100 nhà soạn nhạc cổ điển hàng đầu năm 2022

100 nhà soạn nhạc cổ điển hàng đầu năm 2022

Show

Dàn nhạc Philadelphia Orchestra có trụ sở tại Philadelphia, Pennsylvania được coi là một trong năm dàn nhạc giao hưởng lớn nhất (Big Five) tại Mĩ (cùng với New York Philharmonic, Boston Symphony Orchestra, Chicago Symphony Orchestra và Cleveland Orchestra) và là một trong những dàn nhạc xuất sắc nhất trên thế giới. Kể từ năm 2001 đến nay, dàn nhạc thường xuyên tổ chức các buổi hòa nhạc tại Kimmel Center for the Performing Arts, Verizon Hall gần Academy of Music (nhà hát opera cổ nhất nước Mĩ) – ngôi nhà đã gắn bó với họ từ những ngày đầu, cách đây đã hơn 1 thế kỉ.

Dàn nhạc được thành lập vào năm 1900, với mục đích ban đầu là quyên góp tiền cho phụ nữ và trẻ em mồ cồi trong cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Tây Ban Nha. Sau đó, chính quyền thành phố Philadelphia đã đồng ý cho thành lập một dàn nhạc giao hưởng tại thành phố này. Trải qua suốt chiều dài lịch sử hơn 100 năm của mình, có tất cả 7 nhạc trưởng nắm giữ cương vị giám đốc âm nhạc của Philadelphia Orchestra. Người đầu tiên nắm giữ cương vị này là nhạc trưởng người Đức Fritz Scheel và ông đã chỉ huy đêm diễn đầu tiên của dàn nhạc vào ngày 16 tháng 11 năm 1900 tại Academy of Music. Ông nắm giữ cương vị này đến năm 1907 khi ông qua đời. Trong những ngày đầu non trẻ của dàn nhạc, với tài năng của mình, Scheel đã dần đần nâng cao được uy tín của Philadelphia Orchestra đồng thời ông cũng mời những nhạc sĩ, nghệ sĩ tài năng cộng tác cùng dàn nhạc. Những điểm đáng chú ý nhất trong nhiệm kì của Scheel là: dàn nhạc xuất hiện lần đầu tiên tại Carnegie Hall vào năm 1902; năm 1904, Richard Strauss được mời chỉ huy cùng Philadelphia Orchestra trong một đêm diễn gồm toàn những tác phẩm của chính nhạc sĩ, chương trình có sự tham gia của soprano Pauline – vợ của Richard Strauss; nghệ sĩ piano trẻ tuổi người Ba Lan Artur Rubinstein đã lần đầu ra mắt khán giả Mĩ trong đêm biểu diễn cùng Philadelphia Orchestra vào năm 1906, mở đầu cho sự cộng tác kéo dài trong suốt 7 thập kỉ; cũng trong năm này, Fritz Scheel cùng Philadelphia Orchestra có buổi biểu diễn đặc biệt tại Nhà Trắng cho tổng thống Mĩ Theodore Roosevelt cùng gia đình.

Sau khi Scheel mất vào năm 1907, thay thế ông là Carl Pohlig, một nhạc trưởng người Đức khác. Vị giám đốc âm nhạc thứ 2 của Philadelphia Orchestra này đã từng là trợ lí của nhạc sĩ người Áo Gustav Mahler. Và trước khi về với Philadelphia Orchestra, Pohlig đã rất nổi tiếng trước đó khi vào năm 1901 tại Stuggart, Đức, ông đã trở thành nhạc trưởng đầu tiên trên thế giới chỉ huy bản giao hưởng số 6 giọng La trưởng, WAB 106 của nhà soạn nhạc người Áo Anton Bruckner đúng theo tổng phố gốc của Bruckner (trước đó tác phẩm này chỉ được biểu diễn theo bản chỉnh sửa của Mahler). Trong thời gian chỉ huy Philadelphia Orchestra, đóng góp lớn nhất của Pohlig là đã mời nhà soạn nhạc, nghệ sĩ piano vĩ đại Sergei Rachmaninov chỉ huy và biểu diễn cùng dàn nhạc trong lần ra mắt đầu tiên của Rachmaninov trên đất Mĩ vào năm 1909, mở ra một sự cộng tác lâu dài và chặt chẽ suốt những năm sau đó. Tuy nhiên sau 5 năm làm việc cùng dàn nhạc, Carl Pohlig đã xin từ chức trong sự hổ thẹn vì mối quan hệ vụng trộm của ông với cô thứ kí người Thụy Điển bị phát giác. Người lên thay Pohlig và trở thành nhạc trưởng thứ 3 của Philadelphia Orchestra là Leopold Stokowski (1882 – 1977).

Nhạc trưởng người Mĩ Leopold Stokowski sinh ra tại Anh trong một gia đình có bố là người Ba Lan và mẹ là người Ireland. Bên cạnh công việc chỉ huy dàn nhạc, ông còn được biết đến với tư cách một nghệ sĩ chơi đàn organ và nhạc sĩ phối khí tài ba. Rất nhiều những tác phẩm dành cho organ độc tấu của Johann Sebastian Bach đã được Stokowski phối lại cho dàn nhạc. Ngày 11 tháng 10 năm 1912, Stokowski đã có buổi chỉ huy đầu tiên cùng Philadelphia Orchestra. Và kể từ đây, danh tiếng của dàn nhạc cùng với vị chỉ huy đáng kính của mình ngày một lan rộng. Stokowski đã mang đến cho Philadelphia Orchestra một sắc thái âm nhạc hoàn toàn mới (được gọi là Philadelphia sound) với nền tảng là sự hoa mĩ, cường độ và khắt khe trong từng câu nhạc. Là người có nhiều sáng kiến, Stokowki đã thay đổi chỗ ngồi của dàn nhạc, ông bố trí bè contrebass ra phía cuối sân khấu, đưa bè violin sang bên trái và bè cello sang bên phải bục chỉ huy. Chính ông là người đầu tiên đề xuất với ban giám đốc dàn nhạc về việc chỉ thuê những nhạc công giỏi nhất và tạo ra không khí cạnh tranh và thách thức giữa các thành viên trong dàn nhạc. Năm 1916, Stokowski và Philadelphia Orchestra đã tạo nên một cột mốc trong lịch sử âm nhạc nước Mĩ khi lần đầu tiên cho ra mắt khán giả Mĩ bản giao hưởng số 8 giọng Mi giáng trưởng (“Symphony of a Thousand”) của Mahler. Năm 1917, Philadelphia Orchestra có bản thu âm đầu tiên của mình, bản thu này được hãng Victor Talking Machine, Camden, New Jersey ghi âm trên đĩa than tốc độ 78 (đây cũng là bản thu âm đầu tiên của Stokowski). Năm 1921, Stokowski và dàn nhạc đã cùng nhau thực hiện những buổi hòa nhạc phục vụ cho trẻ em lứa tuổi dưới 13. Chính từ những buổi hòa nhạc này mà đến năm 1933, đã hình hành những cuộc thi âm nhạc hàng năm dành cho sinh viên. Trong những năm sau đó, rất nhiều thí sinh chiến thắng trong các cuộc thi này đã trở thành những nghệ sỹ tên tuổi như soprano Judith Blegen, mezzo–soprano Florence Quivar, pianist André Watts, violinist Nadja Salerno–Sonnenberg và violist Jaime Laredo cũng như rất nhiều các nhạc công trong nhiều dàn nhạc nổi tiếng. Năm 1925, Philadelphia Orchestra trở thành dàn nhạc đầu tiên trên thế giới thu âm bằng băng điện. Năm 1929, Philadelphia Orchestra là dàn nhạc đầu tiên tự mình tài trợ cho buổi trình diễn trên sóng phát thanh toàn quốc của đài phát thanh NBC. Năm 1930, một số thành viên của Philadelphia Orchestra tham gia vào các buổi hòa nhạc mùa hè ngoài trời tại thung lũng Robin Hood, một khu rừng nhỏ trong công viên Fairmount của Philadelphia. Giờ đây các buổi hòa nhạc này đã trở thành một nét truyền thống tại Philadelphia. Cũng trong năm này, Stokowski đã lần biểu diễn ra mắt khán giả Mỹ vở opera Wozzeck của Alban Berg. Năm 1931, kết hợp với Bell System, Philadelphia Orchestra và Stokowski đã thí nghiệm ghi âm stereo và trở thành dàn nhạc đầu tiên thu âm trên đĩa nhựa, do RCA phát hành. Năm 1936, dàn nhạc thực hiện chuyến lưu diễn chính thức đầu tiên của mình: một tour diễn xuyên lục địa, vòng quanh nước Mỹ. Do có những việc bất đồng với ban giám đốc dàn nhạc nên từ năm 1935, Stokowski đã ít gắn bó với dàn nhạc hơn trước và vào năm dàn nhạc cũng đã bổ nhiệm Eugene Ormandy (1899 – 1985) làm đồng nhạc trưởng của dàn nhạc. Năm 1938, Stokowski chính thức giã từ cương vị này, tuy nhiên ông vẫn còn nhiều lần quay trở lại làm việc cùng dàn nhạc. Năm 1939, Stokowski và dàn nhạc đã làm nên lịch sử về ngành truyền thông khi họ tham gia thu nhạc cho bộ phim hoạt hình “Fantasia” của hãng Walt Disney. Bộ phim mở đường này đã góp phần truyền bá nhạc giao hưởng vào nước Mỹ hơn bất cứ bộ phim truyện, truyền thanh hay bản ghi âm nào khác vào thời điểm đó. Trong bộ phim này ông đã chỉ huy các tác phẩm Toccata và Fugue giọng Rê thứ của J.S. Bach, Night on bald mountain (đêm trên đồi trọc) của Mussorgsky và Ave Maria. Ngoài ra ông thậm chí còn xuất hiện trong bộ phim khi nói chuyện và bắt tay với chú chuột Mickey (đây cũng là bộ phim thứ 3 mà Stokowski cùng dàn nhạc tham gia, 2 bộ phim trước là Big Broadcast và 100 Men and a Girl).

Nhạc trưởng đại tài người Mỹ gốc Hungary Eugene Ormandy đã thay thế Stokowski để làm giám đốc âm nhạc thứ 4 của Philadelphia Orchestra. Và ông nắm giữ cương vị này trong suốt 44 năm. Học violin và chỉ huy dàn nhạc tại nhạc viện Budapest, ông chuyển đến Mỹ năm 1921 và tham một số dàn nhạc tại đây với tư cách nghệ sỹ violin và nhạc trưởng. Trước khi chuyển đến Philadelphia, Ormandy làm giám đốc âm nhạc của Minneapolis Symphony Orchestra từ năm 1931 đến 1936. Lần đầu tiên Ormandy chỉ huy dàn nhạc là vào năm 1931 khi ông nhận được lời mời thay thế Arturo Toscanini (người thường xuyên cộng tác với Philadelphia Orchestra trong cương vị khách mời) bất ngờ bị ốm. Ormandy nhận cương vị đồng giám đốc Philadelphia Orchestra cùng Stokowski từ năm 1936, chỉ 2 năm sau, năm 1938, Ormandy một mình đảm trách cương vị này. Trong những năm tháng gắn bó với Philadelphia Orchestra, Ormandy đã phát triển dàn nhạc dựa trên nền tảng mà Stokowski đã xây dựng trong những năm trước đó. Philadelphia sound ngày càng được trau chuốt và đạt đến sự hoàn mỹ. Danh tiếng dàn nhạc đã lan ra phạm vi toàn thế giới. Kể từ sau chuyến xuất ngoại đầu tiên tới Vương quốc Anh vào năm 1949, Philadelphia Orchestra và Ormandy đã thực hiện nhiều chuyến lưu diễn tại Bắc Mỹ, châu Âu, Nam Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Trong đó đặc biệt đáng chú ý là chuyến biểu diễn đầu tiên tại châu Âu lục địa vào năm 1995 kết hợp với chuyến viếng thăm Jean Sibelius tại nhà riêng của nhà soạn nhạc vĩ đại; lần biểu diễn tại Liên Xô vào năm 1958 dẫn đến chuyến thăm dàn nhạc của nhạc sỹ lỗi lạc Dmitri Shostakovich tại Mỹ một năm sau đó và là dàn nhạc đầu tiên của Mỹ xuất hiện tại Trung Quốc vào năm 1973. Năm 1948, Philadelphia Orchestra trở thành dàn nhạc đầu tiên xuất hiện trên đài truyền hình quốc gia khi được hãng CBS phát sóng. Năm 1963, Philadelphia Orchestra là dàn nhạc đầu tiên của Mỹ thực hiện việc ký hợp đồng 52 tuần (cả năm) đối với những nhạc công trong dàn nhạc. Năm 1976, những buổi hòa nhạc ngoài trời định kì của dàn nhạc được chuyển đến một địa điểm mới tại Robin Hood Dell West, Fairmount Park, rất gần địa điểm cũ. Đến năm 1979, trung tâm này đổi tên thành Mann Center for the Performing Arts để ghi nhớ công lao của Fredric R. Mann (1903 – 1987) vị chủ tịch của Robin Hood Dell – một doanh nhân thành đạt đã có rất nhiều đóng góp tích cực và bền bỉ trong việc phát triển và mở rộng những chương trình hòa nhạc mùa hè ngoài trời của Philadelphia Orchestra trong hơn 50 năm. Trong nhiệm kỳ của mình, nối tiếp truyền thống của Stokowski, Ormandy đã cùng dàn nhạc thực hiện việc công diễn ra mắt nhiều tác phẩm ưu tú của những nhà soạn nhạc nổi tiếng như: Piano concerto số 3 của Bela Bartok (1946) hay tổ khúc âm nhạc dành cho ballet “Medea” của Samuel Barber (1947). Cùng với Ormandy, Philadelphia Orchestra đã thực hiện hàng trăm bản thu âm của rất nhiều tác giả khác nhau từ Baroque, Cổ điển tới Hiện đại, chủ yếu là với RCA Victor và Columbia Masterworks. Trong số những đĩa nhạc này, có 3 bản được công nhận là bản thu âm Vàng (bán được trên 1 triệu bản). Năm 1980, Ormandy trao lại quyền chỉ huy dàn nhạc cho Riccardo Muti, nhưng vẫn thường xuyên cộng tác với dàn nhạc trong cương vị chỉ huy danh dự. Buổi biểu diễn cuối cùng của ông với Philadelphia Orchestra diễn ra vào ngày 10 tháng 1 năm 1984 tại Carnegie Hall.

Nhạc trưởng người Ý Riccardo Muti sinh năm 1941 tại Bari. Khi thay thế Ormandy để trở thành chỉ huy dàn nhạc chính thức thứ 5 của Philadelphia Orchestra (mà ông cộng tác lần đầu tiên năm 1975) vào năm 1980 thì Muti vẫn đang là giám đốc âm nhạc của Philharmonia Orchestra – cương vị ông còn đảm nhận đến năm 1982. Khác với 2 người tiền nhiệm, Muti không cố gắng duy trì Philadelphia sound mà cố gắng dàn dựng và biểu diễn tác phẩm đúng với ý đồ của tác giả nhất. Điều này ban đầu đã gây ra tranh cãi khá gay gắt trong dàn nhạc. Tuy nhiên, Muti đã dập tắt những lời chỉ trích khi những buổi biểu diễn cũng như các bản ghi âm của ông và Philadelphia Orchestra trong các tác phẩm của Tchaikovsky, Brahms và các nhà soạn nhạc Lãng mạn khác đã nhận được những lời tán thưởng từ phía những nhà phê bình và công chúng. Là một người có khuynh hướng cách tân, Muti đã cùng dàn nhạc mở rộng hơn nữa danh mục tác phẩm biểu diễn của mình. Philadelphia Orchestra trong giai đoạn này đã biểu diễn rất nhiều các tác phẩm âm nhạc của những nhạc sĩ đương thời như William Bolcom hay Luciano Berio, thậm chí vào năm 1989 Muti còn mời nhạc sĩ người Mỹ Bernard Rands làm nhạc sỹ sáng tác chính cho dàn nhạc. Là một người Ý – quê hương của nghệ thuật opera, trong suốt những năm tháng gắn bó với Philadelphia Orchestra, Muti luôn đưa các tác phẩm opera vào danh mục tác phẩm biểu diễn định kỳ của dàn nhạc, bắt đầu từ năm 1983 với Macbeth của Giuseppe Verdi. Trong những năm tháng tiếp theo là hàng loạt các vở opera của Wagner, Verdi, Puccini và Leoncavallo. Năm 1986, Philadelphia Orchestra kỉ niệm 50 năm ngày thực hiện chuyến lưu diễn xuyên lục địa đầu tiên của mình bằng một tour diễn vòng quanh nước Mỹ. Năm 1988, Philadelphia Orchestra dưới sự chỉ huy của Muti đã trở thành dàn nhạc đầu tiên của Mỹ ghi âm trọn bộ 9 bản giao hưởng của Beethoven trên đĩa CD (cùng hãng ghi âm EMI Classics). Tháng 4 năm 1991, Muti và dàn nhạc thực hiện buổi hòa nhạc đầu tiên mang tên Martin Luther King, đến nay đã trở thành những buổi biểu diễn hàng năm có tính chất định kỳ. Từ năm 1986, Muti còn đảm nhận cương vị giám đốc âm nhạc của La Scala, Milan và rõ ràng rằng việc này đã hạn chế phần nào sự tập trung của ông dành cho Philadelphia Orchestra. Và ngay từ năm 1990, Philadelphia Orchestra đã thông báo rằng nhạc trưởng chính tiếp theo của dàn nhạc sẽ là Wolfgang Sawallisch. Mùa diễn 1991 – 1992 là mùa cuối cùng của Muti trên cương vị giám đốc âm nhạc của Philadelphia Orchestra.

Kể từ năm 1993, nhạc trưởng, nghệ sỹ piano người Đức Wolfgang Sawallisch trở thành nhạc giám đốc âm nhạc thứ 6 của Philadelphia Orchestra. Sinh năm 1923, trước đó Sawallisch đã rất nổi tiếng khi ông từng chỉ huy Berlin Philharmonic khi mới 30 tuổi và đến nay vẫn là người trẻ nhất có được vinh dự này. Lần đầu tiên chỉ huy Philadelphia Orchestra vào năm 1966 và cộng tác với dàn nhạc một cách thường xuyên từ năm 1984. Ngay khi vừa có được vị giám đốc âm nhạc mới, Philadelphia Orchestra đã có chuyến lưu diễn tại Nhật Bản, Trung Quốc và Hồng Kông, trong đó buổi biểu diễn tại Đại lễ đường nhân dân Bắc Kinh là để kỉ niệm lần đầu xuất hiện của dàn nhạc tại đây 20 năm về trước. Tiếp nối truyền thống tốt đẹp có từ thời Stokowski, từ năm 1994, dàn nhạc thực hiện một dự án mang tên “Sound All Around” với mục đích phổ cập âm nhạc cổ điển đến những em học sinh nhỏ tuổi. Năm 1997, Philadelphia Orchestra là dàn nhạc đầu tiên của nước Mỹ thực hiện truyền hình trực tiếp một buổi hòa nhạc của dàn nhạc thông qua internet. Tháng 5 năm 1999, Philadelphia Orchestra trở thành dàn nhạc đầu tiên của nước Mỹ đến biểu diễn tại Việt Nam. Đỉnh cao của sự kết hợp giữa Philadelphia Orchestra và Sawallisch là mùa diễn 1997 – 1998 khi dàn nhạc có được sự cộng tác của rất nhiều nghệ sỹ tên tuổi như Reneé Fleming, Sarah Chang, Frank Peter Zimmermann, Yefim Bronfman và Yo-Yo Ma. Trong mùa diễn 1999 – 2000 kỉ niệm 100 năm ngày thành lập dàn nhạc, Philadelphia Orchestra đã cho phát hành bộ 12 đĩa CD “Philadelphia Orchestra Centennial Collection: Historic Broadcasts and Recordings 1917-1998” và cùng với Temple University Press cho xuất bản cuốn sách khổ lớn về lịch sử dàn nhạc: “Philadelphia Orchestra – A Century of Music”; bên cạnh đó là rất nhiều buổi hòa nhạc lớn tại hầu hết những thành phố lớn tại Bắc Mỹ, Nhật Bản và châu Âu. Ngày 14 tháng 12 năm 2001, Philadelphia Orchestra chuyển đến ngôi nhà mới Kimmel Center for the Performing Arts. Trung tâm này có 2 phòng hòa nhạc: phòng lớn Verizon Hall 2500 chỗ ngồi để dành cho những chương trình có quy mô và phòng nhỏ Perelman Theater 650 chỗ cho các chương trình thính phòng. Dưới sự chỉ huy của Sawallisch, dàn nhạc đã lần đầu tiên trình diễn tác phẩm War Requiem của Benjamin Britten. Tháng 1 năm 2002 tại Carnegie Hall, lần đầu tiên Piano Concerto (“Resurrection”) của Krzysztof Penderecki được công diễn với sự tham gia của Philadelphia Orchestra và Sawallisch, nghệ sĩ độc tấu piano là Emanuel Ax. Tháng 9 năm 2002, Sawallisch bắt đầu năm thứ 10 và cũng là năm cuối cùng với cương vị giám đốc âm nhạc của Philadelphia Orchestra với 5 tuần lễ Schumann Festival. Kết thúc mùa diễn 2002 – 2003, Sawallisch trở thành giám đốc danh dự của dàn nhạc.

Tháng 9 năm 2003, nhạc trưởng người Đức Christoph Eschenbach chính thức trở thành giám đốc âm nhạc thứ 7 của Philadelphia Orchestra. Sinh năm 1940, trước khi trở thành một nhạc trưởng, Eschenbach được biết đến với tư cách một nghệ sĩ piano tài năng, ông đã có khá nhiều bản thu các tác phẩm dành cho piano độc tấu và hòa tấu thính phòng của Mozart, Schumann, Brahms cho Deutsche Grammophon. Trước khi là nhạc trưởng của Philadelphia Orchestra, Eschenbach đã có buổi công diễn Piano concerto số 1 của Beethoven với chính dàn nhạc này dưới sự chỉ huy của Sawallisch vào tháng 10 năm 2002. Hiện tại ông cũng đang là giám đốc âm nhạc của Orchestre de Paris, cương vị mà ông đảm nhận từ năm 2000. Dấu ấn lớn nhất của Eschenbach với Philadelphia Orchestra cho đến thời điểm này là biểu diễn toàn bộ giao hưởng của Gustav Mahler trong tháng 2 và 3 năm 2004. Cũng trong tháng 3 này, dàn nhạc đã có lễ kỉ niệm 100 năm ngày thành lập The Volunteer Committees for The Philadelphia Orchestra – một tổ chức thành lập năm 1904 với chức năng rất quan trọng là xây dựng quỹ cho dàn nhạc, tổ chức các buổi quyên góp , trao tặng những giải thưởng danh dự của dàn nhạc trong đêm mở màn mùa diễn (Opening night).

Hiện tại, biên chế của Philadelphia Orchestra bao gồm gần 150 nhạc công và dàn nhạc có khoảng 300 buổi biểu diễn hàng năm. Ngoài ngôi nhà Kimmel Center for the Performing Arts, Philadelphia Orchestra còn nhiều lần xuất hiện tại Carnegie Hall cũng như luôn duy trì đều đặn các buổi biểu diễn mùa hè tại Mann Center for the Performing Arts và Saratoga Performing Arts Center, New York. Kể từ năm 1990, nhạc trưởng người Thụy Sĩ Charles Dutoit được chỉ định là nhạc trưởng chính thức trong các festival mùa hè của Philadelphia Orchestra.

cobeo tổng hợp

100 nhà soạn nhạc cổ điển hàng đầu năm 2022

Ai là nhà soạn nhạc giỏi nhất từng có? Chúng tôi đã hỏi 174 nhà soạn nhạc hàng đầu ngày hôm nay mà chính câu hỏi và ở đây, theo cách riêng của họ, chúng tôi trình bày kết quả hấp dẫn và người mà họ nghĩ nên đăng quang nhà soạn nhạc vĩ đại nhất mọi thời đại.

  • 10 nhà soạn nhạc cổ điển hàng đầu mọi thời đại
  • 50 nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất từ ​​trước đến nay

Cách các nhà soạn nhạc nổi tiếng được ghi điểm

Đưa ra các quyết định liên quan đến những người vĩ đại nhất của người Viking, hoặc điều đó luôn luôn có vấn đề, nhà soạn nhạc trả lời Brian Ferneyhough, khi Tạp chí Music BBC yêu cầu ông đặt tên cho năm nhà soạn nhạc vĩ đại nhất của mình trong lịch sử. Và, công bằng mà nói, anh ta có một điểm. Người ta thực sự có thể so sánh các nhân vật đã viết nhạc cách nhau 800 năm? Hoặc cân nhắc sự khéo léo phức tạp của một cây đàn piano dài hai phút chống lại tầm nhìn lớn đi vào một vở opera kéo dài bốn giờ?

Tuy nhiên, khi phải đối mặt với cùng một câu hỏi, Ferneyhough đã đặt tên cho năm nhà soạn nhạc vĩ đại nhất hàng đầu của mình - cũng như 173 nhà soạn nhạc hàng đầu khác từ khắp nơi trên thế giới.

Để làm rõ mọi thứ, chúng tôi đặt ra các tiêu chí cho sự vĩ đại như sau:

  1. Tính nguyên bản - Các nhà soạn nhạc được chọn đã chọn âm nhạc theo những hướng mới và thú vị ở mức độ nào?
  2. Tác động - Họ đã ảnh hưởng rất lớn đến bối cảnh âm nhạc cả trong cuộc đời của chính họ và trong nhiều năm/nhiều thế kỷ tới?
  3. Craftmange - Từ quan điểm kỹ thuật, âm nhạc của họ được xây dựng tuyệt vời như thế nào?
  4. Sự thích thú tuyệt đối - khá đơn giản, âm nhạc của họ mang lại cho bạn bao nhiêu niềm vui?

Anh ấy trình bày 50 nhà soạn nhạc nổi tiếng hàng đầu, theo thứ tự giảm dần, với mỗi nhà soạn nhạc nổi tiếng được đánh giá cá nhân bởi một trong những người đã bỏ phiếu cho họ.

50 Sergei Rachmaninov (1873-1943) Sergei Rachmaninov (1873-1943)

Nghệ sĩ piano tài năng người Nga, giai điệu tài năng và một trong những người vĩ đại của chủ nghĩa lãng mạn muộn

John Rutter nói:

Rachmaninov thuộc tầng lớp quý tộc của các nhà soạn nhạc. Anh ta không bao giờ viết một bản nhạc trừ khi anh ta có điều gì đó để nói và anh ta không bao giờ lặp lại chính mình; Anh không bao giờ vượt qua sự chào đón của mình. Không có hai tác phẩm piano của anh ấy giống nhau, mỗi người tạo ra thế giới của riêng mình. Anh ấy đặt linh hồn của mình trước chúng tôi trong âm nhạc như bản giao hưởng thứ hai, nhưng nó cũng cao quý như đam mê. belongs to the aristocracy of composers. He never wrote a piece of music unless he had something to say and he never repeated himself; he never outstayed his welcome. No two of his piano pieces are alike, each one creates its own world. He lays his soul before us in music like the Second Symphony, yet it is noble as much as passionate.

Phát minh du dương của anh ta là chết, hương vị hài hòa của anh ta tinh tế và có thể nhận ra ngay lập tức, sự dàn nhạc của anh ta nhưng không bao giờ nổi bật. Anh ấy có món quà làm cho âm nhạc của anh ấy có vẻ như anh ấy đang nói với bạn.

Ghi âm được đề xuất:

Rachmaninov: Piano Concerto số 4arturo Benedetti Michelangeli (piano); Philharmonia/Ettore Gracis (1957) EMI 567 2382
Arturo Benedetti Michelangeli (piano); Philharmonia/Ettore Gracis (1957)
EMI 567 2382

Đọc đánh giá của chúng tôi về bản ghi này ở đây..

49 Robert Schumann (1810-56)

Người soạn nhạc lãng mạn Đức Bí ẩn không ổn định sinh ra những kiệt tác phức tạpRomantic composerwhose unstable mind spawned complex masterpieces

Bent Sørensen nói:

Bach và Mozart viết nhạc hoàn hảo, nhưng có một chất lượng mong manh cho sự hoàn hảo của Schumann. Tôi lớn lên nghe các bản hòa tấu violin, vì cha tôi chơi violin. Có một cái gì đó về bản hòa tấu violin Schumann,; Âm nhạc làm tôi nhớ đến bản thân mình. Tôi cảm thấy gần gũi với Schumann, cả cá nhân và chuyên nghiệp. and Mozart write perfect music, but there’s a fragile quality to Schumann’s perfection. I grew up listening to violin concertos, because my father played the violin. There’s something about Schumann’s Violin Concerto; the music reminded me of myself. I feel close to Schumann, both personally and professionally.

Ghi âm được đề xuất:

Rachmaninov: Piano Concerto số 4arturo Benedetti Michelangeli (piano); Philharmonia/Ettore Gracis (1957) EMI 567 2382
Doric String Quartet
Chandos CHAN 10692

Đọc đánh giá của chúng tôi về bản ghi này ở đây..

49 Robert Schumann (1810-56)

Người soạn nhạc lãng mạn Đức Bí ẩn không ổn định sinh ra những kiệt tác phức tạp

Bent Sørensen nói:

Bach và Mozart viết nhạc hoàn hảo, nhưng có một chất lượng mong manh cho sự hoàn hảo của Schumann. Tôi lớn lên nghe các bản hòa tấu violin, vì cha tôi chơi violin. Có một cái gì đó về bản hòa tấu violin Schumann,; Âm nhạc làm tôi nhớ đến bản thân mình. Tôi cảm thấy gần gũi với Schumann, cả cá nhân và chuyên nghiệp. is simply the best! Musically speaking, not only was he ground-breaking at the time, but his harmony and sonority are always gorgeous – if you slice his music, every bit is beautiful. He has done so much for other composers, too, building institutions and shaping how contemporary music is programmed in normal orchestral concerts.

Schumann: Chuỗi tứ tấu NOS 1-3doric Chuỗi Quartetchandos Chan 10692

48 Boulez Pierre (1925-2016)

Chủ nghĩa nối tiếp, chủ nghĩa hiện đại, nhạc trưởng và người sáng lập của Consemble Intercontemporain

Dai Fujikura nói:

Boulez chỉ đơn giản là tốt nhất! Nói một cách thực tế, không chỉ anh ấy đột phá vào thời điểm đó, mà sự hài hòa và âm thanh của anh ấy luôn tuyệt đẹp-nếu bạn cắt nhạc của anh ấy, mỗi bit đều đẹp. Ông cũng đã làm rất nhiều cho các nhà soạn nhạc khác, xây dựng các tổ chức và định hình cách âm nhạc đương đại được lập trình trong các buổi hòa nhạc trong dàn nhạc bình thường.

Đọc đánh giá về Boulez Ghi âm mới nhất tại đây

47 Hildegard von Bingen (1098-1179)

Nhà thần học, huyền bí và bây giờ là một vị thánh, Hildegard sáng tác MonophonyThomas Tallis (c1505-85)

Jessica Curry nói:

Lần đầu tiên tôi phát hiện ra âm nhạc của Hildegard, thông qua cảnh quay cuồng - Trippy Trippy Trippy Belfast sử dụng một mẫu đẹp của O Euchari và tôi đã bị cuốn hút ngay lập tức. Cuối cùng tôi đã tìm ra mẫu là gì và Hildegard vẫn là người bạn đồng hành liên tục kể từ đó. Như với tất cả âm nhạc hay nhất, tôi nghĩ rằng nó không thể mô tả công việc của cô ấy - đó là điều đơn giản là đã được trải nghiệm. Tôi là một người vô thần trung thành và bằng cách nào đó âm nhạc của cô ấy là một hương vị siêu phàm của thần thánh.

Hildegard von Bingen là một trong những nhà soạn nhạc thời trung cổ nổi tiếng nhất từ ​​trước đến nay và là một trong những nhà soạn nhạc nữ vĩ đại nhất mọi thời đạiTallis’s music encompasses all the diversity of styles that were required of a 16th-century English composer due to the frequent changes of monarch (and, therefore, religion): it’s ecstatic, propulsive, luminous, florid (or simple), with a harmonic richness and melodic grace that is very special.

Cho dù đồng âm bốn phần đơn giản hay micropolyphony phức tạp và cảnh tượng âm thanh rực rỡ của spem trong alium, mọi thứ mà một nhà soạn nhạc quan tâm đến âm nhạc hợp xướng cần phải học có thể được tìm thấy ở đây.Spem in alium, everything a composer interested in choral music needs to learn can be found here.

Ghi âm được đề xuất:

45 Erik Satie (1866-1925)

Satie là một nhà tư tưởng nguyên bản, Dadaist, nghệ sĩ, nghệ sĩ piano và người sáng tạo nhạc nội thất

Gerald Barry nói:

Ngay khi Beckett rút khỏi Joyce để khắc thế giới của chính mình, Satie đã rút khỏi Debussy để khắc của mình. Anh ta ra khỏi hư không - không có gì giống anh ta trước đây hoặc kể từ đó. Không có gì ngạc nhiên khi anh ấy đã viết ‘nhạc nội thất (nhạc nền). Âm nhạc của anh ấy là những thứ như họ đang có. Những người bực tức của anh ta, được chơi 840 lần, cũng có thể được chơi một triệu lần.

Nó có thể tiếp tục cho đến khi thế giới kết thúc. Sự không biết của nó, khó hiểu và bí ẩn cho phép điều đó. Socrate tuyệt vời của anh ấy giống như ai đó đi bộ quanh một căn phòng nghĩ to, ra lệnh cho một người đánh máy tách rời sâu sắc.

Hơn như thế này

44 Karlheinz Stockhausen (1928-2007)

Người hiện đại Đức; người ủng hộ chủ nghĩa nối tiếp; Người viết nhạc điện tử và âm nhạc Aleatory

Rolf Hind nói:

Rằng Stockhausen nằm trên bìa trước của The Beatles xông Sgt. Album Pepper chỉ đơn giản là chứng thực về phạm vi lớn của anh ấy trong thế kỷ 20. Gesamtkunst của riêng ông bao gồm ngôn ngữ, công nghệ, khiêu vũ, không gian và hành tinh. Cả Stockhausen đều được hưởng lợi từ thời điểm sinh ra (đầu tư lớn vào các đài phát thanh, dàn nhạc, công nghệ) của Đức và phải chịu đựng nó (những thách thức của việc trở thành người Đức trong thế kỷ 20) để thấm nhuần mọi ảnh hưởng trong âm nhạc của anh.Stockhausen is on the front cover of The Beatles’ Sgt. Pepper album simply attests to his massive reach in the 20th century. His own Gesamtkunst includes language, technology, dance, space and the planet. Stockhausen both benefited from the timing of his birth (massive investment in German radio stations, orchestras, technology) and suffered for it (the challenges of being German in the 20th century) to imbue all influences in his music.

Giống như những người Phạn Đức ám ảnh vĩ đại của thế kỷ 19, anh ta đã trở về từ bờ vực với chìa khóa cho những thông điệp phi thường, những khám phá từ trước và có lẽ ngoài ra

Chúng tôi đặt tên cho Stockhausen là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất mọi thời đại của ĐứcStockhausen one of the greatest German composers of all time

Đọc đánh giá về các bản ghi mới nhất của Stockhausen tại đây

43 Stephen Sondheim (1930-2021)

Stephen Sondheim là một nhà soạn nhạc, nhà văn và đạo diễn người Mỹ chuyên về nhà hát âm nhạc was an American composer, song writer and director specialising in musical theatre

Paul Mealor nói:

Các nhà soạn nhạc lớn nhất có thể duy trì chúng ta trong những khoảnh khắc đen tối nhất cũng như làm cho chúng ta cười và lấp đầy chúng ta với niềm vui. Đối với tôi, Sondheim là một trong số đó.

Từ các cấu trúc kịch tính, quy mô lớn và quy mô lớn nhất (như Sweeney Todd hoặc Assassins) cho đến những giai điệu nhẹ nhất (một âm nhạc nhỏ) và từ các hợp âm đơn giản nhất (vào rừng) cho đến những bản hòa âm dày đặc nhất (follies ), anh ấy có tất cả. Anh ấy thông minh mà không lừa chúng tôi, và không bao giờ viết ra cho chúng tôi.

Chúng tôi đặt tên cho Sondheim là một trong những nhà soạn nhạc nhạc kịch hay nhất

42 Oliver Knussen (1952-2018)

Nhạc trưởng và nhà soạn nhạc người Anh là một cố vấn nổi tiếng của Aldeburgh

Charlotte Bray nói:

Trên hết, chính sự khéo léo làm cho âm nhạc của Knussen trở nên quan trọng. Mỗi ghi chú và đánh dấu anh ấy thực hiện trên trang đều được nghe hoàn hảo. Không có mảnh nào được hoàn thành cho đến khi mọi thứ được đặt chính xác. Âm nhạc của anh ấy hoàn toàn nguyên bản và thú vị, được truyền tải với cảm giác phiêu lưu và hóm hỉnh, và sẽ truyền cảm hứng trong nhiều năm tới.

41 Harrison Birtwistle (B1934-2022)

Một phần của Trường New Manchester, Birtwistle kết hợp huyền thoại và chủ nghĩa hiện đại

Eleanor Alberga nói:

Âm nhạc Birtwistle, nói bằng một giọng nói hoàn toàn của riêng mình. Sự tái phát minh và phát triển vô tận khi âm nhạc của anh ấy mở ra, cùng với cường độ của kết cấu đối nghịch, hãy đưa tai vào một hành trình hoàn toàn không thể đoán trước nhưng luôn luôn hoàn toàn nhập vai. Gawain và Minotaur, hai vở opera mà tôi quen thuộc nhất, đã bao bọc tôi trong một thế giới âm thanh nguyên thủy. Kết quả là tôi cảm thấy đáng kinh ngạc và được đưa đến một nơi tốt hơn.

Chúng tôi đặt tên cho Harrison Birtwistle là một trong những nhà soạn nhạc tiếng Anh giỏi nhất mọi thời đạibest English composers of all time

40 Edward Elgar (1857-1934)

Elgar là bậc thầy giao hưởng Anh với tai tự nhiên cho những giai điệu khao khát

Christopher Gunning nói:

Thậm chí có thể dự tính vùng nông thôn Anh mà không nghe thấy Elgar? Để lấy các tác phẩm riêng lẻ, tôi sẽ nói rằng tất cả các biến thể của các biến thể bí ẩn của anh ấy là hoàn hảo - không chỉ là ‘Nimrod, và đó là một trong những ví dụ điển hình nhất về định dạng đó từng được viết.Enigma Variations are perfect – not just ‘Nimrod’ – and it is one of the finest examples of that format ever written.

Bản giao hưởng đầu tiên của Elgar, trong khi đó, là một trong những điều lạc quan sâu sắc nhất từng được viết. Đó là một tác phẩm quay trở lại Brahms, hoặc có thể là tiền brahms, và có sự kết hợp tuyệt vời của chủ nghĩa trữ tình một mặt và mặt khác là cảm xúc thực sự.First Symphony, meanwhile, is one of the most profoundly optimistic things that has ever been written. It’s a work that goes back to Brahms, or probably pre-Brahms, and has that wonderful combination of lyricism on the one hand and real emotional striving on the other.

39 Giuseppe Verdi (1813-1901)

Bậc thầy hoạt động của Ý có arias lâu dài được yêu thích trên toàn thế giới

Qigang Chen nói:

Năm nhà soạn nhạc mà tôi đã bỏ phiếu cho tất cả đều có điểm chung: họ không quan tâm đến việc theo kịp thời trang mới nhất và tương đối không có ảnh hưởng bên ngoài. Họ, trong ngắn hạn, hoàn toàn cá nhân. Thời đại Verdi Verdi trùng với chiều cao của sự thống trị duy lý của Áo-Đức trong triết học, văn học và âm nhạc, nhưng ông đã làm mà không có các nguyên tắc hướng dẫn vinh quang như vậy.Verdi’s age coincided with the height of Austro-Germanic rationalist dominance in philosophy, literature, and music, but he did without such glorious guiding principles.

Anh ta không có bạn bè triết gia, nhưng là một người bình thường, một nông dân đã nghỉ hưu ở nông thôn. Sức sống nghệ thuật thực sự tồn tại độc lập với ảnh hưởng của sức mạnh thế giới, và âm nhạc Verdi, có loại chất lượng đặc biệt này.Verdi’s music has this kind of particular quality.

38 Richard Strauss (1864-1949)

Richard Strauss là một nhà soạn nhạc lãng mạn của những bài thơ được ghi điểm phong phú và các vở opera bá đạo

Colin Matthews nói:

Tất cả đều quá dễ dàng để bỏ qua ý nghĩa của Richard Strauss, nhưng trong chuỗi bài thơ giai điệu đáng chú ý kéo dài 25 năm, từ Don Juan đến Bản giao hưởng Alpine, ông đã cho thấy cả một sự làm chủ của dàn nhạc và khả năng phát minh và đổi mới cấu trúc đáng chú ý.Richard Strauss’s significance, but in the remarkable sequence of tone poems spanning 25 years, from Don Juan to the Alpine Symphony, he showed both an orchestral mastery and a remarkable capacity for invention and structural innovation.

Các vở opera Salome và Elektra cũng tiên tiến về mặt phong cách như hầu hết mọi thứ được viết trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20. Âm nhạc của Strauss, những năm trước - bắt đầu với Capriccio vào năm 1940, bao gồm hai cơn gió, bản concerto sừng thứ hai và bản concerto oboe, và lên đến đỉnh điểm trong bốn bài hát cuối cùng - là một trong những bản nhạc hoàn hảo nhất mọi thời đại.Strauss’s last years – starting with Capriccio in 1940, encompassing the two wind serenades, the Second Horn Concerto and the Oboe Concerto, and culminating in the Four Last Songs – is among the most perfect music of all time.

37 William Byrd (1543-1623)

Tudor England, hợp xướng tuyệt vời William Byrd cũng sáng tác hàng chục công trình bàn phím tinh tế

Bob Chilcott nói:

Phải mất một thời gian để nhận ra một nhà soạn nhạc tuyệt vời Byrd là gì. Khi còn là một bản hợp xướng trẻ tuổi, ý nghĩ hát dịch vụ ‘vĩ đại của anh ấy đã lấp đầy tôi với nỗi kinh hoàng. Nhiều năm sau, tôi đã nghe một cách vô tận với một bản ghi âm của các học giả Tallis và ngạc nhiên trước sự âm thanh của nó và sự đối nghịch lộn xộn của Nunc Dimittis. Sau đó tôi đã biết được sự cảnh giác của Motet Motet. Có những yếu tố xúc giác, gợi cảm và sâu sắc của con người trong âm nhạc của anh ấy truyền tải tuyệt đẹp đến dòng hơi thở và các dòng hát.motet Vigilate. There are tactile, sensual and deeply human elements in his music that transmit beautifully to the flow of breath and to singing lines.

36 Anton Webern (1883-1945)

Anton Weburn là một người theo chủ nghĩa nối tiếp mười hai tông màu và thành viên chủ chốt của Trường Vienna thứ hai

Howard Skempton nói:

Điều phi thường là tính toàn vẹn của âm nhạc Webern. Nó có một loại thanh lịch và sức mạnh trong chính nó. Nó gần như thể anh ấy suy ngẫm về âm nhạc như một công thức toán học, cố gắng tìm ra những gì nó có thể mở khóa. Ông tiết lộ khả năng của một phong cảnh âm nhạc khác.Webern’s music. It has a sort of elegance and strength in itself. It’s almost as if he’s contemplating music like a mathematical formula, trying to work out what it might unlock. He reveals the possibility of a different musical landscape.

Đó là điều khiến tôi phấn khích khi lần đầu tiên nghe sáu tác phẩm cho dàn nhạc ở tuổi thiếu niên - tôi nhận ra rằng có một cách sáng tác hoàn toàn mới. Ông ảnh hưởng đến thế hệ sau chiến tranh, các nhà hàng loạt, nhà soạn nhạc thử nghiệm và, hơn thế nữa, những người theo chủ nghĩa tối giản. Tầm với của anh ấy là phi thường.

35 Edgar Varèse (1883-1965)

Tiên phong điện âm và người tạo ra âm thanh có tổ chức

Brian Ferneyhough nói:

Varèse, Octandre là tác phẩm đầu tiên của ’đương đại để tạo ấn tượng sâu sắc và lâu dài với tôi khi ở tuổi 15, tôi đã bắt gặp một bản ghi âm ở trường. Nó đánh tôi là không trung thực, sắc sảo và có thẩm quyền. Là một người chơi gió, tôi có thể đánh giá cao kỹ năng của nó trong việc kéo dài từng nhạc cụ ngay ngoài vùng thoải mái bình thường của nó, trong khi các giao điểm của nó nhịp nhàng và tạo mẫu màu sắc phức tạp dường như được nhận ra một cách xuất sắc.

Nhiều năm sau, tôi đã viết một tác phẩm dựa trên bản hòa tấu chính xác được sử dụng bởi Varèse, cộng với một cây vĩ cầm solo. Tôi chưa bao giờ hiểu tại sao thiết bị Octandre không bao giờ trở thành một sự kết hợp tiêu chuẩn, chẳng hạn như của Schoenberg, Pierrot Lunaire.Schoenberg’s Pierrot Lunaire.

Ghi âm được đề xuất:

34 Morton Feldman (1926-87)

Nhà soạn nhạc người Mỹ đã thử nghiệm ký hiệu và thời gian

Shiva Feshareki nói:

Âm nhạc Feldman có tính thẩm mỹ và tốc độ của riêng mình. Vào thời điểm sáng tạo, công việc của ông có vẻ hoàn toàn độc lập, nhưng bằng cách nào đó nó đã hình thành một cây cầu giữa nhiều trường phái tư tưởng. Trong tâm trí tôi, âm nhạc của anh ấy giống như một tấm thảm phức tạp, được phóng to cho đến khi bạn trải nghiệm mọi yếu tố của tác phẩm.’s music has its own aesthetic and pace. At the time of creation, his work seemed completely independent, yet somehow it formed a bridge between many schools of thought. In my mind, his music is like an intricate tapestry, which gets magnified until you experience every element of the work.

Nó đòi hỏi sự cam kết và tập trung, như thường các tác phẩm của ông kéo dài nhiều giờ. Nhưng cuối cùng, nó như thể âm nhạc đã thay đổi quan điểm của bạn về thực tế. Bạn đã thay đổi, và bạn suy nghĩ và cảm nhận với một viễn cảnh rộng lớn hơn.

Ghi âm được đề xuất:

34 Morton Feldman (1926-87)

Nhà soạn nhạc người Mỹ đã thử nghiệm ký hiệu và thời gian

Shiva Feshareki nói:

Âm nhạc Feldman có tính thẩm mỹ và tốc độ của riêng mình. Vào thời điểm sáng tạo, công việc của ông có vẻ hoàn toàn độc lập, nhưng bằng cách nào đó nó đã hình thành một cây cầu giữa nhiều trường phái tư tưởng. Trong tâm trí tôi, âm nhạc của anh ấy giống như một tấm thảm phức tạp, được phóng to cho đến khi bạn trải nghiệm mọi yếu tố của tác phẩm. brought into life the theoretical inventions of the Second Viennese School, creating 12-tone serialism that was not only technically masterful and internally coherent, but also powerful in expression and full of artistic pleasure.

Nó đòi hỏi sự cam kết và tập trung, như thường các tác phẩm của ông kéo dài nhiều giờ. Nhưng cuối cùng, nó như thể âm nhạc đã thay đổi quan điểm của bạn về thực tế. Bạn đã thay đổi, và bạn suy nghĩ và cảm nhận với một viễn cảnh rộng lớn hơn.Berg’s influence continues to be utterly relevant.

Ghi âm được đề xuất:

32 Pyotr Ilyich Tchaikovsky (1840-93)

Ballets và Symographic Symphonies là trung tâm của tác phẩm lãng mạn Nga này

Joby Talbot nói:

Nếu bạn chào đón một số người ngoài hành tinh đã hạ cánh và muốn biết âm nhạc cổ điển nghe như thế nào, bạn có thể làm điều tồi tệ hơn nhiều so với việc chỉ chúng theo hướng của Tchaikovsky. Đối với tôi, lớn lên, đó chỉ là nhạc sĩ tinh túy, đẹp, phi thường, thơ mộng và du dương.Tchaikovsky. To me, growing up, it was just the quintessential, beautiful, extraordinary, poetic and melodic orchestral and vocal music.

Tchaikovsky rõ ràng là Master of Melody, nhưng tôi cũng thích bảng màu cảm xúc trái tim và yếu tố nhịp nhàng trong âm nhạc của anh ấy. Bạn nhìn vào các dấu hiệu động trong điểm số; Anh ấy có tất cả mọi thứ từ PPPPP đến FFFFF! Khi còn là một đứa trẻ chơi trong dàn nhạc, nó giống như chạy một cuộc đua marathon, nhưng luôn luôn có cảm giác bao gồm, vui vẻ và nghịch ngợm. was obviously the master of melody, but I also love the heart-on-sleeve emotional palette and the rhythmic element of his music. You look at the dynamic markings in the scores; he has everything from ppppp to fffff! As a kid playing in orchestras it was like running a marathon, but always with a sense of inclusivity, fun and mischief.

Chúng tôi đã đặt tên cho Tchaikovsky là một trong những nhà soạn nhạc tốt nhất mọi thời đại và là một trong những nhà soạn nhạc ba lê vĩ đại nhất từng có

Đọc đánh giá của chúng tôi về Tchaikovskyrecordings mới nhất tại đây recordings here

31 John Cage (1912-92)

Lãnh đạo của người tiên phong Mỹ; người phát minh ra piano đã chuẩn bị

Gavin Bryars nói:

Đối với tôi, John Cage là một trong hai nghệ sĩ lớn của thế kỷ 20 - người còn lại là Marcel Duchamp. Cả hai đều đặt câu hỏi về những gì có thể được coi là nghệ thuật và cả hai đã theo đuổi câu hỏi của họ đến cấp độ cơ bản nhất, trong trường hợp Cage Cage thông qua sự khắc nghiệt của tư duy âm nhạc và triết học của anh ấy.John Cage was one of the two major artists of the 20th century – the other being Marcel Duchamp. Both questioned what can count as art and both pursued their questioning to the most fundamental level, in Cage’s case through the rigours of his musical and philosophical thinking.

Anh ấy đã đưa âm nhạc trở lại tình trạng bằng không với cái gọi là mảnh ghép im lặng 4'33 ", nhưng với sự nhẹ nhàng của tinh thần mà người ta không bao giờ có thể tìm thấy ở các khu vực khác của tiên phong. Tôi lần đầu tiên gặp anh ấy vào năm 1966 khi anh ấy biểu diễn Ở London với Merce Cickyham.4'33", but with a lightness of spirit that one could never find in other areas of the avant-garde. I first met him in 1966 when he performed in London with Merce Cunningham.

Chứng kiến ​​phát minh và sự thanh lịch của sự hợp tác của họ, tôi biết rằng đây là điều tôi muốn làm, chuyển đi, như tôi, từ những gì tôi cảm thấy là giới hạn của nhạc jazz và ngẫu hứng miễn phí. Âm nhạc Cage Cage liên tục đáng ngạc nhiên, thường gặp khó khăn và luôn giải phóng.jazz and free improvisation. Cage’s music is constantly surprising, often baffling and always liberating.

30 Witold Lutosławski (1913-94)

Nhà soạn nhạc và nhạc trưởng Ba Lan xuất sắc là một nhà điều phối nổi tiếng

Sebastian Fagerlund nói:

Tôi đã làm quen với âm nhạc của Lutosławski trong những năm đầu tuổi thiếu niên. Kể từ đó, Livre Pour của anh ấy vẫn là một trong những điểm số tôi thường xuyên trở lại và trong đó tôi luôn tìm thấy một cái gì đó mới. Trong các tác phẩm của dàn nhạc Lutosławski, có một sự kiểm soát tuyệt vời về quan niệm về thời gian thông qua sự thao túng âm sắc, kết cấu và hình dạng âm nhạc và vòng cung.Lutosławski’s music in my early teenage years. His Livre pour Orchestre has since then remained one of the scores I regularly return to and in which I always find something new. In Lutosławski’s orchestral works there is a masterly control of the conception of time through the manipulation of timbre, texture and musical shapes and arcs.

Điều gây ấn tượng với tôi trên hết là anh ấy là một nhà soạn nhạc nhân đạo. Ngay cả trong các phần phức tạp và phức tạp nhất về mặt văn bản, âm nhạc của anh ấy cũng giao tiếp với sự trực tiếp như vậy. Âm nhạc cũng cảm thấy đồng thời mời gọi một cách tinh nghịch, cũng như đòi hỏi rất nhiều và đòi hỏi một cách sâu sắc về một sự chú ý đầy đủ.

Ghi âm được đề xuất:

29 Sergei Prokofiev (1891-1953)

Prokofiev là một nhà soạn nhạc người Nga đã cân bằng chủ nghĩa lãng mạn với phong cách hiện đại khó khănRussian composer who balanced Romanticism with a hard modernist style

Gabriel Prokofiev nói:

Tôi đoán mọi người sẽ nghĩ rằng tôi đã định kiến ​​để chọn ông của mình, nhưng tôi nghĩ sự lựa chọn của tôi là hợp lý. Prokofiev có một âm thanh không thể nhầm lẫn, một giọng nói độc đáo như vậy, đặc biệt là trong bài viết du dương hấp dẫn nhưng kỳ quặc và cách tiếp cận ban đầu của anh ấy đối với sự hòa hợp; Nó gần như không thể nhầm anh ta với bất kỳ nhà soạn nhạc nào khác.Prokofiev has an unmistakable sound, such a unique voice, particularly in his catchy yet quirky melodic writing and original approach to harmony; it’s almost impossible to mistake him for any other composer.

Prokofiev đã xoay sở để tiếp tục sáng tác các giai điệu thú vị cho đến những năm 1950 khi gần như tất cả các nhà soạn nhạc thế kỷ 20 khác đã rời khỏi các chủ đề bắt nguồn từ một cách tuyệt vời. Những giai điệu của anh ấy vẫn còn mới và mới.

Thêm vào đó, tất nhiên, âm nhạc của anh ấy đã có một tác động rộng rãi - Peter và The Wolf (một trong những bản nhạc cổ điển hay nhất cho trẻ em) và Romeo và Julietin đặc biệt đã trở thành một phần của kinh điển âm nhạc toàn cầu vượt ra ngoài các lĩnh vực của âm nhạc cổ điển.best pieces of classical music for children) and Romeo and Julietin particular have become part of the global musical canon beyond just the realms of classical music.

28 Charles Ives (1874-1954)

Đi trước thời đại của mình, nhà soạn nhạc người Mỹ đã phát minh ra âm nhạc hiện đại

Morten Lauridsen nói:

Ives có thể là nhà soạn nhạc nguyên bản nhất trong lịch sử, có ảnh hưởng chỉ được cảm nhận nhiều năm sau khi các tác phẩm đáng kinh ngạc của ông được biết đến - người tiên phong theo hướng mới cho dàn nhạc, hình thức âm nhạc, hài hòa, thiết lập văn bản (đặc biệt là 114 bài hát của ông), nhịp điệu, viết piano, viết piano, Điều chỉnh và nhiều hơn nữa, dự đoán nhiều nhà soạn nhạc sau đó đã thử nghiệm trong các lĩnh vực này. Ba địa điểm của ông ở New England, đặc biệt vẫn là một mô hình tuyệt đẹp về những đổi mới của ông. was possibly the most original composer in history, whose influence was only felt years after his astonishing works became known – a pioneer in new directions for orchestration, musical form, harmony, text setting (especially his 114 songs), rhythm, piano writing, tuning and more, predating many composers who later experimented in these areas. His Three Places in New England in particular remains a stunning model of his innovations.

27 Philip Glass (B.1937)

Người tối giản sóng đầu tiên và nhà soạn nhạc của nhạc phim thôi miên và opera

Oliver Davis nói:

Mặc dù các phong cách cực kỳ đa dạng của Philip Glass, trong những năm qua, ngay khi bạn nghe nhạc của anh ấy, bạn ngay lập tức biết rằng đó không thể là bất cứ ai khác: ngôn ngữ hài hòa của anh ấy là đặc biệt và anh ấy có một món quà phi thường cho giai điệu.Philip Glass’s output over the years, as soon as you hear his music you instantly know it couldn’t be anyone else: his harmonic language is that distinctive and he has an extraordinary gift for melody.

Mặc dù chủ nghĩa tối giản bây giờ là một thể loại rất được chấp nhận, tôi tự hỏi làm thế nào khó khăn như một nhà soạn nhạc trẻ trong những năm 1960 để từ chối con đường hiện đại giả định được đặt ra bởi những người như Stockhausen và Boulez, và thay vào đó bắt đầu một chi âm nhạc mới.Boulez, and instead start a new genus of music.

Nó phải có niềm tin rất lớn và niềm tin bản thân. Kết quả là một tiết mục độc đáo và lâu dài của âm nhạc tuyệt đẹp có độ tin cậy và sự hấp dẫn phổ quát. Ảnh hưởng lâu dài của anh ta không thể được đánh giá thấp.

26 George Gershwin (1898-1937)

Gershwin là một nhà soạn nhạc đa năng của người Mỹ, người đã kết hợp nhạc jazz và cổ điển was a versatile American composer-pianist who melded jazz and classical

Carl Davis:

Gershwin, đối với tôi, là nhà soạn nhạc vĩ đại đầu tiên của Mỹ, có con đường sự nghiệp đi theo một quỹ đạo từ Tin Pan Alley Song-plugger vào nhạc kịch Broadway và các vở nhạc kịch phim Hollywood chắc chắn. is, for me, the first great American composer, whose career path followed a trajectory from Tin Pan Alley song-plugger into Broadway musicals and inevitably Hollywood film musicals.

Rhapsody truyền thống jazz của anh ấy trong Bluepremiered tại The Holy Grail of Classical Music, Carnegie Hall, và trong khi vở opera vinh quang của anh ấy Porgy và Bess có thể đã mở trên sân khấu Broadway, cuối cùng nó đã đến được Met và Nhà hát Opera Hoàng gia. Trên hết, có bản thân âm nhạc: một thành tích to lớn. Phong cách độc đáo của anh ấy không bao giờ thất bại trong cả mưu mô vừa khiến tôi cảm động.Rhapsody in Bluepremiered at the holy grail of classical music, Carnegie Hall, and while his glorious opera Porgy and Bess may have opened on Broadway, it eventually reached the Met and the Royal Opera House. Above all, there is the music itself: a tremendous achievement. His unique style never fails to both intrigue and move me.

25 Franz Schubert (1797-1828)

Schubert là một người lãng mạn của Áo nổi tiếng với các chu kỳ bài hát sâu sắc và các bản sonatas siêu phàm của anh ấy was an Austrian Romantic famed for his profound song cycles and sublime sonatas

Stephen Hough nói:

Có nhiều lý do chúng tôi có thể xem xét một nhà soạn nhạc tuyệt vời: đổi mới và độc đáo, hoặc tính nhất quán tuyệt đối dẫn đến nhiều kiệt tác.

Nhưng đối với tôi, tầm vóc độc đáo của Schubert, bên cạnh những đặc điểm đó, là khả năng nói chuyện với trái tim con người trong tất cả sự mong manh và dễ bị tổn thương của nó. Không có tình cảm hay sự giả dối, anh ta vươn ra khỏi tai người nghe của anh ta với trái tim họ. Chúng tôi cảm thấy rằng anh ấy đồng cảm với những khát khao sâu sắc nhất của linh hồn chúng tôi, nhưng bằng cách nào đó vẫn tôn trọng ranh giới của chúng tôi.Schubert’s unique stature, alongside those traits, is his ability to speak to the human heart in all its fragility and vulnerability. Without sentimentality or falsehood he reaches beyond the ears of his listeners to their hearts. We sense that he empathises with the deepest longings of our souls, yet somehow still respects our boundaries.

Sau khi cơ thể anh bắt đầu suy sụp trong bệnh tật, nguồn cảm hứng của anh đã bay. Đó là một mức giá cao cho anh ta, nhưng đối với chúng tôi, để lại với những tác phẩm kỳ diệu của anh ta, đó là một kho báu vô giá.

Chúng tôi đặt tên cho Schubert là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất của Áo và là một trong những nhà soạn nhạc lãng mạn giỏi nhất mọi thời đại

24 Leos Janáček (1854-1928)

Janáček là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất từng có truyền thống dân giangreatest Czech composers ever who memorialised folkloric traditions through magical music

Anna Meredith nói:

Tôi đã luôn luôn trở lại với âm nhạc của Janáček, trong những năm qua. Có rất nhiều kỹ năng kỹ thuật và đôi tai của anh ấy cho màu sắc và nhịp độ của dàn nhạc thực sự nhảy ra ngoài tôi, nhưng tôi nghĩ đó là sự táo bạo mà tôi yêu thích, sự đa dạng và sự đa dạng của anh ấy, sự hài hước trong một cái gì đó giống như vixen nhỏ bé, lớn Hình dạng ấn tượng của các mảnh buồng. Tôi nghĩ rằng tôi đã từng nghe anh ấy được mô tả như một nhà soạn nhạc, nhà soạn nhạc, mà tôi đồng ý vì tôi không biết bất kỳ nhà soạn nhạc nào không thích âm nhạc của anh ấy.Janáček’s music over the years. There’s a lot of technical skill and his ear for orchestral colour and pacing really jump out to me, but I think it’s the boldness that I love, the theatricality and variety in his Sinfonietta, the humour in something like The Cunning Little Vixen, the big dramatic shapes of the chamber pieces. I think I once heard him described as a ‘composer’s composer’, which I agree with because I don’t know any composers who don’t like his music.

Tuy nhiên, tuyên bố đó có thể làm cho âm nhạc của anh ấy có vẻ như là một thứ gì đó được ngưỡng mộ hoặc nghiên cứu, nhưng tôi nghĩ rằng anh ấy rất ngay lập tức hơn thế. Phải mất rất nhiều kỹ năng để viết theo cách nghe có vẻ rất bản năng và mới mẻ, nhưng mong muốn truyền đạt danh tính của từng khoảnh khắc là thứ mà Lôi truyền cảm hứng cho tôi.

Chúng tôi cũng đặt tên cho Janáček là một trong những nhà soạn nhạc opera giỏi nhất từ ​​trước đến nay

23 Carlo Gesualdo (1566-1613)

Nhà soạn nhạc hợp xướng người Ý giết người với một hương vị, cho các hòa âm xoắn

Elena Langer nói:

Lần đầu tiên tôi nghe nhạc Gesualdo, khi đang học tại Nhạc viện Moscow và cảm thấy nghẹt thở bởi quy ước: polyphony cũ, baroque, dodecaphony, tại sao âm nhạc 400 năm của anh ấy nghe có vẻ mới mẻ, gây sốc và vượt thời gian?Gesualdo’s music while studying at the Moscow Conservatory and feeling suffocated by convention: old polyphony, Baroque, dodecaphony… Why did his 400-year-old music sound so fresh, shocking and timeless?

Độc lập, đam mê và bỏ qua các quy tắc, Gesualdo đã tìm thấy phương tiện âm nhạc hoàn hảo để thể hiện tâm hồn bị tra tấn của mình. Giọng nói trượt luôn phản ứng chính xác với văn bản của họ, xây dựng thành những bản hòa âm gần như Wagnerian. Các nhà soạn nhạc vĩ đại nhất nói ngôn ngữ âm nhạc của thời đại của họ nhưng biến đổi nó để nói điều gì đó quan trọng và độc đáo. Những kẻ điên của anh ta giống như các vở opera ngắn thực sự dữ dội.Gesualdo found the perfect musical means to express his tortured soul. Sliding chromatic voices always react precisely to their text, building into almost Wagnerian harmonies. The greatest composers speak the musical language of their times but transform it to say something important and unique. His madrigals are like really intense short operas.

22 Arnold Schoenberg (1874-1951)

Cha đẻ của chủ nghĩa nối tiếp, nhà điều phối tinh tế và nhà lý luận âm nhạc được tôn trọng

Brian Elias nói:

Ý tưởng của Schoenberg đã có ảnh hưởng vô cùng và di sản của ông vẫn ảnh hưởng đến chúng ta ngày nay. Sự dũng cảm và liêm chính của anh ấy là không ai sánh kịp; Ông đã phát hiện ra một hệ thống sáng tác mới đã chứng minh là có những hạn chế của nó, nhưng đồng thời, ông đã khởi xướng những cách suy nghĩ mới và triệt để về âm nhạc và nên được sáng tác. Đối với rất nhiều nhà soạn nhạc của thế hệ của tôi, các tác phẩm như Pierrot Lunaire và ba tác phẩm piano op. 11 vẫn là những đỉnh cao của trí tưởng tượng sáng tạo và độc đáo. ideas have been immeasurably influential and his legacy still affects us today. His bravery and integrity are second to none; he discovered a new system of composition that has since proved to have its limitations but, at the same time, he initiated new and radical ways of thinking about how music is and should be composed. For so many composers of my generation, works such as Pierrot Lunaire and the Three Piano Pieces Op. 11 remain pinnacles of creative imagination and originality.

Đọc đánh giá của chúng tôi về các bản ghi Schoenberg mới nhất tại đây

21 Ralph Vaughan Williams (1872-1958)

Các cảnh mục vụ và ảnh hưởng của tudor là trước trong đầu ra của nhà soạn nhạc tiếng Anh này

David Bednall nói:

Đối với tôi, sức mạnh của âm nhạc Vaughan Williams, là sự trực tiếp cảm xúc và sức mạnh biểu cảm của nó. Soundworld của anh ấy đặc biệt đến nỗi bạn biết ngay lập tức nhà soạn nhạc là ai, nhưng nó có vẻ vô cùng biến đổi - chỉ đơn giản là so sánh bản giao hưởng thứ tư của anh ấy với thứ năm của anh ấy chẳng hạn.Vaughan Williams’s music is its emotional directness and expressive power. His soundworld is so distinctive that you know immediately who the composer is, and yet it seems infinitely variable – simply compare his Fourth Symphony with his Fifth, for example.

Nó cũng có chất lượng dường như rất cá nhân và cho tất cả sự sáng chói và kỹ năng kỹ thuật của nó, nó được viết để bạn hiểu. Ngoài ra còn có khả năng đáng kinh ngạc để kết hợp cổ xưa và mới thành một hỗn hợp độc đáo không phải là người hay cái kia mà chỉ có thể là RVW. Fantasia về một chủ đề của Thomas Tallis là ví dụ rõ ràng nhất về điều này.RVW. The Fantasia on a theme of Thomas Tallis is the most obvious example of this.

  • Vaughan Williams yêu thích của bạn là gì?
  • Sáu trong số các bản ghi âm hay nhất của Bản giao hưởng Biển của Vaughan Williams
  • Hướng dẫn về Bản giao hưởng số 4 của Vaughan Williams

Chúng tôi đặt tên cho Vaughan Williams là một trong những nhà soạn nhạc tiếng Anh vĩ đại nhất mọi thời đại greatest English composers of all time

Đọc đánh giá của chúng tôi về các bản ghi Vaughan Williams mới nhất tại đây

20 Frederic Chopin (1810-49)

Ba Lan lãng mạn có sản lượng khổng lồ đã biến đổi tiết mục piano

Jake Heggie nói:

Chỉ là một vài ghi chú và bạn biết điều đó, anh ấy: một tâm hồn đơn lẻ, không thể xóa nhòa, được truyền cảm hứng với âm nhạc đẹp đẽ, dũng cảm, được chế tác hoàn hảo cộng hưởng theo thời gian và văn hóa. Có ai thích Chopin không? Anh ấy đã viết các bản giao hưởng hoặc vở opera; Anh ta biết nơi mà những món quà của anh ta nằm và không ngừng khám phá các khả năng kỹ thuật và biểu cảm trong vương quốc đó.Chopin? He didn’t write symphonies or operas; he knew where his gifts lay and relentlessly explored the technical and expressive possibilities within that realm.

Ông đã là cửa ngõ và nguồn cảm hứng cho hàng triệu nghệ sĩ piano, giáo viên và nhà soạn nhạc của tất cả các sọc. Nhân tính của anh ấy đã đưa tôi qua những thời điểm khó khăn nhất trong cuộc đời tôi: cha tôi tự tử, xuất hiện trong cuộc khủng hoảng AIDS, chấn thương bàn tay đã thay đổi quá trình của cuộc đời tôi. Chopin luôn ở đó với tôi.Chopin was always there with me.

  • Năm tác phẩm cần thiết của Chopin

Đọc đánh giá của chúng tôi về các bản ghi Chopin mới nhất tại đây

19 Steve Reich (B.1936)

Người tối giản người Mỹ, chuyên gia crafter của các dòng sạch và giai điệu đẩy

Stewart Copeland nói:

Steve Reich có thể được coi là vị cứu tinh của âm nhạc cổ điển hiện đại. Ở đâu đó vào giữa thế kỷ 20, ý tưởng này đã được tổ chức trong số những nhà soạn nhạc giỏi nhất mà âm nhạc tinh tế tương đương với nỗi đau. Bản thân Reich bắt đầu với khái niệm cao trí tuệ, nhưng sau đó đưa ra một thứ gì đó cho phép anh ta đi theo một hướng khác: vẻ đẹp đơn giản. Chủ nghĩa tối giản của ông tránh các quy tắc cấu trúc, hình thức, đường viền và nhịp điệu. could be regarded as the saviour of modern classical music. Somewhere in the middle of the 20th century, the idea took hold among even the best composers that music sophistication equals pain. Reich himself started with intellectual high concept, but then landed on something that allowed him to take a different direction: simple beauty. His minimalism eschews rules of structure, form, contour and rhythm.

Đọc đánh giá của chúng tôi về các bản ghi Reich mới nhất tại đây

18 Johannes Brahms (1833-97)

Một người khổng lồ sáng tác lãng mạn của kết cấu giàu có, chín muồi và những giai điệu chiến thắngRomantic composing giant of rich, ripe textures and winsome melodies

Mark Simpson nói:

Những người tốt nhất của Brahms tồn tại trong những khoảnh khắc khi anh ta vượt qua ý thức cơ bản, trần thế của mình và đưa chúng ta đến trạng thái nhận thức tâm linh cao hơn - đoạn văn giữa con người và thế giới tâm linh. Anh ta về bản chất là con người sâu sắc nhưng cũng có một khía cạnh tâm linh phát triển mà anh ta có quyền truy cập. Nó có thể phấn đấu cho một trạng thái ý thức biểu cảm cao hơn mà tôi nhận được nhiều nhất từ ​​công việc của anh ấy.Brahms exists in the moments when he transcends his grounded, earthy sense of being and take us to a higher state of spiritual awareness – the passage between the human and the spiritual world. He was in essence deeply human but also had a developed spiritual side that he had access to. It’s this striving for a higher state of expressive consciousness that I take most from his work.

  • Năm tác phẩm cần thiết của Brahms
  • Sáu trong số các bản ghi Brahms tốt nhất
  • Johannes Brahms là ai?

Đọc đánh giá của chúng tôi về các bản ghi Brahms mới nhất ở đây

17 Kaija Saariaho (B1952)

Nhà soạn nhạc Phần Lan làm việc trên các lĩnh vực điện khí kinh và quang phổ

Anna Thorvaldsdottir nói:

Kaija Saariaho là một trong những nhà soạn nhạc hoành tráng của thời đại chúng ta. Có rất nhiều điều tuyệt vời có thể nói về âm nhạc của cô ấy, đặc biệt là những tác phẩm tuyệt vời của cô ấy cho các lực lượng lớn hơn - nhiều trong số đó là những mục yêu thích cá nhân. Ngoài ra, tôi cảm thấy rằng sự hiện diện mạnh mẽ của âm nhạc của cô ấy trong những năm qua đặc biệt quan trọng như một hình mẫu cho các thế hệ trẻ, không chỉ đối với phụ nữ trẻ trong âm nhạc tìm thấy cảm hứng và sự khích lệ trong một nhà soạn nhạc hấp dẫn như vậy. Ảnh hưởng nhiều mặt này, chắc chắn sẽ tiếp tục để định hình âm nhạc của tương lai. is one of the monumental composers of our time. There are so many wonderful things that can be said about her music, especially her great pieces for larger forces – many of which are personal favourites. In addition, I feel that the powerful presence of her music over the years has been particularly important as a role model for younger generations, not least for younger women in music that find inspiration and encouragement in such a compelling composer. This multifaceted influence will, without doubt, carry on to shape the music of the future.

  • Kaija Saariaho: Sáu trong số các tác phẩm hay nhất của cô ấy

Đọc đánh giá của chúng tôi về Saariahorecordings mới nhất ở đâySaariaho recordings here

16 Joseph Haydn (1732-1809)

Symphonic Pioneer, người đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nhạc thính phòng

Rodney Newton nói:

Cha của Symphony và bộ tứ chuỗi, ‘Papa, Haydn đã đặt nền móng cho sự phát triển của các hình thức này, và tính sáng tạo và độc đáo của anh ta là nguồn cảm hứng và mô hình cho vô số người khác.Haydn laid the foundations for the development of these forms, and his inventiveness and originality were the inspiration and model for countless others.

Như với JS Bach, sự phong phú của sản lượng Haydn, và phạm vi của nó là đáng kinh ngạc. Từ quan điểm của sự thích thú tuyệt đối, anh ta có một vài điểm tương đồng - nhân loại của anh ta bong bóng ra khỏi mọi công việc. Và như một nhà soạn nhạc đồng nghiệp đã từng khuyên tôi, ‘Nếu bạn muốn học cách viết giai điệu, hãy nghiên cứu Haydn!JS Bach, the fecundity of Haydn’s output and its range is staggering. From the point of view of sheer enjoyment, he has few parallels – his humanity bubbles out of every work. And as a fellow composer once advised me, ‘If you want to learn to write melodies, study Haydn!’

  • Năm tác phẩm cần thiết của Haydn
  • Câu chuyện về sự sáng tạo của Haydn

Đọc đánh giá của chúng tôi về Haydnrecordings mới nhất ở đây recordings here

15 Dmitri Shostakovich (1906-75)

Nhà soạn nhạc hậu lãng mạn của các bản giao hưởng quy mô lớn, các tác phẩm dàn nhạc và opera

Danny Elfman nói:

Những cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với Shostakovich đã đảo lộn quan điểm âm nhạc của tôi. Chẳng hạn, bộ tứ chuỗi thứ tám của anh ấy đã đánh tôi bằng lực như vậy. Mô típ bốn nốt mở đầu đã tạo ra một kết nối ngay lập tức với tôi khi nó phát triển thành giai điệu có hồn và đau lòng nhất mà tôi từng nghe.Shostakovich turned my musical perspective upside down. His Eighth String Quartet, for instance, hit me with such force. The opening four-note motif made an instant connection to me as it evolved into the most soulful and heartbreaking melody I had ever heard.

  • Năm trong số các nhạc trưởng Shostakovich giỏi nhất
  • Chính trị của Dmitri Shostakovich

Sau đó, cách anh ta vặn vẹo và biến mô típ đó, phơi bày và che giấu nó trong suốt bộ tứ, dường như là một trò ảo thuật không thể, từ từ từ từ khi rời khỏi những giai điệu thuần khiết thuần túy, với cảm giác vô vọng nguyên sơ, nguyên sơ. Khi tôi đi sâu hơn vào âm nhạc của anh ấy, tôi thấy một số yếu tố cùng tồn tại: niềm đam mê, sự khéo léo hoàn hảo, sự nhiệt tình có thể gần như ham chơi, bóng tối va vào sự hài hước và tinh thần thuần khiết làm phong phú thế giới của người nghe.

  • Các bản ghi âm hay nhất của Bản giao hưởng số 7 của Shostakovich 'Leningrad'
  • Bản ghi âm hay nhất của Bản giao hưởng số 5 của Shostakkovich

Đọc đánh giá của chúng tôi về các bản ghi Shostakovich mới nhất tại đâyrecordings here

14 Béla Bartók (1881-1945)

Âm nhạc dân gian Hungary đụng độ ly kỳ với chủ nghĩa hiện đại góc cạnh

Michael Berkeley nói:

Bartók dành cho tôi một anh hùng vô danh. Bộ tứ sáu chuỗi của ông là chu kỳ tốt nhất kể từ Beethoven, và trong đó, ông đã cách mạng hóa việc viết cho các nhạc cụ chuỗi. Nhưng những âm thanh phi thường mà anh ấy đạt được là hoàn toàn hữu cơ và quan trọng đối với sự nhạy cảm của âm nhạc. Ở quy mô lớn hơn, tôi rất thích thấy hai kiệt tác kết hợp trong một hóa đơn kép tại Nhà hát Opera Hoàng gia, với vở opera làm lâu đài Bluebeard, và vở ba -lê thực hiện tiếng Quan thoại kỳ diệu - cả hai điểm của sức mạnh và tầm nhìn đáng sợ. is for me an unsung hero. His six string quartets are the finest cycle since Beethoven’s and in them he revolutionised writing for string instruments. But the extraordinary sounds he achieves are utterly organic and crucial to the sensibility of the music. On a larger scale, I would love to see two masterpieces coupled in a double bill at the Royal Opera House, with the opera doing Bluebeard’s Castle and the ballet doing Miraculous Mandarin – both scores of terrifying power and vision.

  • 5 tác phẩm thiết yếu của Bartók
  • Bartók: Khám phá sáu tác phẩm ít được biết đến của anh ấy

Đọc đánh giá của chúng tôi về các bản ghi Bartók mới nhất tại đâyrecordings here

13 Olivier Messiaen (1908-92)

Trong âm nhạc của mình, nhà soạn nhạc người Pháp tìm đến chủ nghĩa nối tiếp, gamelan và chim

Roxanna Panufnik nói:

Trong những năm qua, sự ngưỡng mộ của tôi đối với Messiaen đã phát triển và phát triển - từ lần đầu tiên tôi tiếp xúc với sự hòa hợp vạn hoa của anh ấy trong những ngày đại học âm nhạc của tôi đến các buổi biểu diễn trực tiếp của bản giao hưởng Turangalîla vượt thời gian của anh ấy trong những năm sau đó. Tâm linh của anh ấy tìm thấy thông qua tâm hồn tôi khi các hợp âm hùng vĩ và thanh tao hòa quyện và hình thái trong âm học của Giáo hội tôn kính.Messiaen has grown and grown – from my first exposure to his kaleidoscopic harmony during my music college days to electrifying live performances of his timeless Turangalîla Symphony in later years. His spirituality seers through my soul as his majestic and ethereal chords blend and morph in reverent church acoustics.

Sau đó, tôi phát hiện ra anh ta, giống như tôi, bị synaesthesia (mà đối với anh ta, có nghĩa là anh ta nhìn thấy màu sắc khi anh ta nghe thấy âm thanh) và sự hấp dẫn của tôi đối với âm nhạc của anh ta thậm chí còn có ý nghĩa hơn. May mắn thay, anh ấy đã để lại cho chúng tôi một cơ thể công việc hoành tráng như vậy, tôi có rất nhiều khám phá để mong đợi.

  • Năm tác phẩm cần thiết của Messiaen

Đọc đánh giá của chúng tôi về các MessiaenRecordings mới nhất ở đây recordings here

12 Jean Sibelius (1865-1957)

Phong cảnh người Phần Lan và văn hóa dân gian cổ đại được ghi lại trong màu sắc sống động

Anthony Payne nói:

Hiệp hội Gramophone trường học của tôi đã từng đưa vào bản ghi âm Koussevitzky của Sibelius, bản giao hưởng thứ hai và nó đã thổi bay tôi. Vào thời điểm đó, tôi không thể nói tại sao, nhưng ngôn ngữ âm nhạc nói với tôi trong tình trạng thiếu hiểu biết một phần của tôi. Có một cái gì đó phía bắc và mạnh mẽ về Sibelius. Nhưng đó là ý tưởng về sự phát triển kể chuyện trong âm nhạc của anh ấy thực sự thu hút tôi - cách anh ấy bắt đầu với một ý tưởng hoặc một họa tiết và cho phép nó phát triển.Sibelius’s Second Symphony and it blew me away. At the time, I couldn’t say why, but the musical language spoke to me in my then state of partial ignorance. There’s something northern and powerful about Sibelius. But it’s the idea of narrative growth in his music that really grabs me – the way he starts with an idea or a motif and allows it to develop.

Trong bản giao hưởng thứ bảy, solo trombone trở lại ba lần, mỗi lần thay đổi; Bạn có thể nhận ra vật liệu trong suốt và nghe thấy nó đang phát triển. Sibelius cũng đưa ra các tài liệu tham khảo về các hình thức cổ điển, nhưng chúng hoàn toàn mới được liên kết, như trong chuyển động đầu tiên của bản giao hưởng thứ hai hoặc những bài thơ giai điệu như Tapiola, mà tôi nghĩ là một trong những tác phẩm tuyệt vời của mọi thời đại.Sibelius also makes references to classical forms, but they’re completely newly aligned, as in the first movement of the Second Symphony or the tone poems such as Tapiola, which I think is one of the great works of all time.

  • Top 5 Sibelius Works
  • Hướng dẫn về Sibelius 'Kullervo

Đọc các đánh giá của chúng tôi về Sibeliusiusrecordings mới nhất ở đây recordings here

11 Benjamin Britten (1913-76)

Nhà soạn nhạc tiếng Anh của các tác phẩm hợp xướng, opera và bài hát; Người sáng lập Lễ hội Aldeburgh

Cheryl Frances-Hoad nói:

Âm nhạc ’hiện đại đầu tiên mà tôi nhớ khám phá là của Britten-khi một người tám tuổi cố gắng chơi Tema‘ Sacher, trên chiếc cello của tôi. Kể từ đó, âm nhạc của anh ấy đã làm tôi say mê, và thường là điểm số của anh ấy mà tôi sẽ chuyển sang để có sáng tác ‘lời khuyên. Đối với tôi, âm nhạc của anh ấy là cuộc hôn nhân hoàn hảo của cảm xúc và thủ công, với mọi yếu tố sáng tác làm việc cùng nhau để đóng góp cho sức mạnh biểu cảm của âm nhạc. Nếu tôi chỉ được phép nghe một mảnh cho đến hết đời, tôi sẽ chọn Les Illuminations của anh ấy.Britten – as an eight year-old attempting to play his Tema ‘Sacher’ on my cello. Ever since, his music has enthralled me, and it is often to his scores that I will turn to for compositional ‘advice’. To me, his music is the perfect marriage of emotion and craft, with every compositional element working together to contribute to the music’s expressive power. If I were only allowed to listen to one piece for the rest of my life, I would choose his Les Illuminations.

  • 5 tác phẩm thiết yếu của Benjamin Britten
  • Top 20 bản ghi âm Britten
  • Benjamin Britten và Peter Pears

Ghi âm được đề xuất:

Đọc đánh giá của chúng tôi về Brittenrecordings mới nhất ở đây recordings here

10 nhà soạn nhạc cổ điển hàng đầu mọi thời đại

10 Claudio Monteverdi (1567-1643)

Người Ý có khả năng sinh sản âm nhạc đã biến đổi mọi thể loại âm nhạc

Eric Whitacre nói:

Monteverdi là một maverick và có tầm nhìn, một tay thay đổi các mô hình âm nhạc. Đóng góp của ông cho sự phát triển của một thể loại hoàn toàn mới, Opera, là không thể chối cãi. Cảm xúc của con người trở thành nguồn cảm hứng và âm nhạc là một phương tiện để thể hiện niềm đam mê của con người. Từ bỏ các quy tắc học thuật và định kiến ​​âm nhạc, ông đã tạo ra các tác phẩm đột phá trong nhiều thập kỷ, bắc cầu cho thời Phục hưng và Baroque-rõ ràng là dễ dàng. Trên hết, Monteverdi đã viết âm nhạc cực kỳ được tạo ra và đẹp đẽ, đó là một niềm vui để nghe. was a maverick and visionary, single-handedly changing musical paradigms. His contribution to the development of a whole new genre, opera, was incalculable. Human emotion became a source of inspiration and music a means to express human passions. Abandoning academic rules and musical preconceptions, he created ground-breaking works for decades, bridging Renaissance and Baroque – apparently effortlessly. Above all else, Monteverdi wrote supremely well-crafted and deeply beautiful music that is a joy to hear.

  • Bản ghi âm tốt nhất của Monteverdi

Đọc các đánh giá của chúng tôi về MonteverDireDings mới nhất ở đây recordings here

9 Maurice Ravel (1875-1937)

Nhà ấn tượng người Pháp đáng chú ý đối với piano đầy màu sắc của anh ấy và sử dụng sự lặp lại

Judith Bingham nói:

Cả về âm nhạc và là một người, Ravel luôn có vẻ vô cùng bí ẩn đối với tôi. Anh ta làm tôi nhớ đến họa sĩ Baroque của Pháp, Watteau (những bức tranh đã truyền cảm hứng cho anh ta) - rất đẹp, nhưng hình ảnh có nghĩa là luôn nằm ngoài tầm với. Le Tombeau de Couperin, được viết trong Thế chiến I để tưởng niệm những người bạn đã bị giết và trong thời kỳ của mẹ anh ta suy giảm và chết, rất nhẹ nhàng, như thể anh ta muốn quay lưng lại.Ravel has always seemed extremely mysterious to me. He reminds me of the French Baroque painter, Watteau (whose paintings inspired him) – intensely beautiful, but the picture’s meaning is always slightly out of reach. Le Tombeau de Couperin, written during World War I to memorialise friends who had been killed and in the period of his mother’s decline and death, is very light-hearted, as though he wanted to wind back time.

Tất nhiên, tất cả âm nhạc của anh ấy là vô cùng nguyên bản: âm sắc được sử dụng để mê hoặc. Anh ta có kỹ năng bất thường, có thể không cố tình, viết nhạc có thể được nghe với sự hài lòng như nhau của người lớn và trẻ em.

Đọc đánh giá của chúng tôi về Ravelrecordings mới nhất ở đây recordings here

8 Richard Wagner (1813-83):

Nhà soạn nhạc của sử thi, các vở opera quy mô lớn; Nhà phát minh của Gesamtkunstwerk

Jonathan Dove nói:

Quy mô của trí tưởng tượng Wagner là quá sức. Đặc biệt, chiếc nhẫn là một tầm nhìn to lớn về một tác phẩm kéo dài hơn 15 giờ (cộng với khoảng thời gian), và anh ta có sự kiên trì và tự tin để dành 26 năm để viết nó. Ông đã tạo ra hình ảnh âm nhạc ngoạn mục của sự sống động vượt trội, và có một cách tiếp cận mang tính cách mạng và thời gian. Cho dù bạn thấy âm nhạc của anh ấy độc hại hay say sưa, bạn có thể bỏ qua nó.Wagner’s imagination is overwhelming. The Ring in particular is an immense vision of a work that lasts more than 15 hours (plus intervals), and he had the tenacity and self-belief to spend 26 years writing it. He created spectacular musical imagery of unsurpassed vividness, and had a revolutionary approach to memory and time. Whether you find his music toxic or intoxicating, you can’t ignore it.

  • Những bản ghi âm tốt nhất của Wagner
  • Sáu trong số các sản phẩm tốt nhất của Wagner's Tristan und Isolde
  • Wagner's Leitmotifs

Đọc đánh giá của chúng tôi về các bản ghi Wagner mới nhất ở đây

7 Gustav Mahler (1860-1911)

Các bản giao hưởng lãng mạn hùng mạnh của anh ấy ôm lấy toàn bộ nhân loại

David Matthews nói:

Mahler sáng tác một số bản giao hưởng lớn nhất kể từ Beethoven, được viết với một mệnh lệnh đáng kinh ngạc của tất cả các khía cạnh của kỹ thuật sáng tác. Mahler là một người lãng mạn, nhưng anh không thể chia sẻ sự lạc quan lãng mạn sớm của Beethoven; Ông là một cách tiếp cận hiện đại, đầy nghi ngờ và không chắc chắn nhưng hầu như không bao giờ rơi vào tuyệt vọng. Việc tìm kiếm ý nghĩa không bao giờ vắng mặt, và cũng như sự phấn khích đam mê của nó, âm nhạc Mahler, thường đầy niềm vui không bị ngăn cản. Đây là lý do tại sao tôi nghĩ rằng nó có sức hấp dẫn như vậy trong thời gian đen tối của chúng ta. composed some of the greatest symphonies since Beethoven, written with an astonishing command of all aspects of compositional technique. Mahler was a Romantic, but he could not share Beethoven’s early Romantic optimism; his is a modern approach, full of doubts and uncertainties yet hardly ever falling into despair. The search for meaning is never absent, and as well as its passionate striving, Mahler’s music is often full of uninhibited joy. This is why I think it has such appeal in our own dark time.

  • Bản giao hưởng Mahler nào tốt nhất?
  • Hướng dẫn về Bản giao hưởng Furst của Mahler
  • Các bản ghi âm hay nhất của Bản giao hưởng số 5 của Mahler

Đọc đánh giá của chúng tôi về các bản ghi Mahler mới nhất tại đây

6 Gyorgy Ligeti (1923-2006)

Người tiên phong tiên phong người Hungary-Úc và Tiên phong đa âm

John Casken nói:

Ligeti là một nhà soạn nhạc hấp dẫn nhất, và một nhà soạn nhạc có trí tưởng tượng gần như vô hạn. Cùng với Lutosławski vào những năm 1960, anh ấy đã chỉ cho chúng tôi cách lắng nghe từ chối để hòa hợp và làm chúng tôi bối rối với kết cấu ma thuật. Anh ấy trêu chọc và chơi với những kỳ vọng của chúng tôi trong một thế giới kỳ quái của những vị trí kỳ lạ, những thái cực của cuộc tranh luận và cố tình chùn bước.

Tại một thời điểm, âm nhạc nằm trong tầm tay của chúng tôi và phần tiếp theo nó nằm ngoài tầm với. Tôi yêu niềm vui và sự phấn khích, nhưng đồng thời, những mầm bệnh và sự phong phú của bộ ba sừng, và những tiếng ocarinas than thở và ma quái trong bản concerto piano gần như không thể chịu đựng được. Trong khi đó, études của anh ấy cho piano dường như phản ánh một cái gì đó ngoài nhận thức của con người. Ở đây, và theo nhiều cách khác, anh ta chạm vào câu hỏi của con người về điều gì là có thật và những gì không?

  • Hướng dẫn về phong cách của Ligeti

Đọc đánh giá của chúng tôi về các bản ghi Ligeti mới nhất ở đây

Top 5 nhà soạn nhạc nổi tiếng từng có

5 Claude Debussy (1862-1918)

Người tạo ra giai điệu trữ tình, tác phẩm piano thơ ca và nhạc thính phòng

Jennifer Higdon nói:

Ánh sáng và không khí thấm nhuần không gian giữa các nốt nhạc của âm nhạc Claude Debussy. Ngay cả khi còn nhỏ - rất lâu trước khi tôi bắt đầu con đường âm nhạc - các tác phẩm của anh ấy sẽ luôn đưa tôi đến bế tắc. Tôi hoàn toàn bị mê hoặc bởi những gì cảm thấy như một loại ma thuật nào đó, rơi xuống không trung. Bây giờ, là một người làm việc trong cùng một lĩnh vực, tôi có thể nói rằng âm nhạc của Debussy nghe như một làn gió nhẹ, để lại ấn tượng nhẹ nhàng nhưng với sự hiện diện đủ để vẫn truyền cảm hứng cho tôi dừng lại và lắng nghe - nghệ thuật của nhà soạn nhạc 'Rebel' này Vẫn còn mới.Debussy’s music. Even as a young child – long before I started down the path of music – his works would always bring me to a standstill. I was utterly fascinated by what felt like some sort of magic, descending on the air. Now, as someone who works in the same field, I am able to say that Debussy’s music sounds like a light breeze, leaving a gentle impression but with enough presence to still inspire me to stop and listen – the artistry of this ‘rebel’ composer still sounds fresh.

  • Hướng dẫn về Prélude của Debussy
  • Năm tác phẩm cần thiết của Debussy
  • Câu chuyện về Préludes của Debussy (1909-13)
  • Những bản ghi tốt nhất về hình ảnh của Debussy

Đọc đánh giá của chúng tôi về các bản ghi Debussy mới nhất ở đây

4 Wolfgang Amadeus Mozart (1756-91)

Phi thường và sung mãn, nhà soạn nhạc Áo đã xác định kỷ nguyên cổ điển

Augusta đọc Thomas nói:

Đối với tôi, các tác phẩm của Mozart, có một khả năng không thể tránh khỏi, thuần khiết và trung thực, nhân đạo, con người, vô cùng hấp dẫn, giàu có, âm thanh và kỹ thuật tuyệt vời; Âm nhạc của anh ấy đôi khi hài hước, đôi khi di chuyển một cách kỳ quặc. Theo nhiều cách, cơ thể của công việc tuôn ra từ anh ta trong 35 năm cuộc đời của anh ta có cảm giác như ma thuật thuần túy, và điều đó không thể tin được làm thế nào một chàng trai trẻ như vậy có thể đồng hóa những sự giàu có sâu sắc nhất của âm nhạc và khả năng của nó.Mozart’s works have an inevitability that is pure and honest, humane, human, infinitely compelling, rich, sonorous and technically fabulous; his music is at times humorous, at times gut-wrenchingly moving. In many ways, the body of work that poured out of him in his brief 35 years of life feels like pure magic, and it’s unbelievable how such a young man was able to assimilate the deepest riches of music and its possibilities.

  • Tại sao Giải thưởng Giáo hoàng Mozart một hiệp sĩ giáo hoàng và trật tự của Golden Spur?

Tuy nhiên, các tác phẩm của anh ấy rất mới mẻ: anh ấy không chỉ hiểu lịch sử âm nhạc và lấy lại nó - các tác phẩm của anh ấy nghe giống anh ấy, ngay cả khi phong cách của anh ấy phát triển và nở rộ. Và ảnh hưởng của anh ấy đối với lịch sử âm nhạc tiếp theo là hoàn toàn sâu sắc.

  • 5 tác phẩm cần thiết của WA Mozart
  • 10 công trình mozart bạn có thể không biết
  • Các bản thu âm hay nhất của các bản hòa tấu piano của Mozart

Đọc đánh giá của chúng tôi về các bản ghi Mozart mới nhất ở đây

3 Ludwig van Beethoven (1770-1827)

Straddling cổ điển và chủ nghĩa lãng mạn, âm nhạc trên phạm vi rộng của ông thống trị thời đại của ông

John Corigliano nói:

Là một nhà soạn nhạc, mục tiêu của tôi là đạt được sự cân bằng hoàn hảo giữa các yếu tố nội tạng và não trong âm nhạc của tôi. Điều cực kỳ quan trọng đối với tôi là người nghe bị lôi kéo vào bộ phim về tác phẩm của tôi, nhưng cũng quan trọng không kém là có nhiều lớp tài liệu có thể được phát hiện với việc nghe lặp đi lặp lại. Có rất nhiều nhà soạn nhạc tuyệt vời cố gắng đạt được mục tiêu này, và một số người rất gần với nó.

Ngoài ra còn có nhiều nhà soạn nhạc tuyệt vời không có hứng thú với sự cân bằng tinh tế này. Nhưng đối với tôi, Ludwig Van Beethoven là một nhà soạn nhạc làm cho âm nhạc trở nên cấp bách đến nỗi người ta ngay lập tức bị cuốn hút vào nó, mạnh mẽ đến mức người ta khó có thể cưỡng lại nó và được xếp lớp phong phú đến mức người ta sẽ không bao giờ hoàn toàn làm hỏng độ sâu của các công trình tuyệt vời của nó. Không có ai thích anh ấy.Ludwig van Beethoven is the one composer that makes music so urgent that one is immediately drawn to it, so powerful that one can hardly resist it and yet so richly layered that one will never entirely plumb the depths of its wondrous constructions. There is no one like him.

Thea Musgrave nói: says:

Để biết ví dụ về những gì làm tôi phấn khích về Beethoven, hãy thực hiện chuyển động cuối cùng của bản giao hưởng thứ tám của anh ấy. Nó bắt đầu trong F Major sau đó đột nhiên âm nhạc bị gián đoạn với một Farte Sharp gây ngạc nhiên và không giải thích được. Âm nhạc sau đó tiếp tục như thể không có gì xảy ra! Lời giải thích, chỉ xuất hiện trong Coda vài phút sau đó-một ví dụ tuyệt vời về quy hoạch hòa âm tầm xa. Điều này khiến tôi trở thành một nhà soạn nhạc để nghĩ về ngay cả âm nhạc phi trình bày của tôi trong các câu chuyện và cử chỉ kịch tính.Eighth Symphony. It starts in F major then suddenly the music is interrupted with a startling and unexplained C sharp played forte. The music then resumes almost as if nothing has happened! The ‘explanation’ only comes in the coda several minutes later – a wonderful example of ‘long-range’ harmonic planning. This led me as a composer to think of even my non-programmatic music in dramatic narratives and gestures.

  • Sáu trong số các tác phẩm Beethoven bị bỏ qua tốt nhất
  • Các bản ghi âm tốt nhất của các bản giao hưởng của Beethoven
  • 10 người biểu diễn Beethoven tuyệt vời

Bạn có thể đọc các đánh giá của chúng tôi về các bản ghi Beethoven mới nhất tại đây

2 Igor Stravinsky (1882-1971)

Iconoclast của Nga có cách tiếp cận tích hợp với nghệ thuật đã đứng trước thử thách của thời gian

Mark-Anthony Turnage nói: Tôi cho rằng theo nhiều cách, tôi đã bị ám ảnh bởi Iggy (như Hans Werner Henze đã từng gọi anh ta). Mỗi ghi chú đều được đặt rất đẹp; Không có gì lọ hoặc là thừa. Nó di chuyển tôi, bởi vì giống như Bach, nó rất chính xác. Tôi yêu sự hài hòa, những giai điệu bị thổi phồng của Nga, năng lượng và sáng chói.
I suppose in many ways I’m obsessed with Iggy (as Hans Werner Henze used to call him). Every note is so beautifully placed; nothing jars or is superfluous. It moves me, because like Bach it’s so precise. I love the harmony, the Russian inflected melodies, the energy and brilliance.

Cho dù đó là các hợp âm thanh thản di chuyển với dòng bass ở cuối Bản giao hưởng Thánh vịnh, sự quan tâm khi mở các bản giao hưởng của nhạc cụ gió và mọi thứ ở giữa, bao gồm cả các tác phẩm tân cổ điển, nó rất tuyệt vời. Là một nhà soạn nhạc, anh ấy ở đó trong cuộc sống của tôi, lờ mờ trên tôi nhưng không bao giờ là một sự hiện diện áp đảo; Luôn táo tợn và khích lệ. Âm nhạc của anh ấy làm cho tôi rất hạnh phúc, đặc biệt là vào những ngày đen tối. Tôi yêu Igor Stravinsky.Igor Stravinsky.

Edward Gregson nói:

Nghi thức của mùa xuân đã được chứng minh là sự ra đời thực sự của chủ nghĩa hiện đại, hơn cả âm nhạc Schoenberg, từng có. Và, giống như Picasso, Stravinsky liên tục tái tạo lại chính mình và ngôn ngữ âm nhạc của mình, mặc dù phong cách của anh ấy vẫn không đổi-âm nhạc 12 giai điệu của anh ấy như Stravinskian như bất kỳ tác phẩm nào trước đây của anh ấy. Không có nhiều nhà soạn nhạc kể từ khi những người không bị ảnh hưởng bởi trí tưởng tượng sáng tạo của mình. Ông là cha đỡ đầu của âm nhạc thế kỷ 20. has proved to be the true birth of modernism, more than Schoenberg’s music ever was. And, rather like Picasso, Stravinsky constantly reinvented himself and his musical language, though his style remained constant – his 12-tone music sounds as Stravinskian as any of his earlier work. There are not many composers since who have not been influenced by his creative imagination. He is the godfather of 20th-century music.

  • Những bản ghi âm hay nhất của Stravinsky's The Rite of Spring
  • Điều gì xảy ra trong The Firebird của Stravinsky?

Đọc đánh giá của chúng tôi về các bản ghi Stravinsky mới nhất tại đây

Và nhà soạn nhạc vĩ đại nhất từng có là ...

Nhà soạn nhạc giỏi nhất trên thế giới có thể là bất kỳ ai khác ngoài JS Bach không? Johann Sebastian Bach đứng đầu danh sách với âm nhạc của sự sáng chói ngoạn mục.Johann Sebastian Bach tops the list with music of breathtaking brilliance.

1 Johann Sebastian Bach (1685-1750)

Tất cả những lời ca ngợi JS Bach, người có tinh thần sống trong thực tế mọi nốt nhạc được viết kể từ khi ông qua đời. Với kỹ năng đối nghịch tối cao, Bach điêu khắc âm nhạc hoàn hảo và sự cân bằng, ban cho nó với một sức mạnh cảm xúc đã lặp lại trong nhiều thế kỷ. Từ vẻ đẹp đau đớn của các bộ cello và tham vọng hoang mang của bàn phíJS Bach, whose spirit dwells in practically every note written since his death. With supreme contrapuntal skill, Bach sculpts music of perfect form and balance, bestowing it with an emotional power that has echoed through the centuries. From the aching beauty of the cello suites and the bewildering ambition of the keyboard works to the dramatic force of the cantatas, no one has, and could possibly, come close to Bach's genius

  • Bach cho người mới bắt đầu: Các bản ghi âm để giúp bạn khám phá Bach
  • Tại sao Bach đi tù?

Steve Reich nói:

Bach đối với tôi là nhà soạn nhạc vĩ đại nhất từng sống, thiên tài đã tạo ra quan điểm đẹp nhất mà tôi từng nghe, cộng với các biến thể cơ bản của các biến thể Goldberg nơi tôi bị rơi nước mắt. Lần đầu tiên tôi nghe bản concerto Brandenburg thứ năm của Bach, khi còn là một thiếu niên vào năm 1950, ngay sau lần đầu tiên nghe Stravinsky, The Rite of Spring. Hai mảnh đặt tôi lên đường. Khi còn là một sinh viên, cùng với những người khác, các hợp xướng bốn phần của Bach, rất cần thiết cho nghiên cứu về sự hòa hợp của tôi. to me is the greatest composer who ever lived, the genius who created the most beautiful counterpoint I have ever heard, plus the basic aria of the Goldberg Variations where I am reduced to tears. I first heard Bach’s Fifth Brandenburg Concerto as a teenager in 1950, shortly after first hearing Stravinsky’s The Rite of Spring. The two pieces set me on my way. As a student, along with everyone else, Bach’s four-part chorales were essential to my study of harmony.

Rất nhiều sau đó, tôi đã nghiên cứu Cantata số 4 của anh ấy trong khi sáng tác Tehillim. Bạn có thể nghe thấy sự mắc nợ của tôi với chuyển động thứ hai của Bach, khi lắng nghe lần thứ ba của tôi. Cả hai đều có cấu trúc gọi và trả lời cũng như nhân đôi tiếng nói khác nhau để làm rõ cuộc gọi từ phản hồi. Gần đây đối với tôi, Brandenburg thứ năm là người mẫu cho bản concerto Grosso, nơi một số nhạc cụ là nghệ sĩ độc tấu - nó đã thúc đẩy âm nhạc của tôi cho bản hòa tấu và dàn nhạc nơi có 22 nghệ sĩ độc tấu, tất cả các thành viên thường xuyên của dàn nhạc.Bach’s second movement when listening to my third. They both have call-and-response structure as well as different instrumental doubling of the voices to clarify the call from the response. More recently for me, the Fifth Brandenburg served as a model for the Concerto grosso, where several instruments are soloists – it prompted my Music for Ensemble and Orchestra where there are 22 soloists, all regular members of the orchestra.

Erkki-sven Tüür nói:

Nó có thể được coi là gần như là một kẻ sáo rỗng giữa những người yêu thích âm nhạc để coi Bach là vua âm nhạc, nhưng đối với tôi, đó là một lựa chọn rõ ràng. Điều gây ấn tượng nhất với tôi trong công việc của Bach, là âm nhạc của anh ấy được cấu trúc hoàn toàn về độ chính xác toán học. Vẻ đẹp của kiến ​​trúc bên trong của nó cho thấy một loại trật tự vũ trụ, một liên lạc của thần thánh.Bach a king of music, but for me it was an obvious choice. What strikes me most in Bach’s work is how thoroughly his music is structured in terms of mathematic precision. The beauty of its inner architecture reveals a kind of cosmologic order, a touch of the divine.

Tôi ngạc nhiên bởi sức mạnh tổng hợp không thể tin được của điểm đối nghịch và hài hòa và cách mà ngang và dọc được liên kết thành một tổng thể mạch lạc. Mặt khác, không có bất kỳ kiến ​​thức cụ thể nào về các khía cạnh kỹ thuật này, kết quả âm thanh thuần túy của âm nhạc của anh ấy chạm đến người nghe theo cách bí ẩn nhất.

Unsuk Chin nói:

Âm nhạc của Bach, thể hiện những cảm xúc tuyệt vời và tính khí bốc lửa, trong khi là đỉnh sáng tác có thể tưởng tượng cao nhất như một nghệ thuật trí tuệ. Đó là một sự tổng hợp của âm nhạc trong quá khứ và những sáng tạo của thời đại của anh ấy cũng như một tầm nhìn táo bạo về tương lai. Lên đến Bach, các tác phẩm âm nhạc đã biến mất sau khi ra mắt hoặc, ít nhất, sau khi một nhà soạn nhạc chết. music displays great emotions and fiery temperament, while being the highest conceivable summit of composition as an intellectual art. It is a synthesis of past music and the creations of his own time as well as a bold vision of the future. Up to Bach, musical works disappeared after a premiere or, at least, after a composer’s death.

Bach đã quá lớn để bị bỏ qua. Những bộ óc âm nhạc tuyệt vời đa dạng như Beethoven, Chopin, Masters of Jazz, Boulez - và vô số người khác - là không thể tưởng tượng được nếu không có di sản Bach. Nhà soạn nhạc tiên phong Mauricio Kagel nổi tiếng nói rằng ‘không phải tất cả các nhạc sĩ đều tin vào Chúa, nhưng tất cả họ đều tin vào Johann Sebastian Bach đấm. was too grand to be ignored. Great musical minds as diverse as Beethoven, Chopin, the masters of jazz, Boulez – and countless others – are unthinkable without Bach’s legacy. The avant-garde composer Mauricio Kagel famously quipped that ‘not all musicians believe in God, but they all believe in Johann Sebastian Bach’.

  • 5 tác phẩm thiết yếu của JS Bach
  • Những bản thu âm hay nhất của JS Bach's The Welled Clavier

Đọc đánh giá của chúng tôi về các đánh giá mới nhất của JS Bach tại đây

Ai được coi là nhà soạn nhạc cổ điển vĩ đại nhất?

Một nhà soạn nhạc người Áo thời kỳ cổ điển, Wolfgang Amadeus Mozart được công nhận rộng rãi là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất của âm nhạc phương Tây. Ông là nhà soạn nhạc duy nhất để viết và xuất sắc trong tất cả các thể loại âm nhạc của thời đại.Wolfgang Amadeus Mozart is widely recognized as one of the greatest composers of Western music. He is the only composer to write and excel in all of the musical genres of his time.

Ai là nhà soạn nhạc cổ điển khó nhất để chơi?

Đây là những bản nhạc khó nhất để chơi..
Kaikhosru Shapurji Sorabji - Opus clavicembalisticum. ....
Alexander Scriabin - Mysterium. ....
Franz Liszt - La Campanella. ....
Giovanni Bottesini - Bản concerto bass đôi số ....
J.S. Bach - Chaconne trong D. ....
Luciano Berio - Sequenzas. ....
Conlon Nancarrow - Nghiên cứu cho người chơi piano ..

Âm nhạc cổ điển đẹp nhất từng được viết là gì?

Chắc chắn là những tác phẩm lãng mạn nhất của âm nhạc cổ điển từ trước đến nay .....
Puccini - O Mio Babbino Caro.....
Rachmaninov - Bản hòa tấu piano số ....
Elgar - Salut d'Amour.....
Puccini - O Soave Fanciulla, từ La Bohème.....
Rota - Chủ đề tình yêu, từ Romeo và Juliet.....
Mascagni - Intermezzo, từ Cavalleria Rusticana ..

Ai là nhà soạn nhạc lớn là ai?

Một lịch sử ngắn gọn của bốn nhà soạn nhạc cổ điển vĩ đại..
Johann Sebastian Bach (1685-1750) không có nghi ngờ gì bạn đã nghe nói về Bach nhiều lần trong cuộc sống của bạn, và vì lý do chính đáng.....
Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791) ....
Ludwig van Beethoven (1770-1827) ....
Frederic Chopin (1810-1849).