Các phương tiện thanh toán của ngân hàng thương mại năm 2024
Hoạt động kinh doanh thẻ của các ngân hàng thương mại đã mang đến cho các ngân hàng một vị thế mới, một diện mạo mới. Bằng phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp, bài viết này công bố kết quả nghiên cứu về các loại thẻ ngân hàng hiện đang được sử dụng tại Việt Nam, qua đó đánh giá xu hướng của hoạt động kinh doanh thẻ và đưa ra các biện pháp phát triển dịch vụ tại các ngân hàng thương mại. Show Từ khóa: Thẻ ngân hàng, thanh toán thẻ, dịch vụ thẻ, ngân hàng thương mại, dịch vụ thanh toán. 1. Đặt vấn đềThẻ là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng để thanh toán hàng hóa dịch vụ tại các điểm cung ứng hàng hóa dịch vụ có ký hợp đồng thanh toán với ngân hàng, rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hay các ngân hàng đại lý trong phạm vi số dư tiền gửi của mình hoặc hạn mức tín dụng được cấp. Thẻ còn được dùng để thực hiện nhiều dịch vụ khác thông qua hệ thống giao dịch tự động ATM như chuyển khoản, tra vấn thông tin tài khoản, thông tin các khoản chi phí sinh hoạt,… Thẻ là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt tiên tiến và hiện đại. Thẻ ra đời không những đạt được hai mục tiêu là tiện lợi và an toàn cho việc thanh toán mà còn thể hiện được tính văn minh, hiện đại của thời kỳ hiện đại hóa và toàn cầu hóa. 2. Cơ sở lý thuyếtThẻ được phân chia thành các loại sau:
Thẻ thông minh (Smart Card): đây là thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán, thẻ có cấu trúc hoàn toàn như một máy vi tính.
Gọi đây là thẻ tín dụng vì chủ thẻ được ứng trước một hạn mức tiêu dùng mà không phải trả tiền ngay, chỉ thanh toán sau một kỳ hạn nhất định. Cũng từ đặc điểm trên mà người ta còn gọi thẻ tín dụng là thẻ ghi nợ hoãn hiệu (delayed debit card) hay chậm trả.
Thẻ trả trước (Prepaid Card): đây là loại thẻ mới được phát triển trên thế giới, khách hàng chỉ cần trả cho ngân hàng một số tiền sẽ được ngân hàng phát hành thẻ với mệnh giá tương đương. Đặc tính của loại thẻ này giống như các thẻ khác, chỉ có điều thẻ này được giới hạn trong số tiền có trong thẻ và chi tiêu trong một khoảng thời gian nhất định tùy vào quy định của mỗi ngân hàng, tức là hạn mức thẻ không có tính chất tuần hoàn.
Thẻ quốc tế: đây là loại thẻ được chấp nhận trên toàn thế giới, sử dụng các ngoại tệ để thanh toán và được quy đổi theo tỷ giá của đồng ngoại tệ sử dụng.
3. Thực trạng sử dụng thanh toán thẻ tại các NHTM hiện nayThị trường thẻ ngân hàng Việt Nam những năm qua được đánh giá có tốc độ phát triển mạnh. Đây là một tín hiệu rất tốt góp phần quan trọng thúc đẩy nhanh xu hướng thanh toán không dùng tiền mặt. Tại Việt Nam, thẻ thanh toán đã được biết đến hơn 10 năm trước đây, nhưng phải đến năm 1998 thị trường thẻ mới trở nên sôi động khi có sự tham gia của nhiều ngân hàng. Bởi lợi nhuận từ dịch vụ này rất hấp dẫn đối với các ngân hàng và đó chính là cơ hội để các NHTM Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh. Đây cũng là một trong những nghiệp vụ ngân hàng hiện đại giúp Việt Nam đi tắt đón đầu trong dịch vụ ngân hàng, giúp hoạt động ngân hàng trong nước có sức mạnh cạnh tranh về công nghệ với các ngân hàng nước ngoài trong lĩnh vực mới mẻ này. Tuy nhiên, đây cũng là dịch vụ đem lại không ít những khó khăn cho các ngân hàng Việt Nam, như: khó khăn về kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ nói chung và bản thân ngân hàng nói riêng đã gây nhiều trở ngại đối với việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh thẻ đạt tới những giá trị tiềm năng vốn có của nó, buộc ngân hàng phải không ngừng tự mình nhìn lại và đưa ra các biện pháp giải quyết để có thể đứng vững và khẳng định vị thế của mình trên thị trường. Thẻ ngân hàng tiếp tục là phương tiện thanh toán đa dụng, tiện ích, được các NHTM chú trọng phát triển, có tốc độ phát triển nhanh chóng. Theo Vụ Thanh toán (Ngân hàng Nhà nước - NHNN), cơ sở hạ tầng và công nghệ phục vụ thanh toán không dùng tiền mặt tiếp tục được chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Số lượng và giá trị giao dịch thanh toán nội địa của thẻ ngân hàng tiếp tục tăng, trong quý I năm 2019 đạt 65 triệu giao dịch với tổng số tiền giao dịch là 171 nghìn tỷ đồng (tăng 18,45% về số lượng và 18,82% về giá trị so với cùng kỳ của năm 2017). Các NHTM đã tích hợp thêm nhiều tính năng vào thẻ ngân hàng để sử dụng thanh toán hàng hóa, dịch vụ; đồng thời, nâng cao chất lượng dịch vụ, độ an toàn thanh toán thẻ. Thanh toán điện tử qua Internet, điện thoại di động đạt được kết quả đáng ghi nhận, thu hút số lượng lớn khách hàng sử dụng. Trong quý I năm 2019, số lượng và giá trị giao dịch tài chính qua kênh Internet tăng 68,8% và 13,4% so với cùng kỳ năm 2018; số lượng và giá trị giao dịch tài chính qua kênh điện thoại di động tăng 97,7% và 232,3 % so với cùng kỳ năm 2018. Tỷ lệ sử dụng thẻ ngân hàng so với các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt khác đang có xu hướng tăng lên. Dịch vụ thẻ ngân hàng phát triển đã giúp NHTM có thêm kênh huy động vốn và phát triển thêm các dịch vụ giá trị gia tăng với nhiều tiện ích khác nhau cung cấp cho khách hàng. Để gia tăng lượng giao dịch không dùng tiền mặt, các ngân hàng hiện nay đang đẩy mạnh phát triển hệ thống chấp nhận thẻ như máy ATM, máy POS, mạng lưới thanh toán hàng hóa dịch vụ sử dụng thẻ, các tiện ích dịch vụ,… Ngoài rút tiền mặt, chủ thẻ có thể dễ dàng sử dụng thẻ trong các thanh toán giao dịch hóa đơn điện thoại, internet, trả phí bảo hiểm, chuyển khoản thanh toán,… Tiện ích của thẻ ATM không chỉ giúp chủ thẻ quản lý được tiền, không đem theo một lượng tiền lớn để thanh toán hàng hóa dịch vụ, tiết kiệm được tiền,… mà còn giúp họ tiết kiệm chi tiêu khi các ngân hàng phát hành thẻ phối hợp với những đơn vị bán hàng giảm giá hàng hóa cho khách hàng sử dụng thẻ. Ngoài ra, khách hàng sử dụng thẻ còn được bảo hiểm trong các trường hợp cụ thể, như: khi rút tiền từ máy ATM bị cướp; khi thanh toán mua hàng hóa nhưng bị mất hàng ngay sau khi mua hàng; khi mua vé máy bay bị trễ giờ bay; tai nạn du lịch toàn cầu; tư trang trong chuyến đi; trách nhiệm trong chuyến đi; gia sản khi vắng nhà; mua sắm; thất lạc ví;… Quy mô dân số trẻ không ngừng mở rộng cùng với sự phát triển của công nghệ và xu hướng thương mại điện tử ngày càng thịnh hành là những yếu tố cơ bản khiến thị trường thẻ thanh toán ở Việt Nam, cả thẻ tín dụng (credit card) và thẻ ghi nợ (debit card) ngày càng được sử dụng rộng rãi. Bên cạnh việc phát triển số lượng thẻ, các NHTM ngày càng quan tâm đến việc cải thiện chất lượng dịch vụ bằng việc tăng khả năng thanh toán cho chủ thẻ thông qua phát hành thẻ thanh toán đồng thương hiệu và đa ứng dụng có liên kết với các tổ chức khác, như trường học, hãng taxi, hãng hàng không, siêu thị…; chú trọng tăng độ an toàn, bảo mật của thẻ thanh toán như ứng dụng công nghệ Chip trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ, như phát hành và chấp nhận thanh toán thẻ chip chuẩn EMV.
ATM có nhiều chức năng, mang đến nhiều tiện ích giúp con người tiết kiệm thời gian và công sức hơn. Một chiếc thẻ ATM đa năng đúng nghĩa có thể giúp bạn:
Bên cạnh những tiện ích trên, hoạt động thanh toán thẻ thời gian qua vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như:
Phần lớn các hóa đơn hay những tờ tra cứu số dư đã bị vứt bừa bãi, mặc dù đa phần các ngân hàng đều đặt thùng rác ngay trong buồng ATM. + Tình trạng nói chuyện điện thoại trong khi vừa rút tiền hay chen ngang của những người giao dịch thẻ còn diễn ra phổ biến. Lợi dụng khi khách hàng tập trung rút tiền tại máy ATM, một số kẻ gian đã nhìn trộm mật khẩu (hay còn gọi là mã PIN - viết tắt từ Personal Identification Number), nhằm thực hiện những hành vi gian trá, vi phạm pháp luật. 4. Kết luậnĐể đẩy mạnh phát triển thanh toán thẻ trong thời gian tới, cần tập trung vào một số giải pháp như sau:
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Master. NGUYEN THI QUYNH CHAU Faculty of Finance and Banking, Van Lang University ABSTRACT: The issuse of bank cards has supported the growth of commercial banks in Vietnam. This paper studies types of bank cards in Vietnam by using statistical and analytical methods, thereby assessing the trend of issuing bank cards and proposing solutions to develop bank card services of commercial banks. |