trên nhiều phương diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Tiếng Việt, với những phẩm chất bền vững và giàu khả năng sáng tạo trong quá trình phát triển lâu dài của nó, là một biểu hiện hùng hồn sức sống của dân tộc.

Văn bản sự giàu đẹp của tiếng việt năm 2024

Hình minh họa (Nguồn: internet)

2. Bài văn phân tích tác phẩm 'Sự giàu đẹp của tiếng Việt' số 3

Chúng ta, những người con của dân tộc Việt Nam, hàng ngày sử dụng tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ của cả cộng đồng để suy nghĩ, trò chuyện và giao tiếp. Tuy nhiên, ít người đã thực sự hiểu biết về những đặc điểm và giá trị của tiếng nói Việt Nam, cũng như sức sống đặc biệt của nó. Trong thơ ca và âm nhạc, đã có những lời ca ngợi về vẻ đẹp độc đáo của tiếng Việt. Để thấu hiểu sâu sắc và tận hưởng một cách thú vị vẻ đẹp và tính độc đáo của tiếng nói dân tộc Việt Nam, hãy tìm hiểu các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ và văn chương. Một trong những người xuất sắc đó là Giáo sư Đặng Thai Mai, tác giả của bài viết Sự giàu đẹp của tiếng Việt. Bài nghiên cứu ngắn gọn nhưng sâu sắc này đã giải thích và chứng minh một cách thuyết phục về những đặc trưng cơ bản của tiếng nói Việt Nam: 'giàu và đẹp'.

Bài viết 'Sự giàu đẹp của tiếng Việt' là một đoạn trích từ nghiên cứu Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc, được xuất bản lần đầu vào năm 1967. Mặc dù chỉ là một đoạn trích, nhưng văn bản chúng ta được đọc vẫn giữ cấu trúc của một bài nghiên cứu vững vàng như một tác phẩm văn học nghệ thuật chứng minh. Chúng ta có thể phân tích văn bản theo ba phần chính:

Mở đầu (từ 'Người Việt Nam ngày nay...' đến '... các thời kỳ lịch sử'): Nhận định rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ đẹp và hay, giải thích một cách ngắn gọn. Phần này giới thiệu vấn đề chính của bài nghiên cứu. Thân bài ('Tiếng Việt, trong cấu tạo...' đến '.... kỹ thuật, vãn nghệ'): Chứng minh vẻ đẹp và sự giàu có (hay) của tiếng Việt qua các khía cạnh như ngữ âm, từ vựng, cú pháp. Kết bài (các câu văn còn lại): Đặt nặng điểm đẹp và điểm hay của tiếng Việt chính là sức sống của nó, đồng thời là biểu hiện của sức sống của dân tộc.

Vì là một bài viết nghiên cứu về ngôn ngữ, tác giả sử dụng lý lẽ và dẫn chứng trong phạm vi của ngôn ngữ và thực tế, không mang đến những ví dụ cụ thể từ văn chương hoặc ngôn ngữ hàng ngày. Vì vậy, khi tiếp cận văn bản này, chúng ta cần kết hợp sự hiểu biết về lý lẽ và dẫn chứng của tác giả với những trải nghiệm văn chương và ngôn ngữ hàng ngày để hiểu rõ hơn và chia sẻ tư tưởng và tình cảm của tác giả.

Ở đoạn mở đầu, Đặng Thai Mai đưa chúng ta vào chủ đề với hai câu biểu cảm: 'Người Việt Nam ngày nay có đủ lý do và cơ sở để tự hào về tiếng nói của mình. Và để tin tưởng hơn vào tương lai của nó'. Câu thứ nhất có cấu trúc bình thường, trong khi câu thứ hai giảm chủ ngữ theo kiểu 'tách trạng ngữ thành câu riêng'. Loại câu này không bình thường nhưng rất ấn tượng, kết hợp hai từ biểu cảm tự hào và tin tưởng để thể hiện tình yêu và tôn trọng của tác giả đối với tiếng nói Việt Nam.

From there, the author draws readers into the issue of 'Vietnamese has unique beauty and excellence.' The third sentence both expresses love and appreciation, and presents a profound scientific thought about the value of Vietnamese speech. The position and content of this sentence are indeed the stated problem (thesis) in the essay. The author emphasizes the two adjectives 'beautiful' and 'excellent.' Then, he explains the general meaning of the beauty and excellence of Vietnamese: ... a language harmonious in phonetics, melodious (referring to vocabulary), elegant and flexible in sentence structure (referring to syntax), fully capable of expressing the emotions and thoughts of the Vietnamese - that is, evaluating the role, effectiveness, and impact of Vietnamese in our lives. The writing flows smoothly, condensed if read quickly, making it difficult for us to grasp the author's points and ideas. Scientific writing is like that, concise and meaningful.

But in the second part, the author presents his points and illustrates them with clear, logical, and tight arguments. The first point: the author asserts and proves that Vietnamese, in its structure,... is quite beautiful. This beauty is illustrated by evidence of rich musical elements (in phonetics, Vietnamese has two equal tones, four regulated tones, rich intonation. In syntax, Vietnamese is balanced, rhythmic, and in vocabulary, Vietnamese is abundant in words for all three aspects of poetry, music, and painting). Therefore, the researcher affirms: 'The effect of this characteristic on literature is very important.' To support the scientific evidence, the author adds additional practical evidence. He recounts: many foreigners visiting our country comment that Vietnamese is a language rich in music.

Then he quotes the opinion of a professor: 'Vietnamese is like a language that is 'beautiful' and 'very sophisticated in speech, very flexible in sentence structure, very smooth in proverbs.' Interwoven with the evidence, the author uses the comparison 'Vietnamese... is rich in melodic imagery like musical notes in deep music.' Such rich, diverse evidence, combined with associative thinking and smooth sentence writing, clearly shows that researcher Đặng Thai Mai is very enthusiastic, passionate, and proud of the musicality of Vietnamese speech. And we, reading his work, also feel captivated. We recall the vivid poems, multi-tone, rich musical notes in the treasure of Vietnamese literature. Let's read the following poem in the essay Lượm:

The boy fidgety

The cute little scissors

The legs are slender

The head nods

The tilted slogan

The whistling mouth

Like a finch

Jumping on the golden road...

The musicality of Vietnamese has composed into the lines, melodies, and beautiful syntax in that poem by poet Tố Hữu. And we remember countless proverbs, folk songs, and even ordinary daily sayings we hear from the speech of our parents, grandparents, teachers, and friends. How can we fully illustrate the musicality, the beauty of our Vietnamese language.

Returning to Đặng Thai Mai's essay. After proving the musicality - the beauty - the researcher emphasizes further: Vietnamese is a good language. Then he illustrates with some general points: Vietnamese has a rich vocabulary structure, expressive forms, and grammar that is gradually becoming more flexible, more accurate, constantly introducing new words, new ways of speaking, and at the same time, Vietnamese is adapting and naturalizing the words and expressions of our fellow and neighboring ethnic groups...

With a wealth of evidence, both scientific and practical, the author helps us both enhance our understanding of theory and connect it to reality, to empathize and share with the author's passion for scientific exploration and love for the Vietnamese mother tongue. Apart from Tố Hữu, through proverbs, folk songs, we also learn about the literary works of our ancestors from Trần Quang Khải, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến,... the works of Uncle Hồ, writers Thạch Lam, Vũ Bằng, poets Minh Huệ, Xuân Quỳnh,... in the present day. Thanks to the richness and beauty of the Vietnamese language, artists have created countless masterpieces of literature, and also thanks to the creativity and love for the Vietnamese language of the authors, Vietnamese is getting richer and more beautiful day by day, and its vitality is growing more and more.

At the end of the last paragraph, the beauty and vitality of Vietnamese speech are emphasized by Đặng Thai Mai: 'The structure of Vietnamese, with its adaptability to historical conditions as we have discussed above, is clear evidence of its vitality.' The vitality of Vietnamese speech is an expression of the vitality of the Vietnamese people. The essay, up to this point, is complete.

Regarding the content, the author has made an interesting scientific discovery about the beauty of Vietnamese speech. In terms of art, the essay has also reached an admirable level, worth studying: combining explanation with illustration, commenting lightly, arguing rigorously, providing comprehensive evidence, writing flexible sentences, using concise sentences (in the introduction), coordinating with extended sentences (in the second part)...

In summary, what we need to remember is that through solid reasoning and comprehensive evidence, 'The Richness of Vietnamese Speech' has proven that the Vietnamese language is rich and beautiful in many aspects: phonetics, vocabulary, and grammar. Vietnamese, with its enduring qualities and creative ability in its long-term development, is a majestic symbol of the vitality of the nation...

Văn bản sự giàu đẹp của tiếng việt năm 2024

Hình minh họa (Nguồn internet)

3. Phân tích tác phẩm 'Sự tinh tế của tiếng Việt' số 2

Trích đoạn này từ một nghiên cứu về Tiếng Việt, Đặng Thai Mai tôn vinh vẻ đẹp của tiếng Việt. Mặc dù chỉ là đoạn trích, bài văn có bố cục rõ ràng, hợp lý.

Người Việt có lý do để tự hào về tiếng nói của mình, với niềm tin vững chắc vào tương lai. Tiếng Việt được mô tả như một ngôn ngữ hài hòa, tinh tế về âm thanh và thanh điệu, có khả năng diễn đạt phong phú về cảm xúc, tư tưởng của người Việt qua lịch sử.

Bài viết tập trung chứng minh vẻ đẹp của tiếng Việt thông qua ngữ âm, từ vựng và cú pháp. Nhận định dựa trên khả năng biểu đạt phong phú của tiếng Việt, với các câu kết nối chặt chẽ về nội dung.

Tác giả chứng minh rằng tiếng Việt không chỉ đẹp về ngữ âm mà còn giàu chất nhạc. Giáo sư nước ngoài nhận xét về sự đẹp và uyển chuyển của tiếng Việt trong lối nói và tục ngữ.

Đánh giá được làm bằng các ví dụ thơ và câu ca dao, với sự sáng tạo trong cách diễn đạt tình cảm và hình ảnh. Tác giả cũng chứng minh sự phong phú về từ vựng và cấu trúc ngôn ngữ qua các thời kỳ.

Bài viết thể hiện sự liên kết giữa đẹp và hay của tiếng Việt. Sự tinh tế trong cách diễn đạt không chỉ là điểm mạnh mà còn tạo ra vẻ đẹp trong ngôn ngữ. Tác giả kết luận rằng tiếng Việt không chỉ đẹp về ngôn ngữ mà còn thỏa mãn nhu cầu văn hóa xã hội.

Bài nghiên cứu này không chỉ là sự tự hào về tiếng Việt mà còn là lời kêu gọi bảo vệ vẻ đẹp của ngôn ngữ. Việc đọc và suy ngẫm về bài viết này là cách tốt nhất để tăng niềm tin vào tương lai rạng ngời của tiếng Việt.

Văn bản sự giàu đẹp của tiếng việt năm 2024

Hình ảnh minh họa (Nguồn từ internet)

4. Phân tích tác phẩm 'Sự giàu đẹp của tiếng Việt' số 5

Tiếng Việt, một bảo tàng hình ảnh, hình tượng. Với những từ ngữ phong phú, từ ghép sáng tạo, và những biểu tượng ngôn ngữ, tiếng Việt mở ra không gian hình ảnh rực rỡ trong tâm trí của người nghe.

Nhớ những lúc ngày xưa, thầy giáo nói với tôi: 'Tiếng Việt ta vô cùng giàu và tuyệt vời, hãy trân trọng và yêu quý nó' (lúc ấy, tôi đang tự học vài từ tiếng Pháp từ anh trai, và thêm vài từ tiếng Nga từ chị hàng xóm mới trở về. Trong bài văn của mình, tôi đã xen kẽ cả tiếng Pháp và tiếng Nga. Nhớ lại, tôi hiểu thầy nói như thế có ý gì). Nhưng đến khi học lớp 6 và lớp 7, tôi đắm chìm trong những bài thơ tình cảm, và tôi mới thấu hiểu ý của thầy. Nghĩ về những suy nghĩ hồn nhiên và ngây thơ của mình ngày xưa, tôi càng trở nên tự hỏi và hối hận.

Đã có không ít nghiên cứu về vẻ đẹp của tiếng Việt. Phạm Văn Đồng viết về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, Đặng Thai Mai nói về Tiếng Việt là biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc... Các nhà văn, nhà thơ không cần nói nhiều, họ chỉ im lặng đánh bóng cho tiếng Việt trở nên 'trong sáng' và 'phong phú' hơn, ngày càng trở nên 'tốt đẹp' và 'thịnh vượng' hơn. Thật sự, tiếng Việt là một kho tàng vô tận, đẹp đẽ. Nó không chỉ giỏi tạo hình, mà còn là ngôn ngữ giàu nhạc âm, một hệ thống âm điệu đa dạng với âm độ, âm vực, làm cho tiếng Việt có thể phát ra nhiều giai điệu khác nhau: lúc du dương nhưng trầm bổng, lúc róc rách, lúc thì sâu lắng, lúc lại êm đềm... Hãy lắng nghe giai điệu êm đềm, đằm thắm của câu ca dao:

Giữa trúc la đà, gió đưa cành trúc

Chuông kêu Chấn Vũ, canh gà Thọ Xương

Khói mịt toả ngàn sương

Chày Yên Thái, gương nước Tây hồ

Cảm nhận âm điệu của những 'dấu huyền ngọt ngào' (Xuân Diệu) trong câu thơ Chinh phụ ngâm:

Nước còn lọc trong như ngọc đầu cầu

Cỏ non mọc đầy bên đường cầu

Và giai điệu hùng tráng, tinh tế của câu thơ Tố Hữu:

Tổ quốc ta ơi, đẹp vô cùng

Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt

Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát

Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca

.

Ngoài khả năng tạo hình và âm điệu, tiếng Việt còn có sức mạnh biểu cảm, sức mạnh truyền đạt cảm xúc. Nó có khả năng thể hiện tinh tế những tâm trạng khác nhau trong cuộc sống nội tâm phong phú của con người Việt. Chỉ cần xem xét về cách diễn đạt tâm trạng nhớ nhung, ta sẽ thấy điều kì diệu. Tâm trạng nhớ nhung như một hình ảnh:

Anh đi, lòng nhớ quê hương

Nguyên cảnh rau muống, cảnh cây cà dầm tương

Nhớ gió đưa mùi đất đường

Nhớ cảnh tát nước bên đường mòn

(Trần Tuấn Khải)

Tâm trạng nhớ nhung sâu sắc, xúc động:

Nhớ người bổi hồi, bồi hồi

Như đứng trước lửa, như ngồi trên đống rơm

(Ca dao)

Nỗi buồn mênh mang, thấm thía:

Chàng ra đi giữa bão gió

Thiếp quay về, chiếc chăn ấm êm

Điệu thư sinh, nước sông xanh thắm

Chuyến phà rời bến nước Bình Ca

.

Vốn từ ngữ tiếng Việt rất đa dạng và độc đáo. Chẳng hạn, trong các từ ngữ xưng hô, người Việt thường sáng tạo bằng cách sử dụng các danh từ chỉ mối quan hệ gia đình để thể hiện tình cảm, khiến cho cách diễn đạt trở nên phong phú và giàu cảm xúc hơn. Cách sử dụng từ ngữ xưng hô cũng rất độc đáo. Có thể thấy có 'ai' nhưng lại thêm 'ta', sau đó là 'mình'. Những từ này đôi khi là người nói, đôi khi là người nghe, và đôi khi lại bao hàm cả hai. Chỉ cần xét ví dụ về từ 'mình' trong hai câu thơ dưới đây đã đủ thấy sự phong phú:

Mình đi, minh lại nhớ mình

Nguồn ý nghĩa nhiều như nước chảy

(Tố Hữu)

Mình nói với ta mình hãy giữ son

Ta đi ngang, thấy con mình bò

Con mình lấm đất và tro

Ta đi gánh nước, cho con mình

(Ca dao)

Khi tìm hiểu sâu hơn về tiếng Việt, ta càng kinh ngạc trước sự phong phú và đẹp đẽ của nó, và càng yêu mến tiếng Việt hơn.

Văn bản sự giàu đẹp của tiếng việt năm 2024

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

5. Phân Tích Tác Phẩm 'Sự Tinh Tế Của Tiếng Việt' Số 4

Tác phẩm 'Sự Tinh Tế Của Tiếng Việt' là một đoạn nhỏ được trích từ bài viết 'Tiếng Việt, Một Hiện Thân Của Sức Sống Dân Tộc' của Giáo Sư Đặng Thái Mai viết vào năm 1967.

Mở đầu, tác giả tỏ ra tự hào với tiếng Việt, tin tưởng vào tương lai rạng ngời của ngôn ngữ này trong tâm hồn mỗi người con Việt Nam hiện đại.

Đoạn văn (3 câu) tiếp theo, giáo sư giải thích về những đặc điểm xuất sắc của tiếng Việt, một ngôn ngữ đẹp và tinh tế. Về mặt âm hưởng và thanh điệu, nó 'hài hòa'; cách đặt câu, 'tế nhị và uyển chuyển'. Tiếng Việt không chỉ giàu có, phong phú 'diễn đạt tốt cảm xúc, tư duy của người Việt Nam và đáp ứng đầy đủ yêu cầu của văn hóa qua các giai đoạn lịch sử.' Nhận định này sâu sắc.

Đoạn thứ ba có 22 câu, tác giả sử dụng 21 câu để chứng minh về sự đẹp và tinh tế của tiếng Việt, và một câu để tổng kết. Giáo sư chỉ ra rằng, về mặt cấu trúc, tiếng Việt có những đặc điểm đẹp độc đáo. Đẹp như thế nào? Nhiều người nước ngoài đến thăm Việt Nam, tiếp xúc với cộng đồng địa phương, đã nhận xét: 'Tiếng Việt có âm thanh như nhạc.' Một học giả phương Tây (thạo tiếng Việt) đã ca ngợi tiếng Việt là 'đẹp' và 'lưu loát trong diễn đạt, uyển chuyển trong cú pháp, hài hòa trong tục ngữ.' Tác giả đã sử dụng trích dẫn, một phong cách viết nghiêm túc 'nói có sách, mách có chứng' (xem chú thích 1 SGK Ngữ Văn 7, trang 138).

Tiếng Việt thực sự đẹp, 'có một hệ thống nguyên âm và phụ âm phong phú,' lại 'thuần khiết về âm điệu' (2 thanh bằng và 4 thanh trắc). Vì thế, tiếng Việt 'phong phú về hình tượng ngôn ngữ như các giai điệu trong bản nhạc trầm bổng.' Tiếng Việt đẹp, 'cân đối và nhịp nhàng' về mặt ngữ pháp; từ vựng phong phú ở cả ba lĩnh vực thơ, nhạc, hội họa. Và Giáo sư thêm rằng: 'Hiệu quả của đặc điểm này đối với văn học là rất quan trọng.' Chúng tôi có thể minh họa: 'Cân đối, nhịp nhàng' là vẻ đẹp tự nhiên của câu văn tiếng Việt:

'Miền Nam là máu của dòng máu Việt Nam, thịt của thịt Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý này không bao giờ thay đổi' (Hồ Chí Minh). 'Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân với cơn mưa riêu riêu, gió mát lạnh, tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, câu hát huế tình của cô gái xinh đẹp như thơ như mộng' (Vũ Bằng)

Tiếng Việt thực sự tuyệt vời, nó đáp ứng được nhu cầu xã hội, vì nó là 'công cụ giao tiếp tình cảm, ý nghĩa giữa con người với con người.' Tiếng Việt tuyệt vời như thế nào? Về từ vựng, nó 'ngày càng trở nên phong phú' (giàu có). Về ngữ pháp, nó 'ngày càng trở nên lưu loát, chính xác' (tươi sáng).

Tiếng Việt 'không ngừng sáng tạo từng từ mới, từ cách diễn đạt mới hoặc Việt hóa từ và cách diễn đạt của các dân tộc anh em và các dân tộc láng giềng để đáp ứng yêu cầu ngày càng phức tạp về mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật...' Cuối đoạn, giáo sư khẳng định rằng, tiếng Việt, về mặt cấu trúc, về khả năng thích ứng với hoàn cảnh lịch sử, đã chứng minh 'sức sống của nó.' Đó là câu kết đoạn.

Tác phẩm trên đây là một bài luận chứng minh, đã khẳng định và tán thưởng vẻ đẹp của tiếng Việt. Trước khi chứng minh, tác giả đã giải thích một cách ngắn gọn. Phần chứng minh, cách lập luận rất chặt chẽ, được thể hiện thông qua một hệ thống lý lẽ và dẫn chứng làm rõ 2 quan điểm: tiếng Việt đẹp, tiếng Việt tuyệt vời (phong phú, tươi sáng). Cách khai triển đoạn, cách trình bày lý lẽ và dẫn chứng, cách chuyển ý chuyển đoạn, cách tổng kết của giáo sư vừa khoa học, vừa tinh tế.

Đọc tác phẩm này, chúng ta càng thêm yêu quý và tự hào về vẻ đẹp của tiếng Việt. Đồng thời, chúng ta học cách viết của Giáo Sư Đặng Thái Mai: cách sử dụng từ ngôn ngữ, đặt câu, cách chứng minh... là một tấm gương.

Văn bản sự giàu đẹp của tiếng việt năm 2024

Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

7. Phân Tích Tác Phẩm 'Vẻ Đẹp Tiếng Việt' Số 7

Dân tộc Việt Nam ta tự hào với ngôn ngữ đẹp và phong phú của mình. Tiếng Việt không chỉ đẹp vì là kết quả của lịch sử lao động và chiến đấu bảo vệ quê hương, mà còn vì là ngôn ngữ thể hiện đời sống phong phú và tâm hồn đẹp của nhân dân Việt Nam.

Độ giàu đẹp của tiếng Việt nằm ở cả tiếng nói của cộng đồng trong tục ngữ và ca dao, cũng như trong lời văn của các nhà văn, nhà thơ lớn đã trau chuốt và nâng cao nó lên tới tầm nghệ thuật.

Tục ngữ và ca dao là ngôn ngữ của nhân dân, giản dị và dễ hiểu. Chúng đã ngày càng được trau chuốt tinh tế hơn, là tấm gương phản ánh đời sống đa dạng của con người Việt Nam. Câu ca dao như 'Hình như nước đổ từ trên trời' là một ví dụ, thể hiện sự tình tế và sâu sắc của ngôn ngữ.

Thơ Nguyễn Du cũng là một minh chứng cho vẻ đẹp của tiếng Việt:

Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.

Những bài thơ của những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng khác như Hồ Chí Minh, Tố Hữu... đều phản ánh sự đẹp và giàu tình cảm của tiếng Việt.

Chúng ta hãy trân trọng và yêu quý ngôn ngữ Việt Nam, với lòng tự hào và sự nỗ lực duy trì vẻ đẹp tự nhiên của nó.

Văn bản sự giàu đẹp của tiếng việt năm 2024

Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

7. Bài văn phân tích tác phẩm 'Sự tinh tế của tiếng Việt' số 6

Đặng Thai Mai (1902-1984), một nhà văn, giáo sư nổi tiếng trong văn học Việt Nam hiện đại, từng là Bộ trưởng Bộ giáo dục và Viện trưởng của Viện Văn học Việt Nam trong thế kỷ trước. Ông am hiểu về nho học, văn học cổ điển Pháp, văn học hiện đại Trung Quốc và văn học cận đại Việt Nam. Kiến thức này là cơ sở cho những lý luận phê bình văn học của ông trong các công trình nghiên cứu nổi tiếng như Lỗ Tấn (1944), Văn thơ Phan Bội Châu (1958),... Ông nhìn nhận sâu sắc về thơ ca của các tác giả Việt Nam hiện đại, đồng thời đánh giá cao những nghiên cứu cải cách tiếng Việt của các giáo sư trong nước.

Trong bài nghiên cứu 'Sự giàu đẹp của tiếng Việt' (1967), Đặng Thai Mai mở đầu bằng câu khẳng định về niềm tự hào của người Việt Nam trong tiếng nói của mình và niềm tin vào tương lai của tiếng Việt. Ông nhấn mạnh đặc sắc và tuyệt vời của tiếng Việt, diễn đạt sự hài hòa trong âm hưởng, tế nhị và uyển chuyển trong cách đặt câu, cũng như vai trò tuyệt vời của tiếng Việt trong diễn đạt tư tưởng và tình cảm của nhân dân qua các giai đoạn lịch sử.

Đặng Thai Mai chứng minh sự đẹp của tiếng Việt bằng lời nhận xét của người ngoại quốc về 'chất nhạc' của tiếng Việt. Ông còn đưa ra đánh giá của giáo sĩ phương Tây về sự 'đẹp' và sự rành mạch trong ngôn ngữ Việt. Ông tự hào về hệ thống nguyên âm phụ âm phong phú và 6 thanh điệu của tiếng Việt, so sánh nó với âm nhạc trầm bổng.

Luận điểm thứ hai của ông là tiếng Việt là một ngôn ngữ 'hay' và đã đóng góp vào sự hoàn hảo của hệ thống ngôn ngữ. Tiếng Việt không chỉ đẹp về hình thái và âm sắc mà còn phải đáp ứng chức năng truyền đạt tình cảm và ý nghĩa giữa con người. Ông nhấn mạnh sự phong phú về từ vựng và sự hoàn thiện về ngữ pháp của tiếng Việt qua các thời kỳ lịch sử.

Cuối cùng, ông khẳng định rằng sức sống của tiếng Việt chính là sức sống của dân tộc. Bằng cách này, trong bài nghiên cứu Sự giàu đẹp của tiếng Việt, Đặng Thai Mai không chỉ thể hiện sự tinh tế và uyển chuyển trong lập luận mà còn truyền đạt đầy đủ niềm đam mê và lòng yêu nước của mình đối với tiếng Việt.

Văn bản sự giàu đẹp của tiếng việt năm 2024

Hình minh họa (Nguồn trên mạng)

Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc và tăng trải nghiệm khách hàng. Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng liên hệ tổng đài chăm sóc: 1900 2083 hoặc email: [email protected]