Bộ là cơ quan song trùng trực thuộc dụng hay sai

Lỗi không chỉ riêng của Bộ Y tế

“Mỗi khi có sự việc xẩy ra với ngành y, dư luận xã hội và báo chí đổ trách nhiệm cho bộ trưởng. Tôi đứng đầu ngành, tôi nhận, nhưng căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật để chứng minh thì không phải bất cứ việc gì xẩy ra cũng đều do lỗi của một mình Bộ Y tế.” - Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến bày tỏ tại Hội thảo khoa học Vai trò của chính quyền địa phương trong công tác y tế, được tổ chức ngày 26.12 vừa qua.


Nguồn: ven.vn

Liên quan đến vấn đề trách nhiệm quản lý trong công tác y tế, Ủy viên Thường trực Ủy ban Các vấn đề xã hội Nguyễn Thị Khá cho biết: trước đây, cố Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Song từng nói, mỗi khi có vấn đề về y tế như dịch bệnh, sai sót của các cơ sở y tế địa phương thì dư luận xã hội và báo chí đều hỏi Bộ Y tế ở đâu không quản lý mà đến nỗi này…nhưng kể từ sau khi Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân ghi rõ: việc chăm sóc sức khỏe nhân dân ở địa phương là trách nhiệm của chính quyền địa phương. Bộ Y tế chỉ liên đới một phần trách nhiệm nếu các quy định pháp quy do Bộ Y tế ban hành chưa đủ mạnh hoặc dẫn đến sai sót, hoặc trách nhiệm kiểm tra đôn đốc của Bộ Y tế.

Thực tế, các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy, tài chính, ngân sách đã quy định rõ, HĐND có trách nhiệm quy định phân bổ nguồn lực [nhân lực, tài chính, cho các lĩnh vực trong đó có y tế..” mà Quốc hội đã quyết cả gói cho mỗi địa phương từng năm [kể cả kinh phí các chương trình mục tiêu quốc gia] địa phương điều hành bộ máy để thực thi các quy định do các cơ quan trung ương ban hành… Không quyết định nguồn nhân lực, vậy mỗi khi có sự cố về y tế xẩy ra tại các cơ sở y tế ở các tỉnh…thì dư luận chỉ thường kêu Bộ trưởng Bộ Y tế thì có đúng hay không?”

Từ thực tế đó, nhiều ý kiến cho rằng, nên thống nhất quản lý y tế theo ngành dọc từ cấp tỉnh trở xuống ở tất cả các tỉnh [một số tỉnh vẫn quản lý theo lãnh thổ]. Nên quy định rõ hơn nữa về chế độ báo cáo, để Bộ Y tế có thông tin hằng năm về nhân lực, tổ chức, kinh phí chi cho bảo vệ sức khỏe trên quy mô cả nước và công khai cho toàn dân biết để tránh khoảng trống. Đội ngũ thanh tra phải đủ lớn mạnh vì hiện nay rất thiếu hụt về thanh tra y tế.

Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến chia sẻ: “Vai trò của truyền thông hướng dư luận nhìn chung là công bằng. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua ngành y tế dồn dập sự cố, có những vấn đề báo chí nên công bằng hơn. Đổ trách nhiệm cho bộ trưởng, tôi đứng đầu ngành, tôi nhận không chối bỏ. Nhưng có một vài chính quyền địa phương dù trách nhiệm rõ ràng nhưng không chịu nhận, lờ đi…”.

Cần phân định rõ trách nhiệm

Tại hội thảo, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đặc biệt nhấn mạnh vai trò quan trọng của các cấp chính quyền địa phương trong công tác y tế; nhất là trong hoạt động y tế dự phòng; xây dựng mạng lưới y tế cơ sở... Bên cạnh đó, Bộ trưởng cũng cho rằng, để công tác y tế ngày càng hiệu quả cần xác định rõ trách nhiệm quản lý công tác y tế giữa chính quyền trung ương và địa phương; xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức hệ thống y tế, đặc biệt là hệ thống y tế cơ sở.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến, mô hình hệ thống tổ chức y tế ở nước ta hiện nay là phân chia quyền lực giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương theo nguyên tắc song trùng trực thuộc: Bộ Y tế quản lý ngành; chính quyền địa phương quản lý theo lãnh thổ. Theo đó, các cơ sở y tế vừa chịu sự quản lý về chuyên môn y tế do Bộ Y tế ban hành vừa chịu sự lãnh đạo của địa phương về tổ chức, nhân lực y tế…

“Song trùng trực thuộc thì chế độ trách nhiệm phải được xác lập song trùng nhưng trên thực tế việc nhận thức cũng như hành động liên quan đến trách nhiệm công vụ của từng chức danh chưa rõ ràng và minh bạch” - Bộ trưởng chia sẻ.

Ts Nguyễn Huy Quang, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế cho biết: mô hình tổ chức hệ thống y tế Việt Nam hiện nay được tổ chức theo 4 cấp phụ thuộc vào hệ thống tổ chức nhà nước [trung ương, tỉnh, huyện, xã]. Ngoài ra, để phát triển năng lực chuyên môn, hệ thống y tế còn kết hợp tổ chức theo hệ thống y tế chuyên sâu và y tế phổ cập. Với cách tiếp cận này, cơ chế quản lý nhà nước ở tuyến huyện, xã với cơ chế vận hành hoạt động chuyên môn thật sự chưa rõ ràng; dẫn đến tình trạng chồng chéo chỉ đạo chuyên môn, quản lý điều hành, khó khăn bố trí nguồn lực.

Mặt khác, trong 1 tỉnh cũng có các phương thức quản lý khác nhau: nơi thì Sở Y tế quản lý theo ngành dọc, nơi thì vẫn quản lý theo ngành ngang, có nơi thì kết hợp quản lý cả ngang và dọc. Việc tổ chức tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật công chức y tế đều thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương và Bộ Y tế không có quyền can thiệp. Với phương thức quản lý hiện nay, chính quyền địa phương được toàn quyền tổ chức thi hành pháp luật trên địa bàn và chịu trách nhiệm về các vấn đề y tế xảy ra.

Ts Nguyễn Huy Quang kiến nghị: cần thiết phải phân cấp cụ thể trong luật hoặc trong văn bản khác thích hợp về trách nhiệm công vụ, trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ để quy trách nhiệm tập thể, cá nhân ở cả trung ương và địa phương trong quá trình quản lý nhà nước về y tế; chấn chỉnh những quan niệm về tổ chức và quản lý chưa nhất quán; nghiên cứu để tái cấu trúc hệ thống y tế, đáp ứng sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân...

CHƯƠNG 3: CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚCQuản lý hành chính nhà nước là một hoạt động có mục đích. Những mục đích, mục tiêu cơ bản định ra trước cho hoạt động quản lý và kết quả của việc đạt được mục đích, mục tiêu đó phản ánh hiệu quả của việc quản lý. Hiệu quả của quản lý vì vậy phải được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Ðặc biệt, khi Luật hành chính thực định vẫn còn chưa được tập trung- chỉ là tập hợp các văn bản về quản lý nhà nước, tồn tại dưới nhiều hình thức văn bản pháp lý không cao, thì nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước là một đòi hỏi bức thiết và sự tuân thủ hệ thống các nguyên tắc càng đòi hỏi chặt chẽ. 1. Nguyên tắc tập trung dân chủa] Cơ sở pháp lý Ðây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước ta nên việc thực hiện quản lý hành chính nhà nước phải tuân theo nguyên tắc này. Ðiều 6-Hiến pháp 1992 quy định :Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. b] Nội dung nguyên tắc Nguyên tắc tập trung dân chủ bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. ¨ Tuy nhiên, đây không phải là sự tập trung toàn diện và tuyệt đối, mà chỉ đối với những vấn đề cơ bản, chính yếu nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó bảo đảm cho cơ quan cấp dưới, cơ quan địa phương có cơ sở và khả năng thực hiện quyết định của trung ương; đồng thời, căn cứ trên điều kiện thực tế của mình, có thể chủ động sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề của địa phương và cơ sở. Cả hai yếu tố này vì thế phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ. Chúng có mối quan hệ qua lại, phụ thuộc và thúc đẩy nhau cùng phát triển trong quản lý hành chính nhà nước. ¨ Tập trung dân chủ thể hiện quan hệ trực thuộc, chịu trách nhiệm và báo cáo của cơ quan quản lý trước cơ quan dân chủ ; phân định chức năng, thẩm quyền giữa cơ quan quản lý các cấp, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung của cấp trên của trung ương và quyền chủ động của cấp dưới. Ngoài ra, đó là hệ thống "song trùng trực thuộc" của nhiều cơ quan quản lý, bảo đảm sự kết hợp tốt nhất sự lãnh đạo tập trung theo ngành với quyền quản lý tổng thể của địa phương. ¨ Có sự phân cấp rành mạch. Quyền lực nhà nước không phải được ban phát từ cấp trên xuống cấp dưới. Sự phân quyền cho từng cấp là cần thiết nhưng phải đồng thời được kết hợp với việc xác định vai trò của từng cấp hành chính: trung ương, tỉnh, huyện, xã. Từ khi ra đời, mỗi cấp đã có "sứ mệnh lịch sử" và vai trò quản lý hành chính nhà nước riêng, đặc thù. Có những chức năng được thực hiện ở cấp dưới lại có hiệu quả hơn cấp trên, hoặc có những chức năng tất yếu phải được thực hiện ở cấp cơ sở. Hương ước làng xã là một ví dụ. Hương ước không thể được "lập ra" ở cấp huyện, cấp mà có thể có rất nhiều làng xã với những tập quán và lối sống khác nhau. Từ đó, nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện cụ thể như sau: - Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Ðiều 6-Hiến pháp 1992 quy định : Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Như vậy, Hiến pháp quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt mình trực tiếp thực hiện những quyền lực đó. Ðể thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước được thành lập và nó luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. + Các cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập, thay đổi, bãi bỏ các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp. + Trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình với cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Tất cả sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động, bảo đảm sự tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực-cơ quan do dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân. - Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, của địa phương đối với trung ương. Nhờ có sự phục tùng này cấp trên và trung ương mới tập trung quyền lực nhà nước để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương, nếu không có sự phục tùng sẽ xảy ra tình trạng cục bộ địa phương, tùy tiện, vô chính phủ. + Sự phục tùng ở đây là sự phục tùng mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. + Mặt khác, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương về công tác tổ chức, hoạt động và về các vấn đề khác của quản lý hành chính nhà nước. + Phải tạo điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nhằm chủ động thực hiện được "thẩm quyền cấp mình". Có như thế mới khắc phục tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động sáng tạo của địa phương, cấp dưới. - Sự phân cấp quản lý. Là sự phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương thức cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình. Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, việc phân cấp phải đảm bảo những yêu cầu sau: + Phải xác định quyền quyết định của trung ương đối với những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược để đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của nhà nước trong phạm vi toàn quốc. + Phải mạnh dạn phân quyền cho địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính chủ động sáng tạo trong quản lý, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao phó. + Phải phân cấp quản lý cụ thể, hợp lý trên cơ sở quy định của pháp luật. Hạn chế tình trạng cấp trên gom quá nhiều việc, khi không làm xuể công việc ấy thì giao lại cho cấp dưới. Phân cấp quản lý phải xác định chức năng cơ quan. Mỗi loại việc chỉ được thực hiện bởi một cấp cơ quan, hoặc một vài cấp cơ quan. Cấp trên không phải lúc nào cũng thực hiện được một số chức năng một cách có hiệu quả như cấp dưới. - Sự hướng về cơ sở Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa xã hội trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi tạo ra của cải vật chất trực tiếp phục vụ đời sống nhân dân. Vì thế nhà nước cần có các chính sách quản lý thống nhất và chặt chẽ, cung cấp và giúp đỡ về vật chất nhằm tạo điều kiện để đơn vị cơ sở hoạt động có hiệu quả. Có như vậy hoạt động của các đơn vị này mới phát triển một cách mạnh mẽ theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðây cũng chính là việc thực hiện "dân là gốc" trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. - Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc. Ðối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung một mặt phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, mặt khác phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Ví dụ: UBND Tỉnh A một mặt chịu sự chỉ đạo của HÐND Tỉnh A theo chiều ngang, một mặt chịu sự chỉ đạo của Chính phủ theo chiều dọc. Ðối với cơ quan chuyên môn, một mặt phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên trực tiếp. Ví dụ: Sở Tư pháp Tỉnh B, một mặt phụ thuộc vào UBND Tỉnh B, mặt khác phụ thuộc vào Bộ Tư pháp. Nguyên tắc song trùng trực thuộc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương bảo đảm sự thống nhất giữa lợi ích chung của nhà nước với lợi ích của địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích của lãnh thổ. 2. Nguyên tắc pháp chế XHCNa] Cơ sở pháp lý Ðây là nguyên tắc thể hiện một nguyên lý căn bản của tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Bởi vì trước hết việc tổ chức và hoạt động hành chính phải hợp pháp, tức là phải tuân theo pháp luật. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa vì vậy là một biện pháp để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa". [Ðiều 12- Hiến pháp 1992] b] Nội dung nguyên tắc Biểu hiện của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước như sau: 1. Trong lĩnh vực lập quy Khi ban hành quy phạm pháp luật thuộc phạm vi thẩm quyền của mình, các cơ quan hành chính nhà nước phải tôn trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa, phải tôn trọng vị trí cao nhất của hiến pháp và luật, nội dung văn bản pháp luật ban hành không được trái với hiến pháp và văn bản luật, chỉ được ban hành những văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi thẩm quyền và hình thức, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. 2. Trong lĩnh vực thực hiện pháp luật Việc áp dụng quy phạm pháp luật phải tuân theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, tức là phải phù hợp với yêu cầu của luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác, phải thiết lập trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể áp dụng quy phạm pháp luật, mọi vi phạm phải xử lý theo pháp luật, áp dụng pháp luật phải đúng nội dung, thẩm quyền và phải tôn trọng những văn bản quy phạm pháp luật do chính cơ quan ấy ban hành. 3. Trong lĩnh vực tổ chức Ðể đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước đòi hỏi việc thực hiện pháp chế phải trở thành chức năng quan trọng của mọi cơ quan quản lý và ngay trong bộ máy quản lý cũng phải có những tổ chức chuyên môn thực hiện chức năng này. Vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực tổ chức là vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước, vi phạm mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau. 4. Trong việc quản lý nói chung Mở rộng, bảo đảm các quyền dân chủ của công dân. Mọi quyết định hành chính và hành vi hành chính đều phải dựa trên quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trực tiếp hoặc gián tiếp. Ngược lại, việc hạn chế quyền công dân chỉ được áp dụng trên cơ sở hiến định. 5. Phải chịu trách nhiệm trước xã hội và pháp luật Các chủ thể quản lý hành chính nhà nước phải chịu trách nhiệm do những sai phạm của mình trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, xâm phạm đến lợi ích tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và phải bồi thường cho công dân. Chính vì vậy, hoạt động quản lý gắn liền với một chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt đối với một chủ thể quản lý. Chế độ trách nhiệm ấy thông qua pháp luật và các hệ thống kỷ luật nhà nước. Cụ thể hơn, yêu cầu của quản lý đặt dưới sự thanh tra, kiểm tra giám sát và tài phán hành chính để pháp chế được tuân thủ thống nhất, mọi vi phạm đều bị phát hiện và xử lý theo đúng pháp luật. Sự kiểm tra và giám sát ấy, trước hết phải được bảo đảm thực hiện chính từ chủ thể quản lý. Tự kiểm tra với tư cách tổ chức chuyên môn vì thế cũng rất cần thiết như sự kiểm tra, giám sát từ phía các cơ qaun nhà nước tương ứng, các tổ chức xã hội và công

Video liên quan

Chủ Đề