Thời hạn xử phạt vi phạm hành chính là gì năm 2024

Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 34 Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 và nội dung này tiếp tục được sửa đổi, bổ sung qua các Pháp lệnh và Luật Xử lý vi phạm hành chính sau này.

Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là thời hạn do pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính quy định, mà hết hạn đó người có thẩm quyền không được xử phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính. Việc quy đinh thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính có ý nghĩa rất quan trọng. Điều này tạo cơ sở pháp lý thống nhất trong việc ra quyết định và thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, góp phần đề cao trách nhiệm của người có thẩm quyền xử phạt hành chính trong việc phát hiện và xử lý vi phạm. Đảm bảo tuân thủ nguyên tắc của Luật xử lý vi phạm hành chính là xử lý nhanh chóng, công minh, đúng pháp luật những vụ việc vi phạm hành chính, bảo đảm hiệu lực thi hành và tác dụng giáo dục phòng ngừa của quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính thay đổi như thế nào:

Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Điều 34 Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 do Hội đồng Nhà nước ban hành như sau: 1- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính hết hiệu lực thi hành, nếu từ ngày ra quyết định đã qua thời hạn một năm. 2- Trong trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính bị khiếu nại thì thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này kéo dài thêm một ...

Theo khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 thì xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.

2. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính

Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (sửa đổi 2020) như sau:

(1) Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, trừ các trường hợp sau đây thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 02 năm:

- Vi phạm hành chính về kế toán; hóa đơn; phí, lệ phí;

- Vi phạm hành chính về kinh doanh bảo hiểm; quản lý giá; chứng khoán; sở hữu trí tuệ;

- Vi phạm hành chính về xây dựng; thủy sản; lâm nghiệp;

- Vi phạm hành chính về điều tra, quy hoạch, thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên nước;

- Vi phạm hành chính về hoạt động dầu khí và hoạt động khoáng sản khác; bảo vệ môi trường;

- Vi phạm hành chính về năng lượng nguyên tử;

- Vi phạm hành chính về quản lý, phát triển nhà và công sở; đất đai; đê điều;

- Vi phạm hành chính về báo chí; xuất bản;

- Vi phạm hành chính về sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh hàng hóa; sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả;

- Vi phạm hành chính về quản lý lao động ngoài nước.

Vi phạm hành chính về thuế thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về quản lý thuế;

(2) Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính quy định tại (1) mục này được quy định như sau:

- Đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm.

- Đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm.

(3) Trường hợp xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân, tổ chức do cơ quan tiến hành tố tụng chuyển đến thì thời hiệu được áp dụng theo quy định tại (1) và (2) của mục này. Thời gian cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý, xem xét được tính vào thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính.

(4) Trong thời hạn được quy định tại (1) và (2) mục này mà cá nhân, tổ chức cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.

3. Thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính

Thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính được quy định tại Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 như sau:

- Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác;

Hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

- Cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, nếu trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính;

Hoặc 01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

\>>Xem thêm: Đưa vào trường giáo dưỡng và 04 điều cần biết.

Quốc Đạt

Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email [email protected].

Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính bao lâu?

- Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, kể từ ngày ra quyết định, quá thời hạn này thì không thi hành quyết định đó nữa, trừ trường hợp quyết định xử phạt có áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, biện pháp khắc phục hậu quả thì vẫn phải tịch thu tang ...

Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là bao lâu?

Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính: Theo quy định tại Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính; vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có ...

Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình là bao nhiêu?

Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình là 01 năm.

Thời hiệu thi hành là gì?

1. Thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó người bị kết án, pháp nhân thương mại bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên.