So sánh và giải thích sự khác nhau trong chế độ mưa của trạm khí hậu Đồng Hới và Đà Lạt

HƯỚNG DẪN

a) Chế độ nhiệt

- Nhiệt độ trung bình năm ở Nha Trang cao hơn ở Đà Lạt, do Nha Trang ở độ cao thấp (dưới 200m) hơn rất nhiều so với Đà Lạt (trên 1500m).

- Nhiệt độ tháng cao nhất ở Nha Trang là tháng VI, ở Đà Lạt là tháng V, tương ứng với thời gian Mặt Trời lên thiên đỉnh ở mỗi địa điểm.

- Biên độ nhiệt ở Nha Trang lớn hơn (khoảng 4,8°C) Đà Lạt (khoảng 4,0°C). Nguyên nhân chủ yếu do ở Nha Trang về mùa hạ có gió phơn Tây Nam khô nóng, mùa đông nhiệt độ hạ thấp do gió Đông Bắc qua biển tác động vào. Ở Đà Lạt, mùa hạ nhiệt độ hạ thấp do có mưa, mùa đông không lạnh lắm so với mùa hạ.

- Diễn biến nhiệt trong năm có sự khác nhau: Đà Lạt ở vào vĩ độ địa lí thấp hơn, trong năm có lần Mặt Trời lên thiên đỉnh xa nhau, nên có hai cực đại về nhiệt. Nha Trang có một cực đại và một cực tiểu về nhiệt tương ứng với hai lần Mặt Trời lên thiên đỉnh gần nhau hơn.

b) Chế độ mưa

- Tổng lượng mưa năm ở Đà Lạt lớn hơn ở Nha Trang. Nguyên nhân:

+ Đà Lạt ở độ cao lớn hơn, đồng thời đầu mùa có mưa do gió Tây Nam TBg xâm nhập trực tiếp, giữa và cuối mùa có mưa do tác động của gió mùa Tây Nam.

+ Ở Nha Trang, đầu mùa chịu tác động của gió Tây Nam TBg khô nóng sau khi vượt Trường Sơn Nam tràn xuống; giữa và cuối mùa có mưa do gió mùa Tây Nam, nhưng không phải là sườn đón gió như ở phía Đà Lạt. Tác động của gió Đông Bắc gặp dãy Trường Sơn, áp thấp và bão gây mưa nhiều trong các tháng thu đông, nhưng tổng lượng mưa cả năm vẫn nhỏ hơn ở Đà Lạt.

- Tháng mưa cực đại ở Nha Trang là tháng X, do tác dộng cùng lúc của dải áp thấp nhiệt đới, gió mùa Đông Bắc gặp địa hình núi chắn gió, áp thấp và bão. Ở Đà Lạt là vào tháng VII, thởi gian có tác động mạnh của gió mùa Tây Nam.


Page 2

HƯỚNG DẪN

- Tổng lượng mưa của Đồng Hới lớn hơn ở Nha Trang. Nguyên nhân chủ yếu do về mùa đông, khi gió mùa Đông Bắc thổi vào nước ta, frông cực bị chặn lại ở dãy Trường Sơn Bắc gây mưa lớn; trong khi ở Nha Trang, Tín phong Bán cầu Bắc tuy có gây mưa khi gặp Trường Sơn Nam, nhưng lượng mưa không lớn.

- Tháng mưa lớn nhất ở Đồng Hới là tháng X, trong khi tháng có lượng mưa lớn nhất ở Nha Trang là tháng XI, liên quan đến sự lùi dần của dải hội tụ nhiệt đới từ bắc vào nam và sự lùi dần của áp thấp và bão.

- Mùa mưa ở Đồng Hới từ tháng VIII - I, ở Nha Trang từ tháng IX - XII. Nguyên nhân chủ yếu liên quan đến các nguyên nhân gây mưa lớn ở hai vùng khí hậu Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ:

+ Đồng Hới gần với vùng khí hậu Trung và Nam Bắc Bộ, nên tháng VIII bắt đầu mùa mưa do chịu ảnh hưởng lan toả của đỉnh mưa ở Trung và Nam Bắc Bộ. Mùa mưa kéo dài sang tháng I đi liền với hoạt động của gió mùa Đông Bắc gặp bức chắn địa hình Trường Sơn Bắc.

+ Nha Trang mưa lớn bắt đầu vào tháng IX là lúc gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh. Mùa mưa kết thúc vào tháng XII, liên quan đến sự dịch chuyển về phía Nam Bộ của dải hội tụ nhiệt đới và sự kết thúc hoạt động của áp thấp và bão ở khu vực Nam Trung Bộ.


Page 3

HƯỚNG DẪN

a) Tổng lượng mưa

- Pleiku (2273mm) lớn hơn Quy Nhơn (1694mm).

- Nguyên nhân:

+ Pleiku có độ cao lớn hơn; đồng thời mưa trong suốt mùa hạ; mùa mưa kéo dài 6 tháng.

+ Quy Nhơn ở độ cao thấp hơn; chỉ có mưa vào giữa và cuối mùa hạ, đầu mùa hạ có phơn khô nóng. Mùa đông tuy có mưa nhưng lượng mưa lớn chỉ tập trung vào hai tháng X và XI, các tháng còn lại có lượng mưa không lớn. Mặt khác, mùa mưa chỉ kéo dài 4 tháng.

b) Tháng mưa cực đại ở Pleiku là tháng IX, tháng có gió mùa Tây Nam thổi mạnh nhất gặp địa hình chắn gió; ở Quy Nhơn là tháng X, tháng có mặt của nhiều nhân tố gây mưa: dải hội tụ nhiệt đới, gió Đông Bắc gặp dãy Trường Sơn, áp thấp và bão...

c) Mùa mưa ở Quy Nhơn 4 tháng (tháng IX - XII) trùng với thời gian hoạt động của các nhân tố gây mưa ở trên; các tháng còn lại là mùa khô, do hoạt động của Tín phong Bán cầu Bắc (tháng I - IV) và tác động của gió phơn Tây Nam khô nóng saú khi đã gây mưa lớn ở Tây Nguyên.

Mua mưa ở Pleiku dài 6 tháng (tháng V - X) trùng với thời gian hoạt động của gió mùa mùa hạ (Tây Nam TBg đầu mùa, gió mùa Tây Nam vào giữa và cuối mùa).


Page 4

HƯỚNG DẪN

- Thời gian: là loại gió thường xuyên trên Trái Đất, thổi quanh năm ở nước ta.

- Hướng: đông bắc.

- Nguồn gốc: từ cao áp chí tuyến Tây Thái Bình Dương (là cao áp chí tuyến Bán cầu Bắc).

- Tính chất: khô nóng, ổn định, độ ẩm tương đối thấp.

- Hoạt động và tác động:

+ Mùa đông:

• Ở miền Bắc: Tín phong Bán cầu Bắc thổi xen kẽ với gió mùa Đông Bắc; mỗi khi gió mùa Đông Bắc yếu đi, gió này mạnh lên, gây thời tiết ấm áp, hanh khô.

• Ở miền Nam (từ Đà Nẵng trở vào): Tín phong Đông Bắc chiếm ưu thế, gặp địa hình núi chắn gió gây mưa cho vùng ven biển Trung Bộ và là nguyên nhân chính tạo nên mùa khô ở Nam Bộ và Tây Nguyên.

+ Mùa hạ:

• Đầu mùa hạ, Tín phong Bán cầu Bắc hướng đông bắc gặp gió Tây Nam TBg tạo nên dải hội tụ chạy theo hướng kinh tuyến, gây mưa đầu mùa cho cả nước và mưa lớn cho đồng bằng Nam Bộ và Tây Nguyên. Do gió Tây Nam TBg mạnh hơn đẩy Tín phong Bán cầu Bắc ra xa về phía đông nên miền Bắc ít chịu ảnh hưởng của dải hội tụ này.

• Giữa và cuối mùa hạ, Tín phong Bán cầu Bắc gặp gió mùa Tây Nam tạo nên dải hội tụ nhiệt đới theo hướng vĩ độ, vắt ngang qua lãnh thổ nước ta, gây mưa lớn. Dải hội tụ này lùi dần theo hướng bắc nam nên đỉnh mưa lùi dần từ bắc vào nam.

+ Mùa xuân: Gió Đông Bắc suy yếu, gió Tây Nam chưa mạnh lên, Tín phong Bán cầu Bắc thổi ở rìa Tây Nam của cao áp chí tuyến Tây Thái Bình Dương vào nước ta theo hướng đông nam. Gió này gây ra thời tiết "nồm", độ ẩm lớn, sương mù nhiều, thời tiết ấm, không mưa.


Page 5

HƯỚNG DẪN

Có thể tìm sự giống nhau và khác nhau theo dàn ý chung: vị trí địa lí, độ cao địa hình, hướng nghiêng, hướng núi, đặc điểm hình thái địa hình.

- Vùng núi Đông Bắc nằm ở tả ngạn sông Hồng.

- Vùng núi Tây Bắc nằm giữa sông Hồng và sông Cả.

a) Giống nhau

- Đều có núi cao, núi trung bình và núi thấp.

- Hướng núi: Đều có các dãy núi hướng tây bắc - đông nam.

- Hướng nghiêng: Đều nghiêng theo hướng tây bắc – đông nam (cao ở tây bắc, thấp dần về đông nam).

- Đặc điểm hình thái: Đều có các khu vực với đặc điểm hình thái khác nhau.

b) Khác nhau

- Vùng núi Đông Bắc

+ Địa hình núi thấp chiếm phần lớn diện tích của vùng.

+ Hướng núi chủ yếu là vòng cung (Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn, Đông Triều); ngoài ra, còn có hướng tây bắc - đông nam (dãy Con Voi, Tam Đảo...).

+ Có các khu vực rõ rệt:

• Vùng thượng nguồn sông Chảy là những đỉnh núi cao trên 2000m. Giáp biên giới Việt Trung là các khối núi đá vôi đồ sộ (ở Hà Giang, Cao Bằng) cao trên 1000m.

• Trung tâm là vùng đồi núi thấp có độ cao trung bình 500 - 600m.

- Vùng núi Tây Bắc

+ Cao nhất nước.

+ Hướng núi: tây bắc - đông nam.

+ Có 3 dải địa hình song song:

• Phía đông là dãy Hoàng Liên Sơn cao và đồ sộ, được coi là nóc nhà của Việt Nam, trong đó đỉnh Phanxipăng cao 3143m.

• Phía tây là địa hình núi trung bình của các dãy núi chạy dọc biên giới Việt - Lào (Pu Đen Đinh, Pu Sam Sao...).

• Ở giữa thấp hơn là các dãy núi, sơn nguyên và cao nguyên từ Phong Thổ đến Mộc Châu (Tả Phình, Sín Chải, Sơn La, Mộc Châu...), tiếp nối là những đồi núi đá vôi ở Ninh Bình - Thanh Hóa.


Page 6

HƯỚNG DẪN

- Chứng minh đa dạng: vịnh cửa sông, các bờ biển mài mòn, các tam giác châu có bãi triều rộng, các bãi cát phẳng, các đầm phá, cồn cát, các vũng vịnh nước sâu, các đảo ven bờ và rạn san hô...

- Giải thích đa dạng: do tác động phối hợp củạ nội lực và ngoại lực trong quá trình phát triển lâu dài của lãnh thổ Việt Nam

+ Nội lực: các hoạt động nâng cao và hạ thấp địa hình, bồi lấp các vùng trũng lục địa sát biển, đứt gãy ven biển...

+ Ngoại lực: tác động của sóng, thủy triều, dòng biển, biển tiến và biển lùi, sông ngòi...


Page 7

HƯỚNG DẪN

a) Chứng minh: Dựa vào trang 6-7 của Atlat Địa lí Việt Nam (Hình thể), kết hợp với trang 13 và 14 (Các miền tự nhiên) để tìm các dẫn chứng cụ thể làm sáng rõ địa hình nước ta có nhiều kiểu:

+ Đồi núi: núi cao, núi trung bình, núi thấp, cao nguyên, sơn nguyên, bán bình nguyên, đồi, thung lũng, đồng bằng giữa núi...

+ Đồng bằng: ô trũng, dải đất cao, bãi bồi, cồn cát, doi đất, núi sót, thềm sông, thềm biển...

b) Giải thích

- Địa hình được hình thành do tác động đồng thời của nội lực và ngoại lực. Nội lực có xu hướng làm gồ ghề bề mặt địa hình, còn ngoại lực có xu hướng san bằng bề mặt gồ ghề của địa hình. Hai lực này có xu hướng ngược nhau, nhưng tác động đồng thời với nhau. Trong quá trình tác động, những dạng địa hình chủ yếu do nội lực tạo nên, gọi là địa hình hình thái kiến trúc; những dạng địa hình chủ yếu do ngoại lực tạo nên, gọi là địa hình hình thái điêu khắc.

- Nước ta trải qua một lịch sử phát triển lãnh thổ lâu dài và phức tạp, chia thành 3 giai đoạn với những đặc điểm khác nhau, tác động đến việc hình thành địa hình khác nhau:

+ Giai đoạn Tiền Cambri: đây là giai đoạn đầu tiên hình thành nền móng ban đầu lãnh thổ nước ta, cách đây trên 570 triệu năm. Trên lãnh thổ Việt Nam lúc ấy đại bộ phận là biển. Phần đất liền ban đầu chỉ là những mảng nền cổ nằm rải rác bên mặt biển nguyên thủy (Hoàng Liên Sơn, Rào Cỏ, Pu Hoạt, vòm sông Chảy, Kon Tum...).

+ Giai đoạn Cổ kiến tạo:

• Kéo dài trên 500 triệu năm và cách ngày nay ít nhất là 65 triệu năm.

• Có nhiều cuộc vận động tạo núi lớn (Calêđôni, Hecxini, Inđôxini, Kimêri) làm thay đổi hẳn hình thể của nước ta so với trước. Phần lớn lãnh thổ nước ta đã trở thành đất liền, một bộ phận vững chắc của châu Á - Thái Bình Dương.

• Các hoạt động uốn nếp và nâng lên đã diễn ra ở nhiều nơi như: các địa khối ở thượng nguồn sông Chảy, khối nâng Việt Bắc, địa khối Kon Tum; các dãy núi hướng tây bắc - đông nam ở Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, cac dãy núi hướng vòng cung ở Đông Bắc và các khối núi cao ở Nam Trung Bộ.

• Cuối giai đoạn Cổ kiến tạo, địa hình nước ta bị ngoại lực bào mòn, hạ thấp trở thành những bề mặt san bằng.

+ Giai đoạn Tân kiến tạo:

• Diễn ra trong thời gian ngắn, cách đây 65 triệu năm và đang tiếp diễn đến ngày nay.

• Sau khi kết thúc giai đoạn Cổ kiến tạo, lãnh thổ nước ta trải qua một thời kì tương đối ổn định và tiếp tục được hoàn thiện dưới chế độ lục địa, chủ yếu chịu sự tác động của các quá trình ngoại lực.

• Vận động tạo núi Anpơ - Himalaya diễn ra cách đây khoảng 23 triệu năm và có cường độ mạnh mẽ, nhưng không phá vỡ kiến trúc cổ đã hình thành từ trước.

• Do chịu tác động của vận động tạo núi Anpơ - Himàlaya, trên lãnh thổ nước ta đã xảy ra các hoạt động như: nâng cao và hạ thấp địa hình, bồi lấp các vùng trũng lục địa kèm theo các đứt gãy và phun trào mắcma.

• Nhiều quá trình tự nhiên xuất hiện trong giai đoạn Tân kiến tạo còn kéo dài đến hiện nay, nổi bật là: nâng cao địa hình làm sông ngòi trẻ lại và hoạt động mạnh mẽ, đồi núi cổ được nâng cao và mở rộng; hình thành các cao nguyên và các đồng bằng phù sa trẻ...

• Trong giai đoạn này, đặc biệt trong kỉ Đệ tứ, khí hậu Trái Đất có những biến đổi lớn với những thời kì băng hà, gây nên tình trạng dao động lớn của mực nước biển. Đã có nhiều lần biển tiến và biển lùi trên phần lãnh thổ nước ta mà dấu vết để lại là các thềm biển, cồn cát, các ngấn nước trên vách đá ở vùng ven biển và các đảo ven bờ...