Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa là gì năm 2024

-Tất cả các cơ quan nhà nước ,tổ chức kinh tế ,tổ chức xã hội ,nhân viên nhà nước và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật.

Pháp chế XHCN là một khái niệm rộng gồm nhiều mặt

-Một là : Pháp chế XHCN là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước XHCN

-Hai là : Pháp chế XHCN là nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội và đoàn thể quần chúng

-Ba là : Pháp chế XHCN là nguyên tắc xử sự của công dân

——> Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của cuộc sống chính trị xã hội, tổ chức xã hội, và mọi công dân phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.

Những nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa

-Nguyên tắc thứ nhất : là nguyên tắc đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp, luật Hiến pháp và các đạo luật là các văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật

Chúng được xây dựng và thông qua theo một quy trình đặc biệt bởi Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất, đồng thời cũng là cơ quan đại diện cho toàn thể nhân dân

-Nguyên tắc thứ hai : Là nguyên tắc bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc

Tính thống nhất là một thuộc tính cơ bản của pháp chế xã hội chủ nghĩa

Cơ sở của tính thống nhất này chính là sự thống nhất nội tại cao của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa mà cơ sở sâu xa của nó là sự thống nhất lợi ích của đông đảo nhân dân lao động trong quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa

-Nguyên tắc thứ ba : Là nguyên tắc bắt buộc chung đối với mọi chủ thể không có ngoại lệ

Xây dựng và hoàn thiện pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mọi chủ thể trong xã hội đều bình đẳng trước pháp luật

Thực hiện nguyên tắc này không chỉ đòi hỏi người dân làm đúng pháp luật mà quan trọng hơn là sự đòi hỏi cơ quan, công chức nhà nước gương mẫu thực hiện pháp luật

*Trong hoạt động ban hành văn bản pháp luật -Các văn bản pháp luật trong quản lí hành chính nhà nước phải được ban hành đúng thẩm quyền

-có nội dung hợp pháp và thống nhất

-phải ban hành đúng tên gọi và hình thức được pháp luật quy định

-phải ban hành theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định

*Trong hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật

-Triệt để tôn trọng các văn bản pháp luật về thẩm quyền và nội dung ban hành

-Hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp luật trong quản lí hành chính nhà nước, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo phải được thực hiện một cách nghiêm ngặt, theo đúng các quy định của pháp luật nhằm ngăn chạn, phát hiện kịp thời các việc làm vi phạm pháp luật đảm bảo cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.

-Phải xử lí nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lí hành chính nhà nước. Các cơ quan có thẩm quyền xử lí vi phạm pháp luật như: Cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, cơ quan làm công tác xét xử... có trách nhiệm phát hiện, xử lí kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lí hành chính nhà nước

1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa Pháp chế XHCN là một khái niệm, một phạm trù pháp lý cơ bản của khoa học pháp lý XHCN. Đây là vấn đề không phải là mới mẻ. Song, sau khi các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các nước trong hệ thống XJCN đã đều tiến hành cải tổ đổi mới theo những con đường phát triển của riêng mình, pháp chế được bàn đến trong một điều kiện mới. trong điều kiện của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, quá trình xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập quốc tế và xây dựng xã hội công dân, pháp chế XHCN (theo quan niệm cũ) không dễ gì có sự thống nhất về nội hàm của nó. Vì vậy, để đưa ra được khái niệm về pháp chế XHCN một cách tương đối hoàn chỉnh, đúng với tên gọi của nó cần tiếp cận từ nhiều phương diện. Thứ nhất, tiếp cận từ tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Leeenin về pháp chế XHCN, “pháp chế là một hiện tượng xã hội độc lập với tư cách là nhân tố của quyền lực chính trị”. Thứ hai, tiếp cận từ quan điểm của Đảng ta về pháp chế XHCN trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Đảng ta đều coi pháp chế XHCN là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước. muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quảng lý nhà nước và phát huy dân chủ XHCN phương pháp chủ yếu, tổng thể, toàn diện và thường xuyên là tăng cường pháp chế XHCN. Thứ ba, tiếp cận từ khái niệm pháp chế của khoa học pháp lý, có nội dung đa diện, đa nghĩa mà hạt nhân, cốt lõi của nó là sự tôn trọng và thực hiện pháp luật hiện hành 1 cách tự giác, đầy đủ, nghiêm minh và thống nhất của các chủ thể trong toàn xã hội. Pháp chế và pháp luật là 2 khái niệm có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng là những khái niệm gần gũi, nhưng không đồng nhất. pháp luật là hệ thống các quy phạm cho nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội. pháp chế là 1 phạm trù thể hiện những yêu cầu, đòi hỏi đối với chủ thể pháp luật phải tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật. cho nên, pháp luật là tiền đề của pháp chế nhưng có pháp luật chưa hẳn đã có pháp chế. Do đó pháp luật chỉ có thể phát huy được hiệu lực của mình, điều chỉnh một cách có hiệu quả các quan hệ xã hội khi dựa trên cơ sở vững chắc của nền pháp chế và ngược lại pháp chế chỉ có thể được củng cố và tăng cường khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và kịp thời.

Như vậy, pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị-xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân phải tôn trọng và thực hiện pháp luật hiện hành 1 cách nghiêm minh, triệt để, chính xác, bình đẳng và thống nhất. 2. Đặc điểm pháp chế xã hội chủ nghĩa Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một khái niệm rộng bao gồm nhiều mặt, do vậy cần phải xem xét nó ở những bình diện sau đây: Thứ nhất, pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Pháp chế đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước phải tiến hành đúng quy định của pháp luật. mọi cán bộ công chức nhà nước phải tôn trọng và nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình; mọi vi phạm đều bị xử phạt nghiêm minh. Đó là cơ sở bảo đảm bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ, nhịp nhàng và có hiệu quả, phát huy hiệu lực của nhà nước và bảo đảm công bằng xã hội. điều 12 Hiến pháp 1992 (sửa đối bổ sung năm 2001) khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.” Thứ hai, pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể quần chúng. Mọi tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể quần chúng đều có phương thức, nguyên tắc hoạt động riêng, nhưng vẫn phải tôn trọng và tuân theo nguyên tắc pháp chế XHCN. Bởi mỗi thành viên của tổ chức hay đoàn thể đó trước hết là một công dân nên họ luôn chịu sự tác động của nhà nước; mặt khác các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể quần chúng đều được hình thành và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ của nhà nước, tham gia các quan hệ xã hội, trong đó có các quan hệ do nhà nước xác lập và bảo vệ. ngay cả Đảng Cộng sản với tư cách là đảng cầm quyền, là lãnh đạo nhà nước, quản lý xã hội phải “hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” như Điều 4 Hiến pháp 1992 quy định. Thứ ba, pháp chế XHCN là nguyên tắc xử sự của công dân. Điều này đòi hỏi mọi công dân tôn trọng và tự giác thực hiện đúng yêu cầu của pháp luật trong các hành vi xử sự của mình, được phép làm những gì mà pháp luật không cấm. đây là điều kiện đảm bảo công bằng xã hội, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, là điều kiện cho mỗi người được tự do, tồn tại và phát triển. mặt khác, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lap động là chủ nhân đất nước nên còn đòi hỏi mọi công dân có trách nhiệm tham gia quản lý

Hiến pháp và Luật là những văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành, thể hiện một cách tập trung ý chí và những lợi ích cơ bản của nhân dân lao động trên các lĩnh vực, trong các vấn đề quan trọng của nhà nước và xã hội. đó là những văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất. tuy nhiên, Hiến pháp và Luật có đặc điểm riêng, trong nhiều trường hợp không thể quy định một cách chi tiết và cụ thể để áp dụng trong mọi tình huống. vì vậy, chúng luôn đòi hỏi phải có sự cụ thể hóa của các văn bản dưới luật. trên thực tế, những văn bản dưới luật hết sức phong phú, chiếm một số lượng rất lớn trong hệ thống pháp luật, vì vậy, mọi quy định của các văn bản dưới luật đều phù hợp với Hiến pháp và Luật. do đó, khi xây dựng các văn bản dưới luật phải dựa trên những quy định của Hiến pháp và Luật. nếu không thực hiện tốt yêu cầu tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và Luật thì tình trạng tản mạn, trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn trong các quy phạm pháp luật, phá vỡ tính thống nhất của hệ thống pháp luật là không thể tránh khỏi. Ví dụ : Hiến pháp quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước). luật đất đai, nghị định, thông tư hướng dẫn cũng phải tôn trọng quy định của Hiến pháp, triệt để tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và Luật.

  1. Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc. Từ bản chất của nhà nước và pháp luật chủ nghĩa, nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, pháp chế XHCN đòi hỏi phải có sự thống nhất về nhận thức và tổ chức thực hiện pháp luật trên quy mô toàn quốc. thực hiện tốt yêu cầu này là điều kiện quan trọng để thiết lập trật tự, kỷ cương, cấp dưới phục tùng cấp trên, lợi ích của địa phương phải phù hợp với lợi ích quốc gia, cá nhân cs quyền tự do dân chủ những phải tôn trọng quyền của những chủ thể khác. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế thống nhất là điều kiện để xóa bỏ tư tưởng cục bộ, địa phương chủ nghĩa, tự do vô chính phủ, bảo đảm công bằng xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, củng cố, tăng cường pháp chế, Nhà nước cũng cần phải xem xét những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, tìm ra những hình thức và phương pháp phù hợp để đưa pháp luật vào đời sống với hiệu quả cao nhất mà không vi phạm pháp luật, không xâm hại đến tính thống nhất của pháp chế. Ví dụ: theo quy định của Luật hôn nhân gia đình và Nghị định 158/2005 quy định: Đăng kí kết hôn. Khi đăng kí kết hôn phải nộp lệ phí. Tuy nhirn ở vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số Chính phủ có quy định riêng để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, đó là khi đăng kí kết hôn sẽ được miễn lệ phí. (Nhị định số 32/2000).

  1. Các cơ quan xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật phải hoạt động một cách tích cực, chủ động và có hiệu quả. Để có cơ sở vững chắc củng cố nền pháp chế, cần chú ý đến những biện pháp bảo đảm cho các cơ quan chuyên trách xây dựng pháp luật đủ khả năng và điều kiện để hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách đầy đủ, đồng bộ và thống nhất. Tổ chức và thực hiện pháp luật là một mặt quan trọng của nền pháp chế dẫn đến một trong những yêu cầu đặt ra là muốn củng cố và tăng cường pháp chế thì bảo đảm cho các cơ quan tổ chức và thực hiện pháp luật hoạt động có hiệu quả. Từ đó, các chủ thể mới hiểu được pháp luật, có ý thức và tự giác, nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật và bảo đảm được nguyên tắc pháp chế. Xử lý kịp thời và nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật là trách nhiệm của cả bộ máy nhà nước, nhưng trước hết chủ yếu là những cơ quan bảo vệ pháp luật nên cần thiết chú trọng nâng cao hoạt động của các cơ quan này tích cực, chủ động và hiệu quả hơn. Kết quả sẽ tác động trực tiếp với viwjwc củng cố và tăng cường pháp chế. Hơn nữa, pháp chế còn là nhiệm vụ của các tổ chức xa hội và toàn dân. Vì vậy, yêu cầu cũng đòi hỏi các tổ chức và mọi công dân phải có trách nhiệm

1. Thành tựu. Trên phương diện thực tiễn, việc xây dựng pháo chế XHCN ở VN đạt nhiều thành tựu quan trọng. Nhà nước ta đã xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật ngày càng lớn, chất lượng ngày càng nâng cao, hoàn thiện một bước quan trọng trong hệ thống pháp luật về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; về các lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục – đào tạp, khoa học, công nghệ, môi trường, quốc phòng an ninh, đối ngoại... bảo đảm yêu cầu quản lý, ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. hệ thống pháp luật đã thể chế kịp thời chủ trương của Đảng, cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp 2013, bám sát yêu cầu cuộc sống và đáp ứng tiêu chí của hệ thống pháp luật về “tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch”, xử lý tốt những vấn đề phức tạp của thực tiễn. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao có nhiều đổi mưới, chất lượng và hiệu quả được nâng cao. Vai trò, quyền làm chủ của nhân dân được củng cố, phát huy, bảo đảm và lan tỏa tinh thân tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, cơ chế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở dựa trên phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bộ máy nhà nước bước đầu được sắp xếp theo hướng tinh gọn gắn với tinh giảm biên chế, hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực. trong đó, vai trò, trách nhiệm của đại biểu dân cư thể hiện rõ hơn, hiệu quả hơn. Hoạt động cơ quan hành pháp chủ động, tích cực, tập trung vào quản lý, điều hành, tháo gỡ rào cản, phục vụ, hỗ trợ phát triển. cải cách hành chính, tư pháp có bước đột phá; chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức và cá nhân; tôn trọng, bảo vệ , bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Định kỳ, các bộ tư pháp về các vùng xa để tuyên truyền phổ biến pháp luật có nội dung phù hợp với đặc điểm tình hình từng cơ sở, lắng nghe tâm tư nguyện vọng, ý kiến kiến nghị và pháp luật của nhân dân. Năm 2020, Bộ Tư pháp trong nhóm ba bộ dẫn

đầu về Chỉ số cải cách hành chính với tổng điểm và đứng thứ 2 về Chỉ số đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức – 89,58%. Những kết quả này được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp và tư pháp”. 2. Hạn chế Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, ưu điểm, pháp chế XHCN ở nước ta còn nhiều hạn chế. Điển hình là hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc với số lượn lớn văn bản dưới luật, nhất là văn bản của các bộ, cơ quan ngang bộ theo Báo cáo số 411/BC-CP của Chính phủ về kết quả rà soát văn bản QPPL. Một số quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn; tính khả thi, tính dự báo chưa cao, ảnh hưởng đến tính ổn định của hệ thống pháp luật. một số quy định chưa đáp ứng yêu cầu “chính xác, phổ thông, rõ ràng, dễ hiểu” theo quy định của Luật Ban hành văn bản QPPL, dẫn đến việc hiểu, áp dụng không thống nhất. Hơn nữa, kỷ luật, kỷ cương trong xây dựng và ban hành văn bản pháp luật chưa nghiêm. Một số cơ quan soạn thảo văn bản chưa quan tâm đúng mức đến việc rà soát đầy đủ, kỹ lưỡng quy định trong các văn bản QPPL liên quan khi sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định mới, dẫn đến mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định. Tình trạng luật khung, luật ống, luật phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành từ Chính phủ (Nghị định), các Bộ (Thông tư, Thông tư liên tịch...), thậm chí có nơi phải chờ hướng dẫn của UBND tỉnh, thành phố và các Sở, ngành... mới phát sịn hiệu lực thực tế vẫn còn. Tình trạng “nợ” văn bản hướng dẫn thi hành có cải thiện nhưng chưa được khắc phục triệt để. Tại cuộc họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội phiên thứ 48, Phó Viện trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân tối cao Nguyễn Duy Giảng cho biết, có 23 văn bản có nội dung mâu thuẫn; 3 văn bản đã lạc hậu, không còn phù hợp với thực tiễn và 24 văn bản đã hết hiệu lực thi hành những chưa có văn bản khác sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hoặc thay thế. Tính đến tháng 8/2020, còn lại 87/572 nội dung chưa ban hành văn bản quy định chi tiết. một số luật có từ 80-100% nội dung chưa ban hành văn bản quy định chi tiết được ban hành, đặc biệt, có một số nội dung sau gần 3 năm luật có hiệu lực nhưng vẫn chưa có văn bản quy định. Điều này tác động không