Ngừng hô hấp là gì
Bài giảng Cấp cứu ngừng tuần hoàn cơ bảnNguồn : TÀI LIỆU ĐÀO TẠO THỰC HÀNH LÂM SÀNG CHO ĐIỀU DƯỠNG VIÊN MỚI NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC HÀ NỘI - Bộ Y tế 2020 Show GIỚI THIỆUNgừng tuần hoàn là trạng thái tim ngừng cung cấp máu cho cơ thể, đặc biệt là các cơ quan quan trọng như não, tuần hoàn vành, phổi... Có 3 trạng thái cơ bản là: vô tâm thu, rung thất và phân ly điện cơ. Một số thuật ngữ khác gọi tên cấp cứu trạng thái ngừng tuần hoàn như: cấp cứu ngừng tim phổi, hồi sinh chết lâm sàng, hồi sinh tim-phổi, hồi sinh tim-phổinão... Ngừng tuần hoàn có thể xảy ra đột ngột trên một quả tim hoàn toàn khoẻ mạnh trong các tai nạn do điện giật, đuối nước, sốc phản vệ, đa chấn thương... có thể là hậu quả cuối cùng của một bệnh lý mạn tính giai đoạn cuối như ung thư, xơ gan, suy tim, suy thận... Mục đích của cấp cứu: Trong điều kiện nhanh nhất có thể cần cung cấp được máu cùng với oxy đến cho tế bào não, nhất là trong vòng 5 phút đầu kể từ lúc ngừng tim. Vì vậy, cấp cứu ngừng tim - phổi cần tiến hành tại chỗ, khẩn trương kiên trì và đúng kỹ thuật. Hậu quả sinh lý bệnh của thiếu máu não Tế bào não là tế bào đặc biệt nhất trong cơ thể, khi đã tổn thương thì không có tái tạo và bù đắp như các tế bào khác. Trong điều kiện bình thường khả năng chịu đựng thiếu oxy của não tối đa là 5 phút. Khoảng thời gian này còn gọi là giai đoạn chết lâm sàng và việc cấp cứu nhằm cung cấp lại máu và oxy cho não phải được tiến hành trong giai đoạn này mới có thể cứu sống được bệnh nhân. Quá thời gian này, các tế bào não bị tổn thương không còn khả năng hồi phục và bệnh nhân chuyển sang giai đoạn chết sinh vật hay chết não. Trong một số trường hợp đặc biệt, khả năng chịu đựng thiếu oxy não có thể kéo dài hơn như: ngừng tim trong điều kiện hạ thân nhiệt (mổ với tuần hoàn ngoài cơ thể - hạ thân nhiệt, ngừng tim ngoài trời băng tuyết, chết đuối trong nước lạnh...), ngừng tim mà trước đó có sử dụng các thuốc làm giảm tiêu thụ oxy não như barbituric, trẻ sơ sinh... TRIỆU CHỨNG VÀ XÁC ĐỊNH NGƯỜI BỆNH NGỪNG TUẦN HOÀNDựa vào 3 triệu chứng cơ bản sau: Mất ý thức đột ngột: được xác định khi bệnh nhân gọi hỏi không có đáp ứng trả lời, không có phản xạ thức tỉnh. Ngừng thở hoặc thở ngáp: xác định khi lồng ngực và bụng bệnh nhân hoàn toàn không có cử động thở. Mất mạch cảnh: Động mạch cảnh không có (cần bắt mạch cảnh cả 2 bên) Ngoài ra bệnh nhân còn có các triệu chứng khác như: da nhợt nhạt hoặc tím tái, giãn đồng tử và mất phản xạ đồng tử với ánh sáng, nếu bệnh nhân đang được phẫu thuật sẽ thấy máu ở vết mổ tím đen và ngừng chảy. Nếu bệnh nhân đang thở máy, hôn mê thì thấy monitoring tim báo động ngừng tim, SpO2 giảm đột ngột. NGUYÊN TẮC CHUNG KHI XỬ TRÍ CẤP CỨU NẠN NHÂN BỊ NGỪNG TIM, NGỪNG THỞNhanh chóng đưa nạn nhân ra khỏi nơi bị nạn. Đặt nạn nhân nằm trên nền cứng, bằng phẳng, thoáng khí. Nới rộng quần áo và các dây nai nịt như: thắt lưng, caravat, áo lót (đối với nữ). Làm thông đường hô hấp bằng cách: Đặt cổ nạn nhân ngửa tối đa. Lau sạch đất, cát quanh mũi, miệng. Mở miệng: móc, hút sạch đất, cát, đờm dãi... Tiến hành hồi sinh tim phổi được tiến hành càng sớm càng tốt xong phải kiên trì và làm liên tục. Trong quá trình tiến hành hồi sinh tim phổi phải theo dõi và đánh giá được tiến triển của nạn nhân: Tiến triển tốt: Hô hấp phục hồi, da đầu chi, môi nạn nhân hồng dần, tim đập trở lại. Tiếp tục sơ cứu đến khi nạn nhân thở đều và sâu. Tiến triển xấu: Hô hấp và tuần hoàn không phục hồi, da xanh nhợt, đồng tử giãn sau 30 phút không cứu nữa. CẤP CỨU NGỪNG TUẦN HOÀN CƠ BẢNKhi phát hiện bệnh nhân bị ngừng tuần hoàn thì phải tiến hành cấp cứu ngay. Có rất nhiều các hướng dẫn về cấp cứu ngừng tuần hoàn cho người bệnh như: Hướng dẫn thực hành 55 kỹ thuật điều dưỡng cơ bản tập 2 của Bộ Y tế (2010), Tài liệu đào tạo cấp cứu cơ bản (2014) của Bộ Y tế, Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ-AHA (2010). Trong tài liệu đề cập đến cấp cứu ngừng tuần hoàn cơ bản theo khuyến cáo của AHA với trình tự cấp cứu CABD (ép tim ngoài ngực, giải phóng đường thở, thổi ngạt, thuốc và sốc điện). Ép tim ngoài ngực (Chest compressions)Ép tim ngoài lồng ngực là một thủ thuật dùng lực mạnh ép nhịp nhàng lên 1/3 dưới xương ức, khi ép làm thay đổi thể tích trong buồng tim kích thích để tim đập lại, vòng tuần hoàn được phục hồi. Giải phóng đường thở (Airway)Là làm sạch các dị vật trong đường thở của người bệnh giúp đường thở thông thoáng đảm bảo cho việc hỗ trợ hô hấp hiệu quả. Người bệnh được đặt nằm ngửa trên nền cứng, đầu và cổ ở tư thế ưỡn tối đa, mặt quay về một bên. Sỡ dĩ phải làm như vậy vì khi ngừng tim, các trương lực cơ mất đi khiến cho xương hàm dưới và gốc lưỡi rơi xuống chẹn lấp đường thở của nạn nhân cản trở động tác hô hấp nhân tạo. Người cấp cứu dùng tay mở miệng người bệnh ra, dùng các ngón tay móc sạch đờm dãi và dị vật nếu như có thể lấy được. Với các dị vật ở sâu và khó lấy, không nên cố lấy dị vật vì làm mất thời gian và có thể đẩy dị vật vào sâu thêm hoặc gây tắc hoàn toàn đường thở. Có thể áp dụng nghiệm pháp Heimlich để làm bật các dị vật đường thở ra ngoài. Thổi ngạt (Breathing: hô hấp nhân tạo hay thổi ngạt)Thổi ngạt là phương pháp cấp cứu nạn nhân ngừng hô hấp đột ngột do nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên. Thổi ngạt là kỹ thuật được tiến hành bằng cách người cứu nạn nhân thổi trực tiếp hơi thở của mình qua miệng người bị nạn hoặc bóp bóng. Bóp bóng là phương pháp thường dùng nhất để giúp thở áp lực dương đối với các toán cấp cứu trong và ngoài bệnh viện. Quả bóng được dùng thường có thể tích 1600 mL, đủ để làm phổi giãn nở. Phương pháp này chỉ thực sự có hiệu quả khi có 2 người cứu có kinh nghiệm cùng làm. Thuốc và sốc điện (Defibrillation)Thuốc đầu tay sử dụng trong cấp cứu ngừng tuần hoàn là adrenalin - đóng ống 1mg/1ml, thuốc kích thích thụ thể adrenergic trên hệ thần kinh tự động của tim (đặc biệt là nút xoang) làm cho tim đập lại. Liều dùng là 1mg cho 1 lần tiêm (adrenalin cần pha trong 20 ml huyết thanh mặn 0,9% và tiêm nhanh vào TM), nhắc lại 5 phút một lần nếu như tim chưa đập lại, có thể tăng liều lên 3 mg cho một lần tiêm nếu như dùng liều 1mg không có hiệu quả. Đường tiêm adrenalin: tốt nhất là tiêm TM trung tâm, nếu tiêm TM ngoại vi cần chọn TM cảnh ngoài, TM đầu hoặc TM nền cánh tay, hoặc tiêm vào dây truyền (cần nâng cao chi và cho dịch truyền chảy nhanh với mục đích làm cho thuốc về tuần hoàn trung tâm nhanh hơn. Không sử dụng TM ở chi dưới vì ít hiệu quả. Có thể tiêm thuốc vào khí quản NB, khi chưa tiêm được thuốc vào TM, Liều dùng cao hơn (5mg adrenalin pha trong 5ml huyết thanh mặn 0,9%), tiêm vào khe sụn giápnhẫn, sau khi rút kim ra, NB phải được thông khí và ép tim ngay. Đường tiêm cuối cùng là tiêm thuốc vào buồng tim (khi các đường tiêm trên không thực hiện được hoặc không có hiệu quả): chọn kim tiêm dài 7 - 10 cm, đường kính cỡ 18 - 20G để hạn chế tổn thương cơ tim. Vị trí tiêm là khoang liên sườn 4 - 5 sát cạnh xương ức bên trái, sát bờ trên xương sườn dưới. Hướng kim là từ dưới lên trên, từ ngoài vào trong, từ trước ra sau, vừa chọc vừa hút nhẹ bơm tiêm đến khi máu trào vào bơm tiêm một cách dễ dàng chứng tỏ mũi kim đã nằm trong buồng tim thì bơm nhanh thuốc vào. Sau khi rút kim ra NB cần được ép tim và thông khí ngay. Phá rung bằng sốc điện Rung thất là tình trạng các thớ cơ tim rung lên một cách hỗn loạn, không còn khả năng tống máu đi nuôi cơ thể (được coi là ngừng tuần hoàn). Phá rung bằng sốc điện là dùng dòng điện có hiệu điện thế thấp nhưng có cường độ lớn phóng qua trục của tim, nhằm xoá sạch các ổ phát xung hỗn loạn, khôi phục lại tính tự động bình thường của hệ thần kinh tim. Sốc điện cấp cứu phá rung thất sẽ có hiệu quả nhất nếu thực hiện trong vòng 5 phút đầu sau khi chẩn đoán ngừng tuần hoàn. Tiến hành phá rung bằng sốc điện. Kiểm tra trên monitor để ghi nhận sự đồng bộ sóng R trên ECG. Chọn đạo trình có biên độ sóng R lớn nhất. Kích thước điện cực (Paddle): rất quan trọng, ảnh hưởng đến trở kháng lồng ngực và cường độ xung điện qua tim. Người lớn: 8-10 cm đường kính Trẻ em: 5cm đường kính. Gel bôi điện cực: Điện cực phải được phủ gel dẫn điện đầy đủ để tránh gây bỏng da. Không được sử dụng cồn thay cho gel. Phải bảo quản điện cực sạch sẽ, tránh gỉ sét, lau chùi sạch gel sau khi sử dụng. Không được bôi gel vào vùng da giữa 2 vị trí đặt điện cực. Vị trí đặt điện cực: Quyết định đường đi của xung điện qua lồng ngực. Cần đặt sao cho phần cơ tim nằm trên đường đi này là lớn nhất. Vị trí đặt điện cực sai là nguyên nhân phổ biến nhất của phá rung thất bại. Có 2 cách đặt điện cực: Trước- bên hay đáy- mỏm (Antero- lateral placement) Điện cực trước đặt ở đáy tim, ngay bờ trái xương ức chổ khớp nối cán xương ức. Điện cực bên đặt ở mỏm tim, nên lệch về phía đường nách giữa. Trước - sau (atenro-posterior placement) Điện cực trước cũng đặt ở đáy tim như trên. Điện cực sau đặt ở mõm xƣơng vai trái (người bệnh nằm trên điện cực sau là điện cực đặc biệt dán vào vùng bả vai, sử dụng nhiều trong phẫu thuật). Vị trí trước-sau giúp giảm 50% năng lượng điện cần sử dụng. Vị trí trước - bên thuận tiện hơn trong sốc điện khẩn cấp. Bấm nút phóng xung điện: Phải nhấn vào điện cực lực đủ mạnh (có đèn báo) mới tiến hành bấm nút. Chỉ được bấm nút khi bảo đảm không còn người nào tiếp xúc với người bệnh hoặc với giường. Trong trường hợp sốc đồng bộ, sau khi bấm nút phải chờ cho đến khi người bệnh giật mạnh người (Tức khi máy đã phát xung điện) mới được buông tay. Mức năng lượng điện: Có hai loại máy sốc điện hiện đang được sử dụng trong bệnh viện: Loại máy sử dụng sóng một pha (monophasic defibrilation waveform) Loại máy sử dụng sóng hai pha (biphasic defibrilation waveform) Năng lương đánh sốc của máy loại hai pha chỉ sử dụng bằng 75% của loại máy sốc một pha. Vi dụ năng lượng đánh sốc cho một trường hợp rung thất khi dùng máy sốc điện một pha là 200 Joules thì ở máy sốc điện hai pha chỉ cần dùng 150 Joules.
Hình 1. Minh họa dòng điện trong máy sốc điện một pha và hai pha Dấu hiệu của cấp cứu ngừng tim-phổi cơ bản có hiệu quảBiểu hiện lâm sàng tốt nhất là có các dấu hiệu của sự sống ở người bệnh như: thở lại, tim đập lại, người bệnh tỉnh trở lại. Trong trường hợp chỉ có dấu hiệu: niêm mạc môi ấm và hồng trở lại, đồng tử co lại (chưa có dấu hiệu tổn thương nặng nề ở tổ chức não), là thời gian thiếu oxy não chưa lâu và còn khả năng hồi phục; cần kiên trì cấp cứu, đồng thời gọi các đội cấp cứu y tế hoặc vừa cấp cứu vừa vận chuyển bệnh nhân đến một cơ sở y tế gần nhất. QUY TRÌNH THỰC HÀNH CẤP CỨU BAN ĐẦU NGỪNG TUẦN HOÀN
Ghi chú: Thực hiện không đúng bước*, không đạt yêu cầu kỹ thuật cấp cứu Bảng kiểm thực hành cấp cứu ban đầu ngừng tuần hoàn
Bảng kiểm đánh giá năng lực thực hành cấp cứu ngừng tuần hoàn cơ bản
TÀI LIỆU THAM KHẢOBộ Y tế. Hướng dẫn thực hành 55 kỹ thuật điều dưỡng cơ bản tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. 2010 Vũ Văn Đính (2008), Ngừng tuần hoàn, Hồi sức cấp cứu, NXB Y học, Hà Nội, trang 169 - 189. http://www.benhvien103.vn/vietnamese/bai-giang-chuyen-nganh/hoi-suc-capcuu/cap-cuungung-tuan-hoan-co-ban/1086. http://benhvien108.vn/TinBai/1867/Nhung-thay-doi-trong-phac-do-cap-cuungung-tuanhoan-cua-Hiep-hoi-tim-mach-Hoa-Ki http://bachmai.edu.vn, cập nhật cấp cứu Ngừng tuần hoàn (4.2017). Nguyễn Thị Minh Chính và Vũ Thị Là (2019). Điều dưỡng cơ sở tập 2, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. |