Vay vốn giải quyết việc làm Ngân hàng Chính sách

Theo Nghị định số 74/2019/NĐ-CP, đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, mức vay tối đa là 2 tỷ đồng/dự án và không quá 100 triệu đồng cho 1 người lao động được tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm. Nghị định có hiệu lực từ ngày 8/11/2019.  

Nâng mức vay tối đa lên gấp đôi

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 74/2019/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 61/2015/NĐ-CP quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và quỹ quốc gia về việc làm theo hướng nâng mức vay ưu đãi từ quỹ quốc gia về việc làm đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh và người lao động.

Nội dung Nghị định nêu rõ, đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh, mức vay tối đa là 2 tỷ đồng/dự án và không quá 100 triệu đồng cho 1 người lao động được tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm. Đối với người lao động, mức vay tối đa là 100 triệu đồng. Thời hạn vay vốn cũng được tăng từ không quá 60 tháng lên tối đa 120 tháng.

Trước đó, Nghị định số 61/2015/NĐ-CP quy định mức vay 1 dự án tối đa là 1 tỷ đồng và không quá 50 triệu đồng cho 1 người lao động được tạo việc làm. Đối với người lao động, mức vay tối đa là 50 triệu đồng.

Về điều kiện bảo đảm tiền vay, Nghị định 74/2019/NĐ-CP quy định đối với mức vay từ 100 triệu đồng trở lên, cơ sở sản xuất, kinh doanh phải có tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm.

Về lãi suất vay vốn đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh và người lao động, Nghị định 74/2019/NĐ-CP sửa đổi theo hướng tăng từ bằng lãi suất cho vay đối với hộ nghèo lên bằng lãi suất cho vay đối với hộ cận nghèo.

Ngoài ra, Nghị định số 74/2019/NĐ-CP cũng sửa đổi một số nội dung khác liên quan đến điều kiện bảo đảm tiền vay đối với người lao động vay vốn ưu đãi để đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; huy động nguồn vốn để cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm, hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng...

885 nghìn lao động đã được hỗ trợ tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm

Theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách xã hội, đến ngày 31/5/2019, tổng nguồn vốn cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm đạt 16.999 tỷ đồng, trong đó: nguồn vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm là 4.511 tỷ đồng, nguồn vốn do Ngân hàng Chính sách xã hội huy động là 4.010 tỷ đồng, nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội là 8.478 tỷ đồng. Doanh số cho vay giải quyết việc làm giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 5/2019 đạt 24.459 tỷ đồng, với gần 800 nghìn lượt khách hàng được vay vốn, góp phần hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm cho 885 nghìn lao động; doanh số thu nợ cho vay giải quyết việc làm đạt 13.857 tỷ đồng. Dư nợ cho vay giải quyết việc làm đến ngày 31/5/2019 là 16.860 tỷ đồng, với hơn 523 nghìn khách hàng đang còn dư nợ, mức cho vay bình quân đạt 32 triệu đồng/lao động. Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khoanh giảm đều qua các năm. Đến ngày 31/5/2019, nợ quá hạn là 49,1 tỷ đồng, giảm 12 tỷ đồng so với đầu năm 2015, chiếm tỷ lệ 0,29% trên tổng dư nợ của chương trình. Nợ khoanh là 27,9 tỷ đồng, giảm 6 tỷ đồng so với đầu năm 2015, chiếm tỷ lệ 0,17% trên tổng dư nợ của chương trình.

Thông qua Quỹ quốc gia về việc làm đã hỗ trợ nhiều đối tượng lao động yếu thế như lao động là người khuyết tật, lao động là người dân tộc thiểu số, lao động ở khu vực nông thôn có cơ hội tiếp cận các nguồn tín dụng ưu đãi để mở rộng, phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần tạo và tự tạo việc làm cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Từ năm 2015 đến ngày 31/5/2019, thông qua Quỹ quốc gia về việc làm, nguồn vốn do Ngân hàng Chính sách xã hội huy động và nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội đã tạo việc làm cho 552 nghìn lao động nữ, 40 nghìn lao động là người khuyết tật và 77 nghìn lao động là người dân tộc thiểu số.

Nhiều mô hình cho vay hiệu quả từ Quỹ quốc gia về việc làm như mô hình khôi phục làng nghề truyền thống như làng nghề bó chổi thôn Mỹ Thành, xã Hòa Thắng, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên; mô hình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư như mô hình kinh tế nông trại câu lạc bộ Nông trang xã Dực Yên, huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh; mô hình tổ tiết kiệm & vay vốn của Hội phụ nữ Đông Thịnh, phường Đồng Tâm, TP. Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc; tổ tiết kiệm & vay vốn khối 9 phường Đông Kinh, TP. Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn;…đã góp phần hỗ trợ tạo việc làm cho hàng nghìn lao động, tạo thu nhập và nâng cao đời sống cho người lao động và gia đình họ…

Từ nhiều năm nay, câu chuyện về tình trạng thiếu nguồn vốn cho vay theo Chương trình GQVL đã được đề cập tại nhiều hội nghị giao ban của Ban đại diện Hội đồng quản trị NHCSXH từ tỉnh đến cấp huyện, cũng như tại các buổi giao ban định kỳ hằng tháng của NHCSXH các huyện, thành, thị với các tổ chức hội, đoàn thể và tổ tiết kiệm - vay vốn. Thực trạng cung không đủ cầu đã khiến hàng chục nghìn lao động có nhu cầu vay vốn nhưng không được đáp ứng, gây khó khăn trong công tác GQVL, phát triển kinh tế của nhiều hộ dân, nhất là với những hộ không đủ điều kiện vay vốn tại ngân hàng thương mại.

Theo thống kê của NHCSXH tỉnh, tính riêng năm 2022, nhu cầu vốn vay GQVL của toàn tỉnh là 535 tỷ đồng, cao hơn 200 tỷ đồng so với năm 2021. Trong đó, huyện Phú Bình có nhu cầu cao nhất, với gần 130 tỷ đồng, tiếp đó là T.X Phổ Yên với 105 tỷ đồng. Các địa phương còn lại từ 30-60 tỷ đồng.

Ông Lê Văn Hồng, Phó Giám đốc NHCSXH tỉnh chia sẻ: Khi ngày càng có nhiều xã về đích nông thôn mới và tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn toàn tỉnh dần giảm thì ngược lại, nhu cầu vay vốn GQVL của người dân có chiều hướng tăng. Nguyên nhân là do nhiều hộ không còn được tiếp cận với nguồn vốn của các chương trình khác, như hộ nghèo, cận nghèo, sản xuất - kinh doanh vùng khó khăn… Song, có một thực tế là nguồn vốn của Trung ương cấp về cho NHCSXH tỉnh nhiều năm qua chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế, hiện chỉ đạt khoảng hơn 10%. Đến nay, tổng nguồn vốn cho vay của Chương trình này mới đạt trên 380 tỷ đồng, chiếm 10% tổng nguồn vốn của Chi nhánh.

Nhờ được vay vốn theo Chương trình giải quyết việc làm, gia đình bà Dương Thị Hương, ở xóm Nam 1, xã Úc Kỳ [Phú Bình] đã nâng cao hiệu quả sản xuất, tiêu thụ tương nếp, từ đó tăng thu nhập. Ảnh: T.H 

Được biết, trong nguồn vốn cấu thành của NHCSXH tỉnh theo quy định có một phần từ nguồn ngân sách địa phương. Tuy nhiên, hiện nguồn vốn này còn rất khiêm tốn [166/3.773 tỷ đồng]. Trong đó có hơn 9 tỷ đồng được huy động từ các đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Khoảng 3-4 năm gần đây, trung bình mỗi năm, cả ngân sách tỉnh và các địa phương mới dành được trên dưới 20 tỷ đồng để ủy thác cho NHCSXH thực hiện việc cho vay. Có thể nói, đây là con số rất khiêm tốn so với mặt bằng chung toàn quốc. Tính trung bình cả nước, vốn ủy thác của ngân sách địa phương cho NHCSXH đang chiếm trên 10% trên tổng nguồn vốn. Đối với tỉnh Thái Nguyên, con số này mới đạt 3,8% [đứng thứ 39/63 tỉnh, thành].

Bà Nguyễn Thị Hường, Phó Giám đốc NHCSXH huyện Phú Bình cho biết: Là địa phương có nhiều diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi để phục vụ các dự án nên nhiều hộ gia đình rất cần vốn để chuyển đổi nghề nghiệp. Trong khi đó, vốn là huyện thuần nông, phần lớn hộ dân lâu nay vẫn dựa vào sản xuất nông nghiệp nên đối với những người không thể đi làm tại các công ty, họ vẫn có mong muốn được vay vốn phát triển nông nghiệp trên diện tích đất còn lại của gia đình hoặc chuyển sang làm một công việc khác để duy trì kế sinh nhai. Cùng với đó, ngày càng có nhiều làng nghề phát triển nên nhu cầu vốn cũng tăng cao. Tuy nhiên, khả năng đáp ứng của nguồn vốn lại rất hạn chế. Chính vì thế, từ nhiều năm nay, chưa năm nào chỉ tiêu kế hoạch về nguồn vốn này được hoàn thành, mặc dù đơn vị chỉ xây dựng là 20 tỷ đồng, thấp hơn nhiều so với nhu cầu thực tế và năm cao nhất nguồn vốn được cấp [năm 2021] cũng chỉ là 7 tỷ đồng.

Còn theo ông Trần Nhật Linh, Phó Giám đốc NHCSXH huyện Đồng Hỷ: Lãi suất cho vay của Chương trình GQVL hiện là 7,92%, bằng Chương trình cho vay hộ cận nghèo. Tuy so với lãi suất cho vay ngắn hạn của một số ngân hàng thương mại không hẳn đã thấp nhưng do thời gian vay của Chương trình tối đa lên tới 120 tháng, lại ổn định trong suốt quá trình vay và không phải thế chấp tài sản nên nhiều người mong muốn được tiếp cận. Do tình trạng nguồn vốn nhiều năm qua chưa đủ đáp ứng được nhu cầu khiến việc triển khai cho vay của các tổ tiết kiệm - vay vốn cũng như NHCSXH gặp phải một số khó khăn nhất định. Nhiều người đã có thắc mắc, ý kiến tại sao họ có đủ điều kiện lại không được vay; kể cả những hộ được vay thì mức vay trung bình hiện cũng mới đạt 49 triệu đồng/lao động [tối đa là 100 triệu đồng], khiến nhiều người khó đầu tư cho “ra tấm ra món”…

Bà Dương Thị Hương, xóm Nam 1, xã Úc Kỳ [Phú Bình] bộc bạch: Tôi có nguyện vọng vay vốn GQVL từ nhiều năm trước nhưng phải đến tháng 2-2021 mới được vay 50 triệu đồng. Nguồn vốn này đã giúp tôi có điều kiện nhập nguyên liệu để chuẩn bị sẵn nguồn hàng phục vụ khách trong những tháng mùa Đông. Nhờ đó, trong năm qua, sản lượng tương mà gia đình bán ra trung bình đạt 3.300 lít/tháng, tăng 20% so với trước. Tuy vậy, tôi vẫn mong muốn được vay nguồn vốn này nhiều hơn, tốt nhất là đạt ở mức tối đa 100 triệu đồng…

Tính đến ngày 15/2/2022, tổng dư nợ cho vay của NHCSXH tỉnh là 3.772 tỷ đồng, với trên 105 nghìn khách hàng. Trong đó, nợ quá hạn chỉ chiếm 0,06% [riêng nguồn vốn GQVL không có]. Kết quả này phần nào cho thấy nguồn vốn cho vay của NHCSXH tỉnh nói chung, vốn vay GQVL nói riêng đã và đang phát huy hiệu quả rất tích cực, đóng góp quan trọng vào chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân. Từ thực tế đó, rất cần sự quan tâm, tạo điều kiện hơn nữa của cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc tăng nguồn ngân sách cũng như vận động, động viên doanh nghiệp dành một phần vốn để ủy thác sang NHCSXH theo tinh thần chỉ đạo của Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội…

Chủ Đề