Hôn nhân có ý nghĩa như thế nào

Những cuộc hôn nhân mỹ mãn từ đầu tới cuối cũng không có cơ hội “xuất hiện” nhiều. Điều này có vẻ như đã thuộc về “những câu chuyện thần thoại” thời cha ông xa xưa của chúng ta... [Ảnh: Shutterstock]

Mặc cho những thay đổi của thời đại, hay những chuyển biến không ngừng về nhận thức của con người đối với hôn nhân, chúng ta nên biết một điều quan trọng rằng, hôn nhân không chỉ là mối quan hệ đôi lứa đơn thuần, mà đó chính là sự khởi đầu của một gia đình từ một cam kết trọn đời.

Theo thống kê, tỷ lệ ly hôn ở Anh chiếm đến 42% tổng số kết hôn. Ngoài ra, nhóm những người tái hôn có tỷ lệ ly hôn cao hơn rất nhiều. Dựa theo xu thế xã hội ngày càng “mở cửa”, con người ngày càng truy cầu “quyền” tự do, thoải mái, coi trọng cảm thụ cá nhân và lợi ích vật chất, dẫn đến cách nhìn của người ta đối với hôn nhân cũng theo đó mà thay đổi. 

Mối quan hệ vợ chồng dựa trên quan điểm “mới mẻ” “hợp thì đến, không hợp thì đi” được xã hội chấp nhận một cách phổ biến, khiến cho nhận thức về hôn nhân của thế hệ trẻ trở nên méo mó và hời hợt.

Ông cha ta có câu: Thay quần, đổi áo thì xinh
                       Thay chồng đổi vợ, kẻ khinh người cười”

Trong xã hội quá khứ, chiểu theo quan niệm luân lý, đạo đức, người xưa rất đề cao mối quan hệ hôn nhân gia đình. Nhiều người cho rằng do đa số phụ nữ xưa đều thiếu khả năng độc lập về tài chính, nên dẫu họ có cảm thấy bất mãn với chồng thì cũng chỉ lặng lẽ chịu đựng. 

Thực ra, tư tưởng chủ đạo trong quan hệ vợ chồng chính là ‘nam chủ ngoại, nữ chủ nội’, ngụ ý rằng chồng là người gánh vác, lo toan công việc bên ngoài, nuôi dưỡng gia đình, vợ là người đảm nhiệm công việc chăm sóc gia đình, cùng chồng phụng dưỡng cha mẹ, nuôi dạy con cái.

Từ mối quan hệ vợ chồng mới sinh ra hàng loạt các mối quan hệ khác như cha con, anh em, họ hàng thân tộc… Do đó, mối quan hệ hôn nhân được xem là vô cùng trọng yếu. 

Tư tưởng chủ đạo trong quan hệ vợ chồng chính là chồng là người gánh vác, lo toan công việc bên ngoài, nuôi dưỡng gia đình, vợ là người đảm nhiệm công việc chăm sóc gia đình, cùng chồng phụng dưỡng cha mẹ, nuôi dạy con cái. [Ảnh: Shutterstock]

Vì đâu tỉ lệ ly hôn ngày càng gia tăng? 

Ngày nay, địa vị của nữ giới ngày càng được nâng cao, trong các ngành nghề đều xuất hiện không ít những người phụ nữ xuất sắc. Tỷ lệ phụ nữ phải sống dựa vào kinh tế của chồng sau khi kết hôn cũng liên tục giảm xuống. Ngoài ra, nữ giới “hiện đại” cũng không nguyện ý nhẫn nhịn, họ đòi hỏi “nữ quyền”, bình đẳng, thậm chí mong muốn mạnh mẽ như nam giới.

Những cuộc hôn nhân mỹ mãn từ đầu tới cuối cũng không có cơ hội “xuất hiện” nhiều. Điều này có vẻ như đã thuộc về “những câu chuyện thần thoại” thời cha ông xa xưa của chúng ta. Đại đa số những người trải qua cuộc sống hôn nhân thời hiện đại sẽ cảm thấy có chút thất vọng, thậm chí có cảm giác bất lực.

Vậy nguyên nhân của vấn đề này là gì? Có phải rằng đời sống vợ chồng không thể tránh khỏi những điều hối tiếc, hay cơ bản là do người phụ nữ không biết cách đối đãi với mối quan hệ hôn nhân của mình? 

Thật ra, mối quan hệ vợ chồng rất gần gũi và quan trọng, không ai có thể phủ nhận vai trò của người vợ trong cuộc đời người đàn ông. Vợ chồng chung sống suốt đời, xây dựng gia đình, giáo dục con cái, cùng nhau đối mặt với những thách thức của cuộc sống, cùng thưởng thức niềm vui, chia sẻ nỗi buồn, phát triển tương lai… Quá trình đó thật sự lưu lại rất nhiều ý nghĩa sâu sắc. 

Mặt khác, vợ chồng tiếp xúc với nhau hàng ngày, từ đó không ngừng thúc đẩy cả hai cùng “trưởng thành” về mặt tinh thần và nhận thức. Đáng tiếc là đa số các cặp vợ chồng đều bỏ lỡ cơ hội quý báu này, thậm chí là từ yêu hóa thành hận thù, cuối cùng đường ai nấy đi. 

Nhiều cặp vợ chồng bỏ lỡ cơ hội được "trưởng thành" về mặt tinh thần và nhận thức, biến từ yêu hóa thành hận thù, cuối cùng đường ai nấy đi. [Ảnh: Shutterstock]

Người bạn đời có thể là “chiếc gương” giúp ta hiểu rõ bản thân

Một khía cạnh rất tích cực trong đời sống hôn nhân, chính là qua việc hàng ngày chung sống, người bạn đời có thể trở thành “chiếc gương” giúp chúng ta hiểu rõ bản thân mình hơn. 

Một ví dụ như sau: người vợ rất dụng tâm nấu một bữa cơm ngon, háo hức chờ đợi chồng đi làm về và cùng thưởng thức, cũng hy vọng nghe được những lời tán dương của chồng, nhưng rốt cuộc lại nhận được tin chồng phải tăng ca nên về muộn. Sau khi trải qua quãng thời gian nóng lòng chờ đợi, cuối cùng người chồng cũng về. Nhưng anh lại nói mình không muốn ăn nữa vì đã quá mệt, rồi cứ thế đi về phòng và lăn ra ngủ li bì. Người vợ cảm thấy tức giận đem hết đồ ăn bỏ đi. Sáng hôm sau, người chồng lại yêu cầu vợ mình chuẩn bị bữa sáng. Lúc này, người vợ không chịu được nữa, nổi trận lôi đình với chồng, hai người lập tức cãi nhau. 

Kỳ thực, nếu cả hai biết tận dụng cơ hội này để hoàn thiện bản thân, thì từ đó có thể rút ra được không ít bài học quý giá. 

Có lẽ người vợ đã không tự hỏi mình rằng điều gì khiến cô tức giận như thế: vì bỏ nhiều công sức, vì mỏi mòn chờ đợi, vì người chồng phải tăng ca, vì khi anh về nhà thì lại không chịu ăn, vì những thất vọng của cô khi mong chờ hưởng niềm vui cùng chồng thưởng thức bữa ăn ngon, hay là vì cô luôn trông đợi nhận được lời tán dương và lòng biết ơn từ chồng?

Nếu có thể tự trả lời những câu hỏi trên, người vợ sẽ tìm ra gốc rễ của vấn đề và sáng tỏ được điều gì khiến cô phiền lòng. Sự thật là, khi một vấn đề phát sinh trong cuộc sống hôn nhân, chúng ta không nên truy tìm nguyên nhân ở đối phương, mà trước tiên ta nên nhìn nhận lại chính mình. Và nếu người vợ có thể nhận ra rằng tính độc lập và năng lực tự chủ của cô sẽ giảm đi nếu cô mong muốn đặt niềm vui của mình vào biểu hiện của người khác, thì cô sẽ không cảm thấy tức giận, và cả hai sẽ không phải cãi nhau.

Bên cạnh đó, người chồng cũng không nên cho rằng mình “vô can”, hoặc phán xét vợ về tính cố chấp. Anh có thể qua đó mà xem xét lại bản thân, tự hỏi xem liệu mình có bình tĩnh khi đối diện với cảm xúc không ổn định của vợ không, liệu mình đã tìm hiểu rõ lý do vì sao cô ấy lại phản ứng mạnh mẽ như vậy? 

Để đời sống vợ chồng được hài hòa và bền vững, cả hai nhất định phải duy trì quan điểm “biết xét lại mình và biết nghĩ cho người khác”, như thế mới có thể mang đến những ảnh hưởng tích cực cho cảm xúc đôi bên. [Ảnh: Shutterstock]

Nếu anh có thể bày tỏ sự thấu hiểu và quan tâm, hay thể hiện một lời cảm ơn chân thành, thì người vợ chắc sẽ vui lòng hơn để nhìn nhận lại vấn đề, và mọi chuyện có thể được giải quyết trong êm đẹp. 

Do đó, để đời sống vợ chồng được hài hòa và bền vững, cả hai nhất định phải duy trì quan điểm “biết xét lại mình và biết nghĩ cho người khác”, như thế mới có thể mang đến những ảnh hưởng tích cực cho cảm xúc đôi bên.

Tiến sĩ Triết học Barnett R. Brickner đã nói: “Thành công trong hôn nhân không chỉ đến từ việc tìm kiếm người bạn đời phù hợp, mà thông qua việc trở thành người bạn đời phù hợp”.

Hôn nhân là một sự ràng buộc thiêng liêng nhất, cho chúng ta một người bạn đời, một người kề vai sát cánh để cùng nhau vượt qua những thử thách của cuộc sống. Sự ràng buộc trong hôn nhân không phải là ngục tù của mỗi người, mà đó là sự hỗ trợ để chúng ta đánh bại những cám dỗ, cũng như để hoàn thiện chính mình, bằng cách để cao những giá trị của hôn nhân như là: sự thủy chung, đồng cảm, thấu hiểu, vị tha và khiêm nhường.  

Vốn dĩ không phải ai sinh ra cũng đã hợp với người khác, có những cuộc hôn nhân là mối “thiện duyên” êm đềm, hạnh phúc, cũng có những cái như thể là “ác duyên” giữa vợ và chồng. Dù sao đi nữa, đừng vì một chút bất mãn mà từ bỏ “cam kết trọn đời” này. 

Nếu một chút yêu thương là không đủ, thì hãy cố gắng cho đi nhiều hơn nữa để bao dung cho cuộc hôn nhân này, bởi bằng cách đó bạn sẽ không bao giờ “thua cuộc”, và những gì dành được còn hơn cả hạnh phúc hôn nhân, mà là một mái ấm gia đình thật sự cho chính mình, cho con trẻ, và cho cả người bạn đời thân thương. 

Ngọc Trân [biên dịch]
Theo secretchina.com

Xem thêm:

Bạn bình luận gì về tin này?

Chuyên mục: Đời sống Phong cách sống

Dưới sự tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa gia đình hạt nhân [hai thế hệ] đang dần thay thế cấu trúc gia đình truyền thống [nhiều thế hệ]. Để bắt kịp với những sự thay đổi đó, Luật Hôn nhân và gia đình cũng luôn phát triển và ngày một hoàn thiện hơn.

Luật Hôn nhân và gia đình 2014 luôn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật cũng như trong đời sống thực tiễn.

Cơ sở pháp lý:

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568

1. Luật Hôn nhân và gia đình là gì?

Hôn nhân là một hiện tượng xã hội, là sự liên kết giữa đàn ông và phụ nữ và được pháp luật thừa nhận để xây dựng gia đình. Hôn nhân được hình thành trên cơ sở kết hôn, được biểu hiện dưới quan hệ vợ chồng.

Hôn nhân theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người phụ nữ trên nguyên tắc bình đẳng và tự nguyện, nhằm cùng chung sống và xây dựng gia đình.

Còn gia đình là sự liên kết của nhiều người với những quan hệ với nhau đó chính là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Những người trong gia đình cùng quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ nhau về tinh thần, về vật chất; mỗi người có các quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản.

Với vai trò là một ngành luật, thì Luật Hôn nhân và gia đình bao gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình. Từ đó, có thể hiểu Luật Hôn nhân và gia đình chứa đựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ về hôn nhân, quan hệ về gia đình như quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, quan hệ giữa anh, chị, em với nhau,…

Luật Hôn nhân và gia đình trong tiếng Anh là “Law on marriage and family”

Xem thêm: Tổng đài tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình trực tuyến miễn phí

2. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hôn nhân và gia đình:

Đối tượng điều chỉnh của ngành luật là các quan hệ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Bao gồm

– Quan hệ nhân thân là những quan hệ phát sinh giữa các thành viên trong gia đình như quan hệ giữa vợ chồng về sự yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, giữa cha mẹ và các con, giữa các thành viên trong gia đình,…

– Quan hệ tài sản là những quan hệ phát sinh giữa các thành viên trong gia đình về lợi ích tài sản, như quan hệ cấp dưỡng, nuôi dưỡng,…

3. Nội dung cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình:

3.1 Kết hôn và hủy kết hôn trái pháp luật:

Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn

Luật Hôn nhân quy định về điều kiện đăng ký kết hôn gồm điều kiện về tuổi kết hôn; phải có sự tự nguyện của hai bên nam nữ khi kết hôn; và việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn. Việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Trong Luật Hôn nhân và gia đình quy định về những trường hợp hủy trái kết hôn trái pháp luật , người có quyền yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật, hậu quả pháp lý của việc kết hôn trái pháp luật.

3.2 Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng:

Nghĩa vụ, quyền của vợ chồng được pháp luật về hôn nhân và gia đình quy định xuất phát từ những quyền cơ bản của công dân. Bên những quyền cơ bạn, vợ chồng còn có các quyền và nghĩa vụ với nhau, với gia đình và xã hội. Nội dung của nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa vợ và chồng là những lợi ích tinh thần, tình cảm, bao gồm cả tìm yêu, sự hòa thuận, tôn trọng lẫn nha, quan hệ với cha mẹ, các con và với những thành viên trong gia đình;… Bên cạnh các quyền, nghĩa vụ về nhân thân còn có các quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ và chồng. Bao gồm các quyền về sở hữu tài sản, quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng, quyền thừa kế tài sản;… Những quy định của Luật hôn nhân và gia đình về nội dung này luôn kết hợp cùng với các quy tắc đạo đức, lẽ sống trong xã hội.

Luật Hôn nhân và gia đình quy định về chế độ tài sản của vợ chồng, như về tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ chồng; chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng…Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận có hiệu lực kể từ ngày đăng ký kết hôn. Nội dung của chế độ tài sản theo thỏa thuận do vợ chồng quyết định, nhưng thỏa thuận cần có những nội dung cơ bản sau: tài sản được xác định là tài sản chung,

Xem thêm: Tư vấn, hướng dẫn các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình

3.3 Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ và con chưa thành niên:

Luật Hôn nhân và gia đình quy định về việc xác định cha, mẹ cho con trong giá thú; cha, mẹ cho con ngoài giá thú; xác định con; quyền nhận cha, mẹ; quyền nhận con; xác định cha, mẹ, con trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Luật cũng quy định về quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ và con chưa thành niên như các nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con;… nghĩa vụ và quyền giáo dục con;… Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con từ khi sinh ra đến khi con đủ 18 tuổi. Bên cạnh đó, pháp Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định về các trường hợp và hậu quả pháp lý của việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên. Còn đối với con cái có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha, mẹ. Quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng luôn mang tính nhân thân, không thay đổi. Bên cạnh nghĩa vụ nuôi dưỡng còn có nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ với con. Nghĩa vụ cấp dưỡng cung không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác.

3.4 Chấm dứt hôn nhân:

Luật Hôn nhân và gia đình đã đề cập đến các trường hợp chấm dứt hôn nhân bao gồm: chấm dứt hôn nhân do một bên vợ, chồng chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố vợ, chồng đã chết và trường hợp ly hôn.

Về chấm dứt hôn nhân do một bên vợ, chồng chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố vợ, chồng đã chết , luật quy định về thời điểm chấm dứt hôn nhân, giải quyết tài sản của vợ chồng; quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố đã chết mà trở về.

Về chấm dứt hôn nhân do ly hôn. Thì ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do theo bản án, quyết định của Tòa án. Luật quy định về quyền yêu cầu giải quyết lý hôn, về trường hợp thuận tình ly hôn; ly hôn theo yêu cầu của một bên. Giải quyết ly hôn khi vợ, chồng có yêu cầu theo hướng nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được;

Bên cạnh đó luật cũng quy định về quyền, nghĩa vụ chăm sóc con sau khi ly hôn; chia tài sản khi ly hôn; …

3.5 Cấp dưỡng:

Theo Khoản 1 Điều 107 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này.

Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.

Xem thêm: Quyền nhân thân giữa vợ và chồng theo Luật hôn nhân và gia đình

Luật Hôn nhân và gia đình quy định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cấp dưỡng trong từng mỗi quan hệ cũng như mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng; chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng;…

3.6 Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài:

Luật Hôn nhân và gia đình xác nhận được pháp luật áp dụng cũng như các điều kiện, cơ quan có thẩm quyền; các thủ tục áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài như kết hôn có yếu tố nươc ngoài, ly hôn có yếu tố nước ngoài; xác định cha, mẹ con có yếu tố nước ngoài,…

Quy định cụ thể, về hợp pháp hoá lãnh sự giấy tờ, tài liệu về hôn nhân và gia đình, theo đó, giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận để sử dụng giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình thì phải được hợp pháp hoá lãnh sự, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà CHXHCNVN là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại; Quy định cụ thể việc công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài có yêu cầu thi hành tại Việt Nam được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; …

4. Vai trò của Luật Hôn nhân và gia đình:

Luật Hôn nhân và gia đình điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân gia đình

Luật Hôn nhân và gia đình góp phần quan trọng vào việc đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội; giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam; phát triển nguồn nhân lực, ổn định và phát triển kinh tế – xã hội của cả nước

Luật Hôn nhân và gia đình cũng góp phần xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; bảo vệ tốt hơn các quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là quyền của phụ nữ, trẻ em trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình;

Luật Hôn nhân và gia đình làm tăng cường và phát huy ý thức trách nhiệm, thái độ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; kế thừa, phát huy các truyền thống đạo đức, văn hóa tốt đẹp của gia đình và dân tộc;

Luật Hôn nhân và gia đình xây dựng và bảo vệ tốt nhất quyền, nghĩa vụ của mỗi thành viên trong gia đình

Xem thêm: Tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình miễn phí tại TPHCM

Luật Hôn nhân và gia đình giúp bảo đảm sự ổn định của các quan hệ hôn nhân và gia đình, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các thành viên gia đình, đồng thời bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác trong xã hội;

Luật hôn nhân và gia đình đã ghi nhận và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

Video liên quan

Chủ Đề