Hạn chế tự do hóa lãi suất việt nam năm 2024
Các nhà hoạch định chính sách nên cân nhắc về sự liên thông giữa các cấu thành trên thị trường tiền tệ hiện nay còn hạn chế, cạnh tranh giữa các NHTM vẫn chủ yếu là giá cả, các yếu tố trên thị trường chưa thực sự vận hành theo cơ chế thị trường… Sau khi chuyển đổi nền kinh tế, Việt Nam đã theo đuổi mục tiêu tự do hóa lãi suất với những bước đi thận trọng. Quá trình đó được thực hiện từ năm 1990-2002 với 4 bước chuyển đổi cơ bản. Bước đầu tiên được thực hiện trong thời gian từ 1990-1995 với một số giải pháp chính là chuyển từ lãi suất âm sang cơ chế lãi suất thực dương; áp dụng trần lãi suất cho vay, cùng với đó là lãi suất quy định từng mức cụ thể. Ba bước sau được thực hiện từ năm 1996-2002: Thực hiện trần lãi suất cho vay với những quy định mức trần lãi suất cho vay ngắn hạn, dài hạn, lãi suất thành thị và nông thôn hợp lý hơn; Thực hiện tự do hoá lãi suất tiền gửi, tiếp đến là thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản theo Luật NHNN thay cho cơ chế lãi suất trần; Cuối cùng là tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ tháng 5/2001 và tự do hoá hoàn toàn lãi suất vào tháng 6/2002 (trừ lãi suất tiền gửi ngoại tệ của DN). Song thực tế cho thấy khi tự do hoá hoàn toàn lãi suất từ tháng 6/2002, lúc đó thị trường tiền tệ vốn khả dụng luôn dư thừa nhưng lãi suất huy động ngắn hạn các kỳ hạn vẫn có xu hướng tăng. Điều đáng chú ý về diễn biến lãi suất trong giai đoạn đó là trên thị trường tiền tệ tác động của lãi suất chỉ đạo đến lãi suất trên thị trường tiền tệ còn hạn chế. Nhất là ảnh hưởng của lãi suất trên thị trường liên NH đến lãi suất huy động vốn của các NHTM còn chưa rõ ràng. Sự thay đổi lãi suất huy động và cho vay của các NHTM được quyết định chủ yếu bởi chiến lược kinh doanh, mức độ cạnh tranh giá trên thị trường hơn là dựa vào những thay đổi bởi lãi suất chỉ đạo. Trong khi lãi suất thị trường liên NH lại chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi mức độ dư thừa vốn khả dụng của các NHTM. Đó chính là một trong những lý do quan trọng, khi mà thị trường tiền tệ năm 2008 đổi chiều từ thừa sang thiếu vốn khả dụng, các NHTM đua nhau tăng lãi suất. Sự điều tiết vốn khả dụng và điều tiết lãi suất của nhà điều hành thị trường tiền tệ đã không có tác dụng đáng kể đến việc giảm tốc độ cạnh tranh lãi suất của các NHTM. Trước tình hình đó, để tránh sự đổ vỡ của hệ thống NH, đến khoảng giữa năm 2008, NHNN đã thực hiện cơ chế trần lãi suất huy động. Và cho đến nay, với một số điều kiện thuận lợi chúng ta đã có thể thu hẹp kỳ hạn áp dụng trần lãi suất huy động. Từ bài học đó cho thấy, một trong những điều kiện thành công của tự do hóa lãi suất, đó là giữa các cấu thành của thị trường tiền tệ thì dòng vốn phải được lưu thông thông suốt; thị trường phải có sự phản ứng nhanh trước sự thay đổi chính sách tiền tệ, như những thay đổi về cung tiền, lãi suất chỉ đạo của NHNN; và sâu xa hơn là các yếu tố trên thị trường phải được vận hành theo đúng cơ chế thị trường. Vậy với thực trạng thị trường tiền tệ hiện nay, có nên tự do hóa lãi suất hay không? Thực tế hiện nay đã có một số điều kiện thuận lợi cho tự do hóa lãi suất, như tăng trưởng kinh tế không quá nóng, kỳ vọng lạm pháp không cao, lãi suất trên thị trường quốc tế thấp, vốn khả dụng của các NHTM đang dồi dào, các NHTM đã có những phản ứng nhất định trước những thay đổi của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, bên cạnh những điều kiện thuận lợi đó, các nhà hoạch định chính sách nên cân nhắc về sự liên thông giữa các cấu thành trên thị trường tiền tệ hiện nay còn hạn chế, cạnh tranh giữa các NHTM vẫn chủ yếu là giá cả, các yếu tố trên thị trường chưa thực sự vận hành theo cơ chế thị trường… Để từ đó, có những quyết định đúng đắn về vấn đề tự do hóa lãi suất hiện nay.
|