“Lương y bất đáo gia” [Thầy thuốc không có dịp đến nhà] là câu kết trong bài thơ chữ Hán thường được các vị có tuổi nhắc đi nhắc lại trong lúc trà rượu. Nguyên văn 4 câu thơ chữ Hán ấy là:
“Bán dạ tam bôi tửu,
Bình minh nhất trản trà,
Thất nhật dâm nhất độ,
Lương y bất đáo gia”
Nghĩa là: Sáng sớm uống một chén trà, nửa đêm uống
ba chén rượu, 7 ngày một lần gặp phụ nữ, giữ đều như vậy, sức khỏe
được bảo vệ, và thầy thuốc không có dịp đến nhà.
Nếu thực là một kinh nghiệm lâu dài được đúc kết
thì chúng ta cần tìm hiểu để áp dụng. Nếu không, cũng phải đính
chính để người sau đỡ mắc sai lầm. Cho nên trước hết cần tìm xem 4
câu thơ này có từ bao giờ? Tại sao rất nhiều người biết?
Hỏi lương y Nguyễn Trung Hòa, Chủ tịch Hội Y học
cổ truyền TP.HCM, chính lương y cũng chưa được đọc ở sách báo nào,
nhưng cũng được nghe nhiều người nhắc lại và hỏi ý kiến về những
điều khuyên trong 4 câu thơ truyền tụng đó. Lương y cho rằng về cơ bản,
muốn giữ gìn sức khỏe, mỗi sáng sớm vẫn nên uống một chén nước
trà, nửa đêm uống rượu, nhưng chỉ cần một chén thôi [không phải 3],
và nửa tháng mới gần phụ nữ một lần [không phải mỗi tuần một
lần]. Lương y nhấn mạnh đến 3 chữ nhất [một], và riêng đối với chữ
nhất thứ ba cần hạn chế hơn nữa vì trong thuật dưỡng sinh, sách của
Y tổ Tuệ Tĩnh của nước ta đã viết:
“Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần,
Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình”.
Đó là lời nhắc nhở mọi người cần hạn chế tối đa
lãng phí tinh dịch [bế tinh], giảm sự ham muốn [quả dục], luyện tập
cơ thể [luyện hình] và tâm hồn thanh thản [thanh tâm]…
Mới đây, một lương y cho biết 2 trong 4 câu thơ trên kia
có chép trong bộ sách “Minh tâm bửu giám” của Trương Vĩnh Ký in tại
Sàigòn năm 1891, được in lại nhiều lần và bán ở khắp nước ta vào
những năm 1930-1940 và được một số gia đình dùng làm sách dạy luân
lý cho con cái trong nhà. Nhưng chỉ có 2 câu, đó là:
“Lục nguyệt dâm nhất độLương y bất đáo gia”
[6 tháng gần phụ nữ một lần, thầy thuốc không có
dịp đến nhà].
Trương Vĩnh Ký [1837-1898] là một nhà thông thái ở
miền Nam, biết rất nhiều ngoại ngữ và viết rất nhiều sách phổ biến
trong cả nước, đã tham gia một số hội và tổ chức khoa học của Pháp,
nhưng Trương Vĩnh Ký chỉ viết và in MTBG vào năm 1891, nghĩa là vào
năm 54 tuổi. Như vậy Trương Vĩnh Ký khuyên mọi người 6 tháng một lần
gần phụ nữ là căn cứ sức khỏe và tuổi tác của bản thân. Khi dịnh
học theo kinh nghiệm ghi trong sách phải nhớ đến hoàn cảnh của tác
giả để vận dụng cho thích hợp với từng người, từng hoàn cảnh, mà
kinh nghiệm này mới xuất phát từ một người,cho nên chỉ có giá trị
tham khảo. [Thực ra Minh Tâm Bảo Giám là sách dịch, về nguồn gốc của
nó xin xem bài trên CTQ81, tr.22 - BT].
Ta có thể khẳng định rằng 2 câu “bình minh nhất trản
trà, bán dạ tam bôi tửu” cũng chỉ mới thêm,khiến người đọc tưởng
rằng đó là những kinh nghiệm lâu đời, từ xa xưa truyền lại.
Trong thời gia vừa qua, chúng tôi có dịp đọc lại một
số tài liệu đã viết và in thành sách nói rằng sinh hoạt tình dục
đúng mức độ giúp ích cho sức khỏe và kéo dài tuổi thọ cho cả nam
và nữ, còn nếu không biết giữ điều độ sinh hoạt tình dục thì tác hại
gây ra không nhỏ. Người xưa đã nói: “Phòng trung chi sự năng sinh nhân,
năng sát nhân”, nghĩa là sinh hoạt tình dục có thể sinh ra con người,
mà cũng có thể làm chết người.
Và mức độ sinh hoạt ấy tùy thuộc vào độ tuổi cũng
như vào sức khỏe từng người mà gia giảm khác nhau. Gia giảm như thế
nào, thì mỗi tác giả có thay đổi chút ít. Ví dụ thầy thuốc nổi
tiếng Tôn Tư Mạc [581-682] trong sách “Thiên kim yếu phương” [những đơn
thuốc quý như vàng] đã đề xuất mức độ như sau: Tuổi 20 [từ 20-29
tuổi] cách 4 ngày một lần; tuổi 40 [40-49] cách 16 ngày một lần;
tuổi 50 [50-59] cách 20 ngày một lần. Tuổi 60 nên ngừng, nhưng nếu vẫn
còn mạnh khỏe có thẻ cách 30 ngày một lần. Những người tinh lực
đầy đủ khác thường, không nhất thiết ức chế quá mức mà sinh ra các
chứng ung thư [chữ ung thư trong sách cổ không cùng nghĩa ung thư hiện
nay, mà có ý nghĩa sưng, tấy, viêm, đau kiểu ung nhọt].
Số lần sinh hoạt tình dục tùy theo tuổi và tình
hình sức khỏe từng người do Tôn Tư Mạc đề xuất, được phần lớn các
nhà dưỡng sinh đời sau tán thành. Nói chung, ở tuổi đang sung sức,
mỗi tuần một hai lần nhập phòng, không ảnh hưởng đến sức khỏe, mà
lại gây sảng khoái, có lợi cho đời sống. Khi tuổi càng cao, nên giảm
bớt dần, và đến một độ tuổi nào nên ngừng hẳn. Tác giả còn nói
thêm: số lần nhiều ít còn phụ thuộc vào thể trạng của từng người,
chủ yếu là buổi sáng hôm sau ngủ dậy, cảm thấy tinh thần sảng
khoái, vui vẻ, muốn hoạt động thì được.
Tuy nhiên, trong sách cổ nói về thuật “phòng trung”
còn ghi những nguyên tắc mà chúng tôi chép lại đây để bạn đọc
tham khảo.
Theo triết học phương Đông, con người và thiên nhiên là
hợp nhất, cho nên nhịp điệu sinh hoạt tình dục phải phù hợp với sự
biến đổi của khí hậu và thời tiết 4 mùa: mùa xuân - mùa hạ dương
khí thăng phát phồn thịnh, mùa thu và mùa đông dương khí thu liễm [co
lại] bế tàng. Sinh hoạt phòng trung của con người cũng nên thích ứng
với nhịp độ đó. Ví dụ từ xuân đến hạ thì nhịp độ tăng lên, sang thu
thì giảm bớt và vào mùa đông thì ngừng hẳn để bảo tàng chân khí.
Trong khi đó ở nước ta, thu đông là mùa cưới xin, thì nên áp dụng hạ
hai, thu một, đông nghỉ… ra sao?
Thuật phòng trung của y học phương Đông còn khuyên
tránh sinh hoạt tình dục vào những ngày xấu trời: mưa to gió lớn,
giông bão, động đất,… vì môi trường đang đột biến, thì trạng thái cơ
thể cũng đang phải biến động để thích nghi, thì khi ấy không nên làm
cho tinh khí xuất tiết, có bảo tồn tinh lực thì chân khí mới khỏi
bị hao tổn. Các nhà nghiên cứu về thời sinh học trong những năm gần
đây cũng khẳng định tính đúng đắn của những lời căn dặn đó.
Đỗ Tất Lợi [CTQ số 102]
Nguồn: báo điện tử Cây thuốc quý
Bán dạ tam bôi tửu,
Bình minh số trản trà.
Nhất nhật cứ như thử.
Lương y bất đáo gia [Hải Thượng Lãn Ông
Lê Hữu Trác]
Uống trà trong nắng sớm
Vườn tâm đầy hương hoa
[Viên Ngộ]
Hàn dạ khách lai trà đương tửu Trực lô thang phí hỏa sơ hồng [Đêm lạnh khách thăm trà thay rượu
Bếp lò đun nước lửa đang hồng]
[Đỗ Lỗi]
Tiễn chân ai bước đường xa
Miệng cười đưa một bình trà tặng nhau
[Viên Chiếu]
Khi trà chuyên năm ba chén
Khi Kiều lẩy một đôi câu
[Nguyễn Khuyến]
Khi hương sớm lúc trà trưa
Bàn lan điểm nước đường tơ họa đàm
[Nguyễn Du]
Sương mai lịm khói trà Gió lạnh vuốt tờ hoa Nhè nhẹ tay nâng bút
Nghe lòng rộn âm ba
[Tuệ Sỹ]
Làng xưa như mộng trong ngần Can qua chưa dứt, yên phần mừng thay Bao giờ lều cỏ núi mây
Pha trà nước suối, gối say đá mềm
[Nguyễn Trãi]
Nhẹ nâng một chén trà Thiền Bình tâm nhìn khói ưu phiền thoảng bay Cuộc đời một giấc mộng say
Trăm năm nhìn lại… Mới hay… Vô thường!
[Thiện Hùng]
Nhấp ngụm trà thơm khà một tiếng
Trăng vàng rớt xuống đáy ly nghiêng
[Đặng Phương Mai]
Hương trà chưa cạn chén hàn ôn Thuyền đã buông theo tiếng sóng dồn Ngắm vợi mây thu ùn mặt biển
Gác chuông thành cổ đọng hoàng hôn
[Quách Tấn]
Thèm bấy lâu nay một ngụm trà Ngóng người tri kỷ tận nơi xa Hương trà xứ ấy lòng còn lắng
Dẫu có bao xuân vị chẳng nhòa
[Đăng Học]
Nhặt chút hương tĩnh lặng Hãm chung trà vô vi Cùng cảo thơm thi bút
Mời bằng hữu cố tri
[Mai Quang]
Để uống trà thơm bên gốc bách
Rửa chén hàng ngày trong suối tiên.
[Thái Bá Tân]
Mỗi sớm pha ấm trà Niềm vui đến chật nhà Hương bốn mùa gói lại
Gửi tặng người đường xa.
[Phạm Thuận Thành]
Thơm, thơm, thơm tự bàn tay Hương nào của đất, của cây, của người Chắt trong gió, nắng, mưa trời Đi qua lửa đỏ một đời đến nhau
[Nguyễn Bá Thắng]
Ví không sánh chát từ xanh tóc Đâu dễ dư hương đến bạc đầu Trăm tuổi người đi trà ở lại Khói sương lãng đãng để bền lâu
[Hoàng Năng Trọng]
Nước chè tươi rót vàng mơ Đôi khi hạnh phúc đơn sơ vô cùng
[Nguyễn Duy]
Chọn hương chè làm khăn quàng cổ Nên thương ai thơm ngát trọn đời
[Nguyễn Đức Hạnh]
Đều tay quạt lửa pha trà sớm Cùng tách trà thơm đón mặt trời…
[Thiên Anh]
Cùng em nâng chén trà hương Khi ngày mới chớm khói sương mịt mờ Trăm năm thu ngắn một giờ An vui hạnh phúc bên bờ thần tiên
[Tràm Cà Mau]
Chén trà trên hai tay Chánh niệm dâng tròn đầy Thân và tâm an trú Bây giờ và ở đây
[Thi kệ Thiền Trà]
Qua đêm phiền não tan rồi Ấm ly trà sớm ta ngồi với ta Hiên ngoài vài giọt sương sa Tan trên chồi biếc chan hòa nắng mai
[Trần Ngọc Tuấn]
Ai hay trong một tách trà Có hồ sen ngát mượt mà dâng hương
[Thích Tánh Tuệ]
Đốt trầm hương lên Ngâm bài cổ thi Khoác áo dài nâu Thưởng trà đạo vị
[Phạm Thiên Thư]
Chè đọt đang kỳ điểm lá ba Giọt sương lách tách cửa song nhòa Thơ ngồi suốt buổi không ra tứ Cháu đã đun tràn ấm nước pha
[Yến Lan]
Nhà lá đơn sơ Tấm lòng rộng mở Nồi cơm nấu dở Bát nước chè xanh Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau
[Hoàng Trung Thông]
Em như búp trà nhỏ Ta củi lửa thêm hương Đông về giăng sương trắng Bên em, lạc cung đường
[Dương Đăng]
Quất mãi nước sôi Trà đau nát bã Chẳng đổi giọng Tân Cương
[Phùng Cung]
[Sưu tầm]