Lợi nhuận là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư

Lợi nhuận là thuật ngữ được sử dụng trong hoạt động tìm kiếm lợi ích kinh doanh nói chung. Hiện nay việc hiểu các thuật ngữ phải đảm bảo theo nghiên cứu của chủ nghĩa Mac. Với lợi nhuận gắn với chủ nghĩa tư bản thể hiện tính toán của giới tư bản. Thực hiện kinh doanh, bên cạnh đó bóc lột đối với công nhân. Mang đến các biến tướng của thặng dư được thể hiện dưới tên gọi lợi nhuận. Các khác biệt trong bản chất của hai thuật ngữ được thể hiện trong các so sánh về ý nghĩa đối với hoạt động tiến hành.

Luật sư tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Lợi nhuận là gì?

Lợi nhuận là giá trị thặng dư tìm kiếm được trong kinh doanh, xét về bản chất. Khi lợi nhuận được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra. Khi các giá trị ban đầu tham gia vào sản xuất có chủ đích. Nhà kinh doanh tìm cách để bán ra sản phẩm với giá cao hơn giá trị thực tế của sản xuất. Từ đó, phần chênh lệnh được xác định là lợi nhuận của chủ doanh nghiệp tìm kiếm được. Cũng như chính là kết quả hoạt động của toàn bộ tư bản đầu tư vào sản xuất kinh doanh.

Lợi nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư. Khi các chủ thể này gọi tên nó là các lợi ích mà họ tìm kiếm được. Để các giá trị ấy trở thành lợi ích riêng. Nó phản ánh sai lệch bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Khi giá trị thặng dư được sinh ra từ sản xuất nhờ vào sức lao động của công nhân. Thuật ngữ này phủ nhận các giá trị đóng góp trong sức lao động. Để từ đó tôn vinh các giá trị của chủ nghĩa tư bản do nhà tư bản cầm quyền.

Nhưng xét trên phạm vi toàn xã hội, tổng số lợi nhuận luôn ngang bằng tổng số giá trị thặng dư. Bởi bản chất của phần chênh lệnh đó vẫn được tìm thấy trên sản phẩm khi bán ra thị trường. Từ đó giúp nhà tư bản thu vào các lợi ích thông qua các thâu tóm hoạt động kinh doanh. Họ làm chủ và có được các giá trị tìm kiếm được với sản phẩm của họ.

Hay lợi nhuận sẽ được hiểu là số tiền lời mà nhà tư bản thu được sau khi bán hàng hoá. Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí tư bản. Chênh lệch được xác định giữa giá trị bán ra trên thực tế. So với phần chi phí thực tế gắn trên sản phẩm tính đến thời điểm bán. Đó được gọi là chi phí thực tế để đưa sản phẩm vào tiêu thụ.

Bản chất tìm kiếm đối với lợi nhuận.

3. Giá trị thặng dư là gì:

Giá trị thặng dư được tạo ra từ sản xuất. Nó là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do người công nhân tạo ra. Nhìn dưới bản chất thông qua quá trình sử dụng sức lao động của người công nhân. Và giá trị mới dôi ra này bị chiếm không trong phương thức sản xuất của tư bản chủ nghĩa. Xác định trở thành lợi ích tìm kiếm của nhà tư bản khi bán đi các sản phẩm thuộc sở hữu của họ. Người công nhân chỉ được trả tiền cho hàng hóa sức lao động với một công việc trước đó. Đây cũng chính là ý nghĩa giá trị thặng dư.

Bản chất của thặng dư đó là chủ nghĩa tư bản bóc lột công sức của người lao động. Hình thành nên sản phẩm của lao động có giá trị cao hơn các chất liệu ban đầu mà nhà tư bản bỏ ra. Để tạo ra nhiều giá trị thặng dư hơn thông qua quá trình sản xuất, kinh doanh. Nhà tư bản bóc lột công nhân càng nhiều thì giá trị thặng dư tạo ra càng cao. Bởi họ thực hiện tìm kiếm giá trị tốt hơn cho đầu vào. Nhưng họ chỉ được trả các lợi ích từ sức lao động bỏ ra theo thời gian làm việc. Chính vì điều này, mà người giàu thì cứ giàu mãi, còn người nghèo thì cứ nghèo mãi.

Xem thêm: Nguyên tắc, cách phân chia lợi nhuận khi góp vốn hợp tác kinh doanh

Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị thặng dư là:

– Năng suất lao động.

– Thời gian lao động.

– Cường độ lao động.

– Công nghệ sản xuất.

– Thiết bị, máy móc.

– Vốn.

– Trình độ quản lý.

Xem thêm: Thặng dư vốn cổ phần là gì? Cách tính thặng dư vốn cổ phần năm 2022?

Hiện nay, thay vì tăng cường độ lao động chân tay, các doanh nghiệp hiện nay chủ yếu đầu tư vào các loại thiết bị máy móc hiện đại. Giúp cho năng suất lao động cao hơn. Từ đó giá trị sản phẩm tạo nên cũng cao hơn. Không phải tri trả các chi phí quá cao thường xuyên cho lao động. Họ chỉ cần cải thiện và tập chung với bộ phận kỹ thuật với tay nghề cao.

4. Phân biệt giữa lợi nhuận với giá trị thặng dư?

Phạm trù giá trị thặng dư:

Phản ánh đúng nguồn gốc và bản chất theo triết học. Với tính chất chủ nghĩa tư bản là thực hiện các bóc lột. Khi nhắc đến giá trị thặng dư, là nhìn thấy giá trị bóc lột của tư bản đối với giai cấp công nhân. Các chủ thể thực tế tạo ra sản phẩm chất lượng cao là công nhân. Nhưng họ chịu sự quản lý trong công việc bởi giai cấp tư bản. Làm việc với các tư liệu sản xuất của giai cấp tư bản. Cũng như các khả năng họ có chỉ là bán hàng hóa sức lao động của mình.

Khi đó, giá trị thặng dư mang bản chất của nó là kết quả của sự chiếm đoạt lao động không công của công nhân. Cũng giúp ta nhìn nhận hiệu quả hơn với các lợi ích nhận được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhà tư bản. Chủ nghĩa Mac khi phân tích với phần chênh lệnh, có thể giải thích bằng giá trị thặng dư. Cũng như đưa đến các bản chất của phần giá trị này.

Còn phạm trù lợi nhuận:

Chẳng qua chỉ là một hình thái thần bí hóa của giá trị thặng dư. Mang đến tên gọi và cách thức giải thích khác được đưa ra bởi nhà tư bản. Khi họ xác định các lợi ích chênh lệnh đó phải được thực hiện bởi chính họ. Với các công việc trong tính toán giá trị đối với tư liệu đầu vào hợp lý. Dựa trên đó để xác định giá trị bán ra phù hợp nhu cầu của người dùng. Nhờ vào đầu óc tính toán cùng với bỏ ra các tư liệu sản xuất. Họ không tự thực hiện một số công đoạn nên thuê sức lao động của các chủ thể khác. Và thuận mua vừa bán, họ đã thanh toán các lợi ích hợp lý cho hàng hóa sức lao động đó.

Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa nhà tư bản và lao động làm thuê. Vì nó làm cho người ta hiểu lầm rằng giá trị thặng dư không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra. Các nhà tư bản phải đóng góp các giá trị nhất định để tìm ra phần thặng dư đó. Cũng như mang đến giải thích hợp lý, tránh các biểu tình đòi quyền lợi của tầng lớp lao động. Từ đó mang đến quyền lực và lợi ích càng tập chung vào tay họ. Tầng lớp công nhân ngày càng phụ thuộc vào việc làm mà họ tạo ra.

Nguyên nhân của hiện tượng đó là:

Xem thêm: Phương pháp lợi nhuận vượt trội là gì? Trường hợp áp dụng?

+ Thứ nhất, sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xóa nhoà sự khác nhau giữa c và v. Mang đến biểu diễn đối với tư liệu sản xuất đầu vào thuộc sở hữu của nhà tư bản. Và họ xứng đáng có được các quyền lợi với các giá trị thuộc sở hữu.

+ Thứ hai, do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế. Cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá cao hơn chi phi sản xuất tư bản chủ nghĩa và có thế thấp hơn giá trị hàng hoá là đã có lợi nhuận rồi. Không cần thực hiện đúng với giá bán cao nhất. Họ có thể thực hiện quy định giá ở một mức hợp lý. Mang đến cạnh tranh hiệu quả với các chủ thể cung cấp khác. Giúp các sản phẩm được bán ra hiệu quả, nhanh chóng hơn. Vẫn đảm bảo với các nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận trên một đơn vị hàng hóa.

Nhìn vào hình thức, lý luận giai cấp tư sản cho rằng, lợi nhuận là do lưu thông sinh ra. Giải thích cho tính hợp lý với các khả năng và tính toán kinh doanh của giai cấp tư bản. Vì nếu:

Giá cả = giá trị thì p = m

Giá cả > giá trị thì p > m

Giá cả < giá trị thì p < m

Nhưng xét trong toàn xã hội thì tổng giá cả luôn băng tổng giá trị. Do đó tổng p luôn luôn bằng tổng m. Nói cách khác là các giá trị tìm được nhiều hay ít là do nhà tư bản. Nhưng cơ sở của các lợi ích đó xuất phát từ hàng hóa sức lao động của người công nhân. Cũng tức là các lợi ích không được nhận về với các giá trị xứng đáng mà họ khai thác được.

Xét về mặt lịch sử thì tư bản thương nghiệp xuất hiện trước tư bản công nghiệp, đó là thương nghiệp cổ xưa. Điều kiện xuất hiện và tồn tại của tư bản thương nghiệp cổ xưa là lưu thông hàng hoá, lưu thông tiền tệ. Đặc điểm hoạt động của thương nghiệp cổ xưa là "mua rẻ bán đắt", là "kết quả của việc ăn cắp và lừa đảo".

Những người trọng thương luôn cho rằng, lợi nhuận là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, coi thương nghiệp là sự lừa gạt như chiến tranh vậy. Họ cho rằng, "không một người nào thu được lợi mà lại không làm thiệt kẻ khác".

Thương nghiệp cổ xưa tách rời quá trình sản xuất và chiếm địa vị thống trị trao đổi hàng hoá, do đó nó là khâu nối liền các ngành, các vùng, các nước với nhau, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đẩy nhanh quá trình tan rã của xã hội nô lệ, phong kiến, tập trung nhanh tiền tệ vào một số ít người, đẩy nhanh quá trình tích lũy nguyên thuỷ của tư bản và sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Khi việc thực hiện chức năng chuyển hoá H' - T' của tư bản, do sự phân công lao động xã hội, được chuyển thành một hoạt động chuyên môn hoá cho một nhóm tư bản nào đó, thì tư bản kinh doanh hàng hoá [tư bản thương nghiệp hiện đại] xuất hiện.

Tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra, phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp.

Hàng hoá sau khi ở tay nhà tư bản công nghiệp được chuyển sang tay nhà tư bản thương nghiệp có nghĩa là nhà tư bản công nghiệp đã bán xong hàng hoá. Đứng về mặt xã hội mà xét thì nhà tư bản công nghiệp phải bán một lần nữa thì mới xong [vì hàng hoá còn phải lưu thông đến tay người tiêu dùng]. Nhưng khâu này giờ đây do nhà tư bản thương nghiệp đảm nhiệm. Do đó, tư bản thương nghiệp chỉ là một khâu trong quá trình tái sản xuất, không có khâu này thì quá trình sản xuất không thể tiến hành bình thường được.

Sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển thì việc tách rời này là cần thiết, bởi vì:

Một là, sản xuất càng phát triển, quy mô sản xuất càng mở rộng, các xí nghiệp ngày càng lớn lên, làm cho các chức năng quản lý kinh tế ngày càng phức tạp. Vì vậy, mỗi nhà tư bản chỉ có khả năng hoạt động trong một số khâu nào đó thôi. Điều đó đòi hỏi phải có một số người chuyên sản xuất, còn một số người khác thì chuyên tiêu thụ hàng hoá.

Hai là, tư bản thương nghiệp chuyên trách nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, phục vụ cùng một lúc cho nhiều nhà tư bản công nghiệp, do vậy lượng tư bản và các chi phí bỏ vào lưu thông sẽ giảm đi rất nhiều, do đó tư bản của từng nhà tư bản công nghiệp cũng như của toàn xã hội bỏ vào sản xuất sẽ tăng lên.

Ba là, chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng càng gay gắt, do đó cần phải có các nhà tư bản biết tính toán, am hiểu được nhu cầu và thị trường, biết kỹ thuật thương mại... chỉ có nhà tư bản thương nghiệp mới đáp ứng được nhu cầu đó. Về phía tư bản công nghiệp mà xét thì nhờ đó mà nhà tư bản công nghiệp rảnh tay trong khâu lưu thông, chỉ tập trung vào sản xuất, năng suất lao động sẽ tăng lên, quá trình sản xuất được đẩy nhanh, rút ngắn thời gian lưu thông và tăng nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản.

Ra đời từ tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp vừa thống nhất, phụ thuộc, vừa độc lập tương đối với tư bản công nghiệp.

Sự thống nhất, phụ thuộc của tư bản thương nghiệp vào tư bản công nghiệp thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra, làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, cho nên tốc độ và quy mô của lưu thông là do tốc độ và quy mô sản xuất của tư bản công nghiệp quyết định. Sở dĩ như vậy là vì sản xuất bao giờ cũng là cơ sở của trao đổi, của lưu thông, không có sản xuất, không có hàng hoá thì không có cái gì để trao đổi, để lưu thông.

Thứ hai, tư bản thương nghiệp đảm nhiệm chức năng tư bản hàng hoá của tư bản công nghiệp [thực hiện giá trị và giá trị thặng dư]. Do đó, những giai đoạn vận động của tư bản kinh doanh hàng hoá là do sự vận động của tư bản hàng hoá quyết định.

Công thức vận động của tư bản thương nghiệp [tư bản kinh doanh hàng hoá] khác với công thức vận động của tư bản hàng hoá.

Công thức vận động của tư bản kinh doanh hàng hoá là: T - H - T'. Ở đây, hàng hoá được chuyển chỗ hai lần, H từ tay nhà tư bản công nghiệp chuyển sang tay thương nhân, rồi H lại tiếp tục vận động từ tay thương nhân chuyển sang người tiêu dùng. Cuối cùng, kết thúc quá trình vận động thì tăng thêm giá trị [T' > T].

Công thức vận động tư bản hàng hoá là:

H' - T'- H... SX... H'

Ở đây, H chỉ chuyển chỗ có một lần, nhưng tiền T' chuyển chỗ hai lần. Nhà tư bản công nghiệp thu được tiền bán hàng của mình, sau đó lại bỏ tiền ra để mua các yếu tố sản xuất, trong quá trình chuyển hoá không làm tăng thêm giá trị. Hành vi H' - T' của tư bản hàng hoá chỉ là một giai đoạn vận động của tư bản kinh doanh hàng hoá mà thôi.

Công thức vận động của tư bản thương nghiệp cũng khác với công thức vận động lưu thông hàng hoá giản đơn. Trong công thức vận động của lưu thông hàng hoá giản đơn H - T - H, tiền ở đây chỉ giữ chức năng phương tiện lưu thông. Còn trong công thức vận động của tư bản thương nghiệp thì tiền vận động với mục đích tạo ra tiền lớn hơn hay chuyển từ T thành T'.

Tư bản thương nghiệp thực hiện chức năng chuyển hoá tư bản hàng hoá thành tiền tệ mà tư bản công nghiệp trước đây đảm nhiệm. Quá trình này không diễn ra trong sản xuất mà diễn ra trong lĩnh vực lưu thông, chức năng này tách rời các chức năng khác của tư bản công nghiệp.

Tư bản thương nghiệp độc lập làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, nhà tư bản phải ứng trước tư bản nhằm mục đích thu về với lượng tiền lớn hơn trước, thông qua việc mua bán. Với mục đích đó, tư bản của họ không bao giờ mang hình thái tư bản sản xuất, mà chỉ hoạt động trong phạm vi lĩnh vực lưu thông.

Video liên quan

Chủ Đề