Thế nào là hành vi vi phạm hành chính năm 2024
Cơ sở của việc xử phạt vi phạm hành chính là phải có vi phạm hành chính. Hay nói cách khác, xác định đúng vi phạm hành chính thì mới có có thể thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính một cách chính xác. Do vậy, việc nghiên cứu khái niệm vi phạm hành chính có ý nghĩa quan trọng, chỉ khi định nghĩa đúng về vi phạm hành chính thì mới có thể xác định được từng vi phạm hành chính cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước, để từ đó có thể áp dụng chính xác chế tài xử phạt nhằm lập lại trật tự quản lý nhà nước đã bị xâm hại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan. Việc nghiên cứu, làm rõ khái niệm vi phạm hành chính vừa xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, đồng thời nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện Chiến lược xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Hiện nay, việc sử dụng thuật ngữ “hành vi vi phạm hành chính” trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (Luật XLVPHC) cũng còn có những quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, việc sử dụng thuật ngữ “hành vi vi phạm hành chính” chưa thực sự chính xác về mặt khoa học. Bởi vì, khoản 1 Điều 2 Luật XLVPHC đã định nghĩa: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Nếu đã định nghĩa vi phạm hành chính là hành vi trái luật (vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước) thì không nên sử dụng thuật ngữ “hành vi vi phạm hành chính”, vì đây là một cách lặp từ không chính xác. Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ “vi phạm hành chính” theo quan điểm nêu trên để nói về “hành vi vi phạm hành chính”. 1. Khái niệm vi phạm hành chính Trong pháp luật về xử lý vi phạm hành chính ở nước ta, khái niệm “vi phạm hành chính” lần đầu tiên được định nghĩa một cách chính thức tại Điều 1 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 (Pháp lệnh năm 1989): “Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quy tắc quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Đến Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 (Pháp lệnh năm 1995), khái niệm “vi phạm hành chính” không được định nghĩa cụ thể mà được định nghĩa một cách gián tiếp, thông qua khái niệm “xử phạt vi phạm hành chính” tại khoản 2 Điều 1: “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (Pháp lệnh năm 2002) cũng định nghĩa “vi phạm hành chính” một cách cách gián tiếp, thông qua khái niệm “xử phạt vi phạm hành chính” tại khoản 2 Điều 1: “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Hiện nay, khái niệm “vi phạm hành chính” được thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 2 Luật XLVPHC, theo đó: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Có thể thấy, định nghĩa về vi phạm hành chính tại các Pháp lệnh năm 1989, 1995, 2002 và Luật XLVPHC năm 2012 tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt nhưng đều thống nhất về những dấu hiệu bản chất của loại vi phạm pháp luật này. Nghiên cứu khái niệm về vi phạm hành chính tại các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, chúng ta có thể nhận ra các dấu hiệu pháp lý và yếu tố cấu thành vi phạm hành chính, gồm: Mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể.
ThS. Nguyễn Hoàng Việt - Cục Quản lý XLVPHC và Theo dõi THPL TÀI LIỆU THAM KHẢO
Huỳnh Thị Sinh Hiền (2013), “Vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý trong quy định của pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học - Đại học Cần Thơ. Báo cáo tổng hợp kết quả điều tra, Dự án điều tra cơ bản “Thực tiễn thi hành một số quy định mới của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012” của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) thực hiện năm 2018, do TS. Nguyễn Văn Cương làm chủ nhiệm, trang 165. Huỳnh Thị Sinh Hiền (2013), “Vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý trong quy định của pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học – Đại học Cần Thơ, trang 24-29. Giáo trình Luật hành chính Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội, do TS. Trần Minh Hương chủ biên, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội 2009, trang 306. Xem khoản 3 Điều 1 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính (được sửa đổi, bổ sung theo khoản 1 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017). Xem khoản 2 Điều 1 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo khoản 1 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP). Xem khoản 4 Điều 1 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo khoản 1 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP). Xem khoản 4 Điều 1 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo khoản 1 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP). Giáo trình Luật hành chính Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội, do TS. Trần Minh Hương chủ biên, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội 2009, trang 11-12. Giáo trình Luật hành chính Việt Nam do PGS.TS Nguyễn Cửu Việt biên soạn, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2013, trang 496. Luận văn Thạc sỹ Luật học “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính: Lý luận và thực tiễn” (2008) của tác giả Bùi Tiến Đạt, trang 10. |