Giới hạn nghiên cứu là gì năm 2024

Phạm vi nghiên cứu là giới hạn khảo sát đối tượng nghiên cứu trong trong phạm vi nhất định. Thống nhất về mặt thời gian, không gian và lĩnh vực nghiên cứu.

1.

Phạm vi nghiên cứu của dự án này chỉ giới hạn trong việc phân tích hiệu quả tài chính của các công ty giao dịch công khai trong lĩnh vực công nghệ trong 5 năm qua.

The research scope of this project is limited to analyzing the financial performance of publicly traded companies in the technology sector over the past five years.

2.

Phạm vi nghiên cứu của nghiên cứu này tập trung vào việc xem xét tác động của truyền thông xã hội đối với hành vi mua hàng của người tiêu dùng trong độ tuổi từ 18-35 tuổi.

The research scope of this study is focused on examining the impact of social media on consumer purchasing behavior within the age group of 18-35 years.

Cùng phân biệt research scope và topic of research:

- Research Scope (Phạm vi nghiên cứu): liên quan đến giới hạn và phạm vi của một nghiên cứu. Nó xác định ranh giới và giới hạn của nghiên cứu, bao gồm cả phạm vi đối tượng, thời gian, địa điểm và các yếu tố khác.

Ví dụ: The scope of this project's research is limited to surveying technology companies in Asia between 2010 and 2020. (Phạm vi nghiên cứu của dự án này giới hạn trong việc khảo sát các công ty công nghệ ở khu vực châu Á trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2020).

- Topic of Research (Chủ đề nghiên cứu): là chủ đề, đề tài hoặc vấn đề cụ thể mà nghiên cứu tập trung vào. Nó đề cập đến lĩnh vực nghiên cứu và câu hỏi chính được đặt ra để nghiên cứu.

Ví dụ: The research topic of this project is the impact of social media usage on consumer buying behavior. (Chủ đề nghiên cứu của dự án này là tác động của sử dụng mạng xã hội đến hành vi mua hàng của người tiêu dùng).

Tóm lại, Research Scope liên quan đến phạm vi và giới hạn của nghiên cứu, trong khi Topic of Research liên quan đến chủ đề hoặc vấn đề cụ thể mà nghiên cứu tập trung vào.

Sau khi lựa chọn được chủ đề xuất phát, cần thực hiện bước tiếp theo là giới hạn phạm vi và xác định cụ thể chủ đề cần nghiên cứu. Ban đầu có thể dựa vào trực giác, nhưng sau đó cần định hình các ý tưởng và biến các ý tưởng đó trở thành hiện thực, khả thi.

Giới hạn trong phương pháp nghiên cứu đề cập đến các biến số hoặc ảnh hưởng mà nhà nghiên cứu không thể kiểm soát. Những biến số không thể kiểm soát này thường có nghĩa là thiếu thông tin đầy đủ về đối tượng nghiên cứu nhất định.

Phương pháp và Thiết kế Nghiên cứu

Khi tiến hành bất kỳ hình thức nghiên cứu nào, có nhiều điều có thể xác định thiết kế của một dự án nghiên cứu cụ thể. Câu hỏi nghiên cứu, đạo đức liên quan đến nghiên cứu, phương pháp luận của dự án và ngân sách mà nhà nghiên cứu có sẵn là tất cả các phần chính trong cách một dự án nghiên cứu được thiết kế và thực hiện.

Có hai loại phương pháp nghiên cứu: định tính và định lượng. Cả hai phương pháp nghiên cứu đều liên quan đến việc thu thập thông tin về một chủ đề. Nghiên cứu định tính được sử dụng thường xuyên nhất trong khoa học xã hội để nghiên cứu con người, hành vi, ngôn ngữ và văn hóa. Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng trong nghiên cứu khoa học và trong một số ngành, chẳng hạn như kinh tế học. Loại nghiên cứu này bao gồm việc định lượng hoặc đo lường chủ đề hoặc dữ liệu liên quan đến chủ đề đó.

Giới hạn trong phương pháp nghiên cứu

Tất cả các nghiên cứu đều có một số hạn chế vì luôn có những biến số nhất định mà nhà nghiên cứu không thể kiểm soát. Đôi khi những hạn chế này ít nhiều có ý nghĩa, tùy thuộc vào loại hình nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu. Một số hạn chế có thể xảy ra trong phương pháp nghiên cứu bao gồm thiếu dữ liệu có sẵn hoặc đáng tin cậy, thiếu nghiên cứu trước về chủ đề này, cỡ mẫu có sẵn hoặc biện pháp được sử dụng để thu thập dữ liệu.

Mặc dù những hạn chế trong phương pháp nghiên cứu có thể gây ra các vấn đề trong nghiên cứu, nhưng thông thường thì dự án nghiên cứu vẫn có thể tiếp tục bất chấp những hạn chế hiện tại. Có những trường hợp trong đó các giới hạn có thể khiến một dự án nghiên cứu nhất định không thể sử dụng được hoặc không đáng tin cậy, đặc biệt là khi không có đủ thông tin hoặc biến số để có được sự giải thích chính xác về dữ liệu đang được nghiên cứu. Thông thường, trong nghiên cứu định tính, một số hạn chế nhất định khiến phát hiện không được áp dụng cho dân số lớn hơn, khiến kết quả nghiên cứu không sử dụng được hoặc không thể sử dụng cho các nhóm đối chứng lớn hơn.

Ngoài những hạn chế trong phương pháp nghiên cứu, cũng có thể có những hạn chế của nhà nghiên cứu thực hiện nghiên cứu. Nghiên cứu đúng, chính xác có nghĩa là không thiên vị để đưa ra một đại diện chính xác về một nhóm hoặc các nhóm dữ liệu nhất định. Khi một nhà nghiên cứu có sự thiên vị có thể làm sai lệch cách giải thích của nghiên cứu, thì đó được coi là một hạn chế của nhà nghiên cứu. Việc thiếu khả năng tiếp cận thông tin, kinh nghiệm và sự quen thuộc với chủ đề một cách thích hợp đều có thể là những hạn chế của nhà nghiên cứu có thể ảnh hưởng đến dự án hoặc phương pháp nghiên cứu.

Loại Nghiên cứu Nghiên cứu

Ngoài các phương pháp nghiên cứu khác nhau, còn có các nghiên cứu khác nhau. Bất kỳ phương pháp nghiên cứu hoặc nghiên cứu nào cũng có thể có những hạn chế ở một mức độ nào đó. Các giới hạn sẽ khác nhau tùy thuộc vào loại nghiên cứu và nội dung đang được nghiên cứu.

Nhiều nghiên cứu nghiên cứu thuộc một trong một số loại phổ biến. Nghiên cứu tương quan kiểm tra hiệp biến của nhiều biến số, chẳng hạn như hiệp biến của bệnh tim ở những người được chẩn đoán là béo phì. Thí nghiệm thực được định nghĩa là nghiên cứu trong đó tất cả các biến được cố gắng kiểm soát, ngoại trừ biến là trọng tâm của nghiên cứu. Những nghiên cứu này thường là nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và bao gồm nghiên cứu nhóm chứng truyền thống và nghiên cứu mù đôi.

Thử nghiệm bán thực là một loại nghiên cứu khác tương tự như các thử nghiệm thực sự. Sự khác biệt chính giữa thực nghiệm và gần như thực nghiệm là nghiên cứu bán thực nghiệm sử dụng các nhóm được hình thành tự nhiên, thay vì tập hợp các nhóm lại với nhau cho mục đích của nghiên cứu.