Cách làm tiêu bản chuồn chuồn
Các loài Chuồn chuồn (odonata) Việt NamBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.67 KB, 15 trang ) Mô tả: Khu hệ chuồn chuồn Việt Nam được biết đến từ những năm đầu của thế kỷ 19 bởi các Chuồn chuồn là nhóm côn trùng ăn thịt, cả ở giai đoạn ấu trùng và trưởng thành. Chúng thường bay lượn để săn tìm các loài côn trùng khác nhỏ hơn, thậm chí là các loài chuồn khác. Ấu trùng chuồn chuồn của một số loài có kích thước lớn thậm chí còn săn bắt cả các loài cá nhỏ hoặc ếch nhái. Trong ảnh là một tư thế giao phối ở loài Noguchiphaea yoshikoae Asahina, 1976. Một con Acisoma panorpoides đang ăn thịt loài khác (giống Ceriagrion) Trong tổng số 17 họ Chuồn chuồn được biết ở Việt Nam hiện nay, có 11 họ chuồn chuồn kim (Zygoptera) và 6 họ chuồn chuồn ngô (Anisoptera). Một trong những họ chuồn chuồn kim có vai trò quan trọng đối với hệ sinh thái, đồng thời cũng là nhóm có màu sắc đẹp nhất là họ Chuồn chuồn cánh màu (Calopterygidae). Có 16 loài được biết hiện nay ở Việt Nam, phổ biến nhất là loài Neurobasis chinensis (Linnaeus, 1758). Con đực của loài này có đôi cánh trước có màu vàng nhạt và trong suốt, khoảng 3/4 của cánh sau màu xanh biếc, phần còn lại của cánh có màu đen sẫm. Với cơ thể hoàn toàn màu xanh, chúng có thể dễ dàng hòa lẫn vào các đám lá để trốn tránh kẻ thù. Còn con cái của loài Neurobasis chinensis (Linnaeus, 1758) có màu xanh nhạt hơn, cánh có màu cam nhạt và hai điểm cánh màu trắng ở mép trên của cánh có thể dễ dàng quan sát. Loài rất phổ biến và phân bố ở khắp các vùng núi trong cả nước. Giống như loài N. chinensis, loài Matrona basilaris Selys, 1953 có cơ thể màu xanh biếc óng ánh, với đôi cánh màu xanh đen ở nửa đầu cánh, phần gốc còn lại có màu xanh sáng. Ở Việt Nam, chúng phân bố chủ yếu ở các khu vực miền núi phía Bắc như Lạng Sơn (Lộc Bình), Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hoà Bình (Thượng Tiến, Kim Bôi), Cao Bằng (Trùng Khánh) và Phú Thọ (Xuân Sơn). Loài Vestalis gracilis (Rambur, 1842) phân bố rộng ở vùng Đông Nam Á và miền Nam Trung Quốc. Với cơ thể màu xanh biếc, chúng có thể dễ dàng ẩn nấp trong các tán lá cây rậm rạp xung quanh bờ suối và chỉ xuất hiện bay lượn ra ngoài khi có ánh sáng mặt trời chiếu vào. Cánh của chúng thường phản chiếu màu xanh biếc óng ánh. Một trong những loài có kích thước cơ thể to lớn và hiếm gặp là loài Calopteryx coomani(Fraser, 1935), với chiều dài sải cánh và cơ thể trên 100mm. Trái ngược với những loài trên, loài coomani mang một đôi cánh xanh đen to lớn và khỏe mạnh. Chúng thường sinh sống gần những con suối ở vùng núi, nơi có hệ sinh thái rừng rậm rạp và gần nguyên vẹn. Con cái Calopteryx coomani (Fraser, 1935) thì lại có màu nâu sẫm, mang một đôi đốm màu trắng trên cả hai cánh. Là loài đặc hữu của miền Bắc Việt Nam, mới chỉ tìm thấy loài này ở Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hà Tây (Tản Viên), Hà Giang (Việt Vinh) và Phú Thọ (Xuân Sơn). Mặc dù loài Vestalis miao (Wilson & Reels, 2001) khá phổ biến ở Nam Trung Quốc, nhưng ở Việt Nam mới chỉ ghi nhận được ở hai địa điểm là Khu bảo tồn Thiên nhiên Hữu Liên (Lạng Sơn) và Vườn quốc gia Xuân Sơn (Phú Thọ). Cánh của con trưởng thành vừa lột xác từ ấu trùng có màu cam đặc trưng, và trở thành trong suốt không màu khi thành thục. Phần mút đuôi của con đực có màu trắng đặc trưng cho loài. Con đực Vestalis miao (Wilson & Reels, 2001) Loài Mnais mneme Ris, 1916 là một trong những loài chuồn chuồn cánh màu đẹp nhất, mang đôi cánh rộng màu đỏ tươi, óng ánh dưới ánh sáng mặt trời. Mới chỉ ghi nhận được ở Cao Bằng, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Thừa Thiên Huế. Họ Chuồn chuồn mũi cao (Chlorocyphidae), giống như tên gọi, có đặc điểm nổi bật là phần trước mặt lồi lên tạo thành một dạng mỏ (hoặc mũi) nhô lên cao. Có 13 loài được biết đến ở Việt Nam hiện nay. Là những loài có kích thước nhỏ, cơ thể nhiều màu sắc và thường sinh sống ở các con suối sạch ở trong rừng. Phổ biến và thường gặp nhất là loài Rhinocypha fenestrella (Rambur, 1842). Phần ngực và bụng của loài này có màu đen sẫm, mặt trên của ngực có đốm tím tam giác dễ nhận biệt, hai bên có các sọc nhỏ màu vàng; cánh hẹp và trong suốt ở gốc, rộng hơn về sau và có màu xanh đen xen lẫn với các mảng màu tím óng ánh. Mặt trước của các chân có vệt màu trắng, có chức năng giúp con đực khoe mẽ trong hoạt động ve vãn và giao phối với con cái. Con cái của các loài trong họ này thường có màu sắc và ảnh dạng tương tự nhau, với phần bụng và ngực màu vàng, cùng đôi cánh trong suốt. Loài Libellago lineata (Burmeister, 1839) lại chỉ sinh sống ở những con suối nhỏ hoặc đầm nước, nơi nền đáy có nhiều bùn và mùn bã thực vật, tốc độ dòng chảy chậm. Con đực của loài Heliocypha perforata (Percheron, 1835) thường đậu gần con cái để làm nhiệm vụ bảo vệ. Thời gian gần đây, khi tiến hành điều tra về khu hệ chuồn chuồn ở miền Bắc Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã ghi nhận mới loài Rhinocypha arguta Hämäläinen & Divasiri, 1997 cho khu hệ Việt Nam từ Vườn quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình) và Xuân Sơn (Phú Thọ). Loài đặc trưng bởi mặt trên của các đốt bụng màu đỏ gạch, ngực màu đen với các sọc vàng xen kẽ. Loài Euphaea masoni Selys, 1879 thuộc họ Euphaeidae khá phổ biến ở các vùng núi, với đôi cánh chắc khỏe màu xanh đen, mặt ngoài của đôi cánh sau có một mảng màu xanh óng ánh, mép trong có màu đỏ, phân biệt với loài Euphaea guerini Rambur, 1842 có hình dạng và màu sắc cơ thể tương tự, nhưng mép trong cánh sau màu xanh. Mặc dù mới chỉ có 2 loài thuộc họ Amphipterygidae được ghi nhận ở Việt Nam, tuy nhiên, chúng đều là những loài hiếm và phân bố hẹp, trong đó Devadatta cyanopcephalaHämäläinen, Sasamoto & Karube, 2006 là loài đặc hữu của Việt Nam. Loài Devadatta ducatrix Lieftinck, 1969 loài thứ hai thuộc họ Amphipterygidae. Dù là nhóm chuồn chuồn kim, nhưng các loài trong họ Synlestidae, Lestidae,Lestoideidae và họ Megapodagrionidae thường giang cánh khi đậu ở tư thế treo mình lên các cành cây ở gần suối. Loài Orolestes selysi McLachIan, 1895 (ảnh trên).Rhinagrion hainanensis Wilson & Reels, 2001 (ảnh dưới) Các loài trong họ Coenagrionidae, Platycnemididae và Protoneuridae có kích thước rất nhỏ, phổ biến ở xung quanh các ao, hồ, đầm lầy, ruộng lúa, sông, suối Chúng đồng thời cũng là các loài thiên địch đối với một số côn trùng gây hại cho nông nghiệp. Copera marginipes Rambur, 1842 (ảnh trên) và Prodasineura autumnalis Fraser, 1922 (ảnh dưới). Trong số các họ chuồn chuồn ngô được biết ở Việt Nam, các họ có số lượng loài nhiều nhất là họ Chuồn chuồn ngô Gomphidae (24 loài) và họ Chuồn chuồn mươngLibellulidae (48 loài); các họ này bao gồm nhiều loài phổ biến có thể bắt gặp ở khắp nơi, từ ao, ruộng nước, kênh mương thậm chí là ở các vũng nước đọng sau mưa. Thứ tự các loài từ trên xuống là Acisoma panorpoides Rambur, 1842; Brachythemis contaminata(Fabricius, 1793); Neurothemis fluvia (Drury, 1773); Neurothemis tulia (Drury, 1773);Nannophyopsis clara (Needham, 1930). Với đặc điểm địa lý của mình, Việt Nam là một trong những khu vực có sự đa dạng về thành phần loài động thực vật nói chung, và đa dạng loài chuồn chuồn nói riêng. Khu hệ chuồn chuồn miền Bắc tương đồng với khu hệ Nam Trung Quốc và Bắc Lào; khu hệ miền Nam lại có thành phần loài tương tự với khu hệ bán nhiệt đới như ở các nước Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Singapore; và khu hệ miền Trung là sự giao thoa giữa hai khu hệ trên, đồng thời cũng khá phân tách với khu hệ Nam và Trung Lào bởi dãy núi Trường Sơn. Bởi vậy, ngoài sự đa dạng và phong phú về thành phần loài, khu hệ chuồn chuồn Việt Nam đồng thời cũng bao gồm rất nhiều loài đặc hữu và quý hiếm. Do đời sống của chúng phụ thuộc rất lớn vào chất lượng nguồn nước và hệ sinh thái rừng xung quanh, cho nên bất kỳ một tác động nào cũng gây biến động lớn đối với khu hệ chuồn chuồn ở vùng đó. Việc bảo vệ các hệ sinh thái rừng và nguồn nước là điều kiện tối quan trọng để bảo vệ các loài chuồn chuồn. Trong tương lai, cần có những chương trình, chính sách cùng với các chiến dịch tuyên truyền cho cộng đồng nhận thức được những giá trị về đa dạng sinh học và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên này của đất nước. Bài và ảnh: Phan Quốc Toản Thế giới hiện có khoảng 6.000 chủng loài chuồn chuồn. Thời kỳ trưởng thành kéo dài khoảng 60 ngày. Đôi mắt rất lớn, tạo độ chính xác khi săn mồi. Dựa trên các hoá thạch, các nhà nghiên cứu cho rằng chuồn chuồn đã xuất hiện cách đây khoảng 285 triệu năm. LÀM MẪU Thu thập và làm tiêu bản cá thể trưởng thành: Do chuồn chuồn là nhóm sinh vật có mầu sắc khá sặc sỡ và việc định loại đôi khi phụ thuộc vào mầu sắc của cơ thể nên việc giữ nguyên được mầu sắc tự nhiên của nhóm này là điều rất quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, bản thân công việc này lại rất khó thực hiện, bởi vì không giống các nhóm khác như bộ Cánh vảy hay Cánh cứng, mầu sắc của bộ Odonata phần lớn là mầu hoá học chứ không phải vật lý, vậy nên việc làm chết đột ngột hoặc tổn thương đến mẫu vật sẽ làm mất màu tự nhiên của nhóm này. Việc thu thập mẫu vật giống như ta tiến hành với butterfly. Tuy nhiên việc làm tiêu bản thì hoàn toàn khác, với các loài bướm (bộ cánh vảy), ta có thể dùng tay bóp gẫy các xương kittin là nơi bám của các hệ gân cánh, khiến chúng không thể bay được trước khi cho vào túi tam giác. Đối với chuồn chuồn thì hoàn toàn khác (nhiều nhà côn trùng học không biết là điều này hoàn toàn không có lợi và làm tương tự với butterfly hay moth), vì rằng như vậy sẽ làm chuồn chuồn bị thương và chết rất nhanh, khiến cho màu sắc tự nhiên cũng bị mất theo, không những thế, phần pterothorax (các đốt ngực mang cánh) cũng rất quan trọng trong định loại đối với nhóm này, việc bẻ gãy xương kittin có thể làm cho các thorax biến dạng, ảnh hưởng tới định loại sau này. Sau khi bắt được chuồn chuồn từ vợt, cần xếp mẫu vào túi giấy tam giác (loại làm bằng giấy can, có thể nhìn xuyên qua được và mỏng, mềm). Tuyệt đối không được giết mẫu bằng bất cứ hình thức nào (vật và hoá học). Sau 1 - 3 ngày, mẫu vật sẽ chết tự nhiên (điều này rất quan trọng cho việc giữ mầu tự nhiên của tiêu bản), và có thể sẽ giải phóng hết phân ở trong cơ thể. Bắt đầu tiến hành làm tiêu bản. Dùng kim nhỏ (ruột bút chì kim v.v...) xuyên từ cổ, qua các đốt ngực, và làm thẳng abdomen (phần bụng). Việc này sẽ giúp ta có một tiêu bản với các đốt bụng thẳng, rất cần thiết cho việc đo và quan sát sau này. Dùng panh nhọn, sắp xếp lại tư thế (đầu nghiêng sang một bên - tránh làm bẹp mắt, chân để ở tư thế tự nhiên, và separate cánh trước với cánh sau - tiện cho việc quan sát gân cánh sau này). Sau đó dùng ghim bấm, cố định tư thế vừa sửa trong túi giấy can tam giác. Ngâm mẫu vật trong 2 - 3 giờ với dung dịch alcol hoặc acetone (làm mềm tiêu bản và định hình tiêu bản). Sau đó gắp tiêu bản ra, để khô tự nhiên (tránh ánh sáng trực tiếp hoặc hơi nóng), rồi tháo đinh ghim, dán nhãn và định loại. Trên đây là những thao tác cơ bản nhất mà không phải bất cứ một odonatologist nào cũng thực hiện đúng. Tôi xin chia sẻ kinh nghiệm này với mọi người để nếu ai đó trong tương lai có quan tâm hoặc nghiên cứu về nhóm này lưu ý, tránh hiện tượng làm hỏng tiêu bản như tôi đã từng sai lầm. Chào thân ái! Sắp tới, khoảng đầu tháng năm, tôi sẽ nghiên cứu khu hệ Odonata ở Mã Đà, Quảng Bình và VQG Cát tiên, nếu có thể kết hợp cùng nhóm nghiên cứu nào thì rất vui lòng! Odonata |