Miền bắc rút ra bài học gì sau cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của mĩ (1964 – 1968) ?

HQVN -

Chiến công chống đế quốc Mỹ phong tỏa sông biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường là một chiến công to lớn của quân dân miền Bắc nói chung và của Hải quân nhân dân Việt Nam nói riêng đã góp phần quan trọng cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục tiến lên “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chiến công này đã đi vào lịch sử như một kỳ tích chiến đấu, làm phong phú thêm kho tàng nghệ thuật chống giặc giữ nước của dân tộc ta, đồng thời đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.

Nghiên cứu thủy lôi địch để tìm phương pháp rà phá.

Trước thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh và quân các nước chư hầu của Mỹ vào miền Nam; đồng thời âm mưu mở rộng cuộc chiến tranh leo thang phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Đầu năm 1967, Mỹ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai trên chiến trường miền Nam và ngày càng đẩy mạnh việc đánh phá bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Máy bay, tàu chiến Mỹ đêm ngày đánh phá các mục tiêu trên đất liền một cách điên cuồng, gây nhiều tội ác đối với nhân dân ta. Đồng thời, chúng thả thủy lôi, bom từ trường xuống các bến cảng, cửa sông ven biển, các khu tập kết chuyển tải hàng hóa và các bến phà trên sông, biển miền Bắc. Chúng thả nhiều đợt, mỗi đợt thực hiện theo một phương thức mới, kết hợp nhiều loại thủy lôi, bom mìn, có sự cải tiến và mức độ ngày càng nguy hiểm hơn.

Đợt một, từ ngày 26-2 đến 20-5-1967. Lúc đầu chúng thả 106 quả thủy lôi xuống 4 cửa sông lớn là sông Mã, sông Lam, sông Gianh và sông Nhật Lệ thuộc địa bàn Quân khu 4. Riêng ở Hải Phòng, chúng thả ở các luồng lạch xung quanh thành phố với ý đồ vừa thăm dò dư luận, vừa xem khả năng phản ứng của ta. Tiếp đó, chúng dùng máy bay A6A, AD6, F4, F7, F8… liên tục thả hàng ngàn quả thủy lôi MK- 50 [loại thủy lôi cảm ứng âm thanh] và MK-52 [loại thủy lôi cảm ứng từ trường], hình thành những tuyến chướng ngại trên khắp các cửa sông, biển miền Bắc.
Do đặc điểm các dòng sông ở miền Bắc có luồng chảy hẹp, uốn lượn ngoằn ngoèo và bị hỏa lực dày đặc của các lực lượng phòng không 3 thứ quân của ta đánh trả quyết liệt, nên máy bay địch không thể bay thấp để thả thủy lôi trúng luồng. Những quả thủy lôi rơi trúng luồng cũng ít phát huy tác dụng vì bị ta phát hiện, rà phá, tháo gỡ. Do vậy, trong đợt hai, từ tháng 6-1967 đến tháng 10-1968, địch đã sử dụng bom từ trường DST-36 để thay thế các loại thủy lôi. Đây là loại vũ khí rất nguy hiểm, có tác dụng chiến đấu cả ở trên cạn và dưới nước. Khi được thả từ máy bay xuống, bom từ trường chìm sâu dưới đất nên rất khó phát hiện và có phát hiện được cũng rất khó đưa lên, nhất là ở dưới nước, nên mức độ nguy hiểm của nó lớn hơn rất nhiều. Với âm mưu cắt đứt hoàn toàn các tuyến giao thông thủy bộ của ta, địch thả hàng ngàn quả thủy lôi, bom từ trường DST-36 xen lẫn với bom phá dưới các cửa sông, bến phà, bến cảng, cửa biển. Những khu vực trọng điểm chúng thả với mật độ dày hơn. Trong cả hai đợt, từ tháng 2-1967 đến tháng 10-1968, đế quốc Mỹ thả 74.718 quả bom mìn các loại, trong đó có gần 7000 quả thủy lôi và bom từ trường phong tỏa 24 cửa sông, biển lớn nhỏ từ Cửa Tùng [ Vĩnh Linh] đến của Văn Úc [Hải Phòng]. Riêng khu vực xung quanh cảng Hải Phòng chúng đã thả trên 1.500 quả, sông Gianh 2.000 quả, cửa Ròn 1.500 quả… Vào giai đoạn cuối địch thả những loại thủy lôi, bom từ trường đã được cải tiến như DST-36 Modl, DST-36 Mod2, DST- 36 Mod3 [chủ yếu là cải tiến đầu nổ MK42 theo các Modl1, Mod2, Mod3] để ta khó tháo gỡ, làm mất tác dụng chiến đấu của vũ khí thủy lôi, bom từ trường của chúng.

Nhằm làm gián đoạn giao thông giữa Hải Phòng, thành phố cảng lớn nhất của miền Bắc với các tỉnh, địch đã ném bom phá sập cầu Rào, cầu Niệm và thả dày đặc bom từ trường DST-36 xuống dưới lòng sông, bịt các cửa sông, bến phà xung quanh thương cảng, gây khó khăn cho vận chuyển hàng hóa viện trợ của nước ngoài vào cảng và từ cảng không thể chuyển đi nơi khác, với ý đồ biến thành phố cảng thành hòn đảo cô lập với nội địa. Không những thế, đế quốc Mỹ còn liên tục cho máy bay giám sát các tàu chở hàng của Liên Xô, Cu Ba và các nước XHCN anh em trên đường từ biển vào cảng Hải Phòng; chúng đã bắn tên lửa, rốc két vào hai tàu chở hàng của Liên Xô đang đậu ở Cảng, gây thiệt hại về vật chất và làm thương vong một số sỹ quan, thủy thủ của đội tàu, bất chấp sự phản đối của dư luận.

Để chủ động đối phó với nguy cơ địch sử dụng thủy lôi phong tỏa vùng biển miền Bắc, ngay từ đầu năm 1966, Đảng ủy Quân chủng Hải quân ra Nghị quyết lãnh đạo Quân chủng chủ động xây dựng kế hoạch chống địch phong tỏa đường thủy. Đến đầu tháng 4-1966, kế hoạch chống địch phong tỏa cơ bản hoàn thành và được Bộ Tư lệnh Quân chủng thông qua.
Ngày 1-6-1966, Thường vụ Quân ủy Trung ương xác định vấn đề chống phong tỏa các cảng là một nhiệm vụ cấp thiết và chỉ đạo Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hải quân tích cực nghiên cứu kế hoạch, chuẩn bị đối phó.

HQVN

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 bắt đầu nổ ra vào rạng sáng ngày 30-1-1968. Hàng vạn binh lính của quân đội Bắc Việt và Việt Cộng đã phối hợp thực hiện hàng loạt các cuộc tấn công bất ngờ vào hơn 100 thành phố, thị xã, thị trấn và các căn cứ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, gây choáng váng cho cả lính Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa ngay vào đúng dịp năm mới Mậu Thân.

Lính thủy quân lục chiến Mỹ bị thương trong trận đánh tại Huế năm 1968. Ảnh:AP

Những bài học từ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 vẫn còn vang vọng. “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã định hình nên thế giới chúng ta sống hôm nay. Trong đó, dư luận Mỹ vẫn không hoàn toàn tin tưởng rằng, các quan chức Chính phủ sẽ thông tin chính xác cho người dân về những diễn biến bên ngoài. Họ cũng không có niềm tin rằng giới lãnh đạo sẽ hành động đúng...”, sử gia Julian E.Zelizer của Đại học Princeton đã nhận xét như vậy.

Một trong những sự kiện đáng hổ thẹn nhất đối với Mỹ là cuộc tấn công táo bạo của đối phương nhằm vào tòa Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn. Các kênh truyền hình Mỹ đều phát sóng những hình ảnh sắc nét về cuộc tấn công này, khiến dư luận Mỹ và thế giới bất ngờ. Một sự kiện khác cũng phải kể đến là việc đối phương chiếm được thành phố Huế và giao tranh khốc liệt đã kéo dài ba tuần liền tại đây.

Trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson và tướng William Westmoreland, Tổng tư lệnh Quân đội Mỹ tại Việt Nam, đã tuyên bố rằng chiến thắng đang ở trong tầm tay. Đến giữa tháng 2-1968, tức là khoảng hai tuần sau khi nổ ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đã có 2.000 lính Việt Nam cộng hòa và 1.000 lính Mỹ bị thiệt mạng trong khi con số bị thương lên đến 12.000 và một nửa trong số này là lính Mỹ. Con số thương vong này tiếp tục gia tăng cho đến khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 kết thúc vào cuối tháng 2-1968.

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, nhiều người Mỹ nhận ra rằng, tuyên bố của Tổng thống Lyndon Johnson và tướng William Westmoreland là sai lầm. Chính tướng William Westmoreland đã gián tiếp thừa nhận điều đó khi đề nghị bổ sung 200.000 quân để theo đuổi cuộc chiến. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được các hãng truyền thông Mỹ đưa tin dày đặc. Một trong những hình ảnh tàn ác nhất, ám ảnh dư luận chính là bức ảnh của hãng tin AP chụp cảnh tướng Nguyễn Ngọc Loan, tổng giám đốc tổng nha cảnh sát quốc gia Việt Nam cộng hòa, rút súng bắn vào đầu một chiến sĩ Việt Cộng bị trói tay ngay trên phố. Người dân Mỹ nhận ra rằng, nước Mỹ không thể giành chiến thắng trong cuộc chiến này và đã đến lúc phải rút quân khỏi Việt Nam. Phong trào phản chiến tại Mỹ bắt đầu dâng cao.

Lính Mỹ và ngụy tại Sài Gòn năm 1968. Ảnh:AP

Đánh giá về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 khi đó, Walter Cronkite, phát thanh viên của đài CBS đã tuyên bố trên sóng truyền hình: “Có một điều chắc chắn hơn bao giờ hết đó là cuộc chiến tranh đẫm máu tại Việt Nam đang rơi vào bế tắc. Nếu nói rằng chúng ta đang chạm gần tới chiến thắng thì chẳng khác nào chúng ta bỏ qua các bằng chứng thực tế để tin vào những người lạc quan vốn từng phạm sai lầm”.

Đến tháng 3-1968, cuộc thăm dò dư luận của hãng Harris Poll cho thấy, chỉ 26% người dân Mỹ tán thành với cách xử lý cuộc chiến tranh Việt Nam của Tổng thống Lyndon Johnson so với con số 34% hồi tháng 11-1967. “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cho thấy rằng, Tổng thống Lyndon Johnson và tướng William Westmoreland đang dối trá về việc “tiến tới một điểm quan trọng, tại đó hồi kết bắt đầu ló rạng” như tướng Mỹ từng tuyên bố. Ngoài những tổn thất gây ra đối với uy tín của Tổng thống Lyndon Johnson, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đầy bất ngờ, phơi bày sự khoác loác của chính quyền Mỹ về một viễn cảnh chiến thắng, đã giáng một đòn đau vào niềm tin của dư luận dành cho chính quyền Mỹ”, sử gia Julian E.Zelizer nhận xét.

Một bài học khác đó là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cho thấy, mặc dù Mỹ có chiếm ưu thế về quân sự và công nghệ chiến tranh như thế nào đi chăng nữa, thì một đối thủ đầy sự quyết tâm và lòng quả cảm luôn biết tìm cách để giành chiến thắng trong các trận đánh cũng như thuyết phục được dư luận Mỹ phản chiến.

50 năm trước, qua cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, hàng triệu người dân Mỹ ý thức được rằng đối phương sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp độc lập của đất nước mình và đủ khả năng gây thương vong lớn cho quân đội Mỹ. Điều này đã làm suy giảm ý chí chiến đấu của phía Mỹ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã ám ảnh Lầu Năm Góc trong nhiều thập niên. Cuộc chiến của Mỹ tại Iraq và Afghanistan-cuộc chiến dài nhất trong lịch sử xứ cờ hoa, cho thấy lịch sử có thể lập lại. Hiện nay, kẻ thù trở nên ngày càng đa dạng và phân tán hơn, cả bên ngoài lẫn bên trong nước Mỹ. Những mối đe dọa là có thật. Trong khi đó, sức mạnh của Mỹ cũng có hạn, giống như những gì đã thể hiện rõ nét trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cách đây nửa thế kỷ.

HOÀNG VŨ [lược dịch]

Video liên quan

Chủ Đề