Biểu điểm bài văn số 2 ngữ văn8 năm 2024

Viết bài văn phân tích một tác phẩm (truyện) luôn là một chủ đề “hot” nhận được sự quan tâm của các thầy cô và các em học sinh. Các đề bài phân tích tác phẩm (truyện) rất hay được đưa vào các đề thi học kỳ, thi học sinh giỏi. Bởi vậy, các em cần phải có kỹ năng làm bài sao cho hợp lý để có thể đạt được điểm số mong muốn.

1. Soạn bài viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện Văn 8 tập 2 Kết nối tri thức

1.1 Đề 1: Phân tích truyện ngắn Bầy chim chìa vôi của tác giả Nguyễn Quang Thiều

Bầy chim chìa vôi" của tác giả Nguyễn Quang Thiều là một tác phẩm chứa đầy sự hấp dẫn với những hình ảnh vô cùng sống động và tình cảm đậm đà về tình yêu dành cho thiên nhiên và động vật. Trong truyện đó, tác giả đã giới thiệu chúng ta với hai nhân vật chính đó là Mon và Mên, hai anh em có tấm lòng lương thiện và chất chứa tình yêu thương.

Tác giả đã mở đầu câu chuyện bằng một cuộc trò chuyện của hai anh em vào khoảng hai giờ sáng, trong một đêm trời mưa. Mon bắt đầu bằng câu chuyện bằng việc hỏi về thời tiết và tình hình của dòng sông. Dù có vẻ câu hỏi được lặp đi lặp lại, nhưng những câu hỏi ấy thể hiện được sự lo lắng và quan tâm của Mon dành cho loài chim chìa vôi. Hình ảnh ấy phản ánh về tấm lòng nhân ái cùng với tình yêu thương của các nhân vật dành cho thiên nhiên và động vật.

Ngoài Mon thì Mên cũng chia sẻ về tình cảm và lo lắng ấy và thấu hiểu rằng họ cũng cần phải làm gì đó để có thể giúp những con chim chìa vôi non tránh được đuối nước. Truyện thể hiện tình cảm vô cùng mạnh mẽ giữa hai anh em cùng với ý nghĩa của việc giúp đỡ người khác trong lúc họ cần. Tác giả cũng sử dụng một chi tiết độc đáo về việc Mon đã lén thả đi con cá bống mà bố đã bắt được nhằm tạo ra một tình huống hài hước và thể hiện được tính cách hồn nhiên và thơ ngây của những nhân vật trẻ ở trong truyện.

Tác giả cũng sử dụng đến mô tả tinh tế nhằm khắc họa lên khung cảnh bãi cát giữa dòng sông và cuộc sống của loài chim chìa vôi. Khi bình minh tới, cảnh tượng cũng trở nên rạng ngời cùng với ánh nắng đã soi rọi hạt mưa ở trên mặt sông. Tuy nhiên, cũng là khi dòng nước ấy đang dâng cao, dần nuốt chửng đi phần còn lại của bãi cát. Mô tả đó thể hiện về sự tương tác khá phức tạp giữa thiên nhiên cùng động vật, và sự cường đại của tự nhiên. Hình ảnh của những con chim chìa vôi nhỏ bé và yếu đuối đang nỗ lực hết sức bay lên trời khi dải cát đã bị ngập nước là một tượng trưng về sự kiên cường và ý chí cố gắng sống sót. Đặc biệt, con chim đuối sức ấy vẫn cố gắng để bay lên mặc dù cho đôi cánh của nó đã dừng lại, thể hiện lên sự bất khuất và quyết tâm phải đối diện được với khó khăn.

Cuối cùng, tác giả đã miêu tả Mon và Mên đứng yên, họ không nhúc nhích, với những khuôn mặt tái nhợt và đôi mắt có phần ướt át. Họ đã khóc, và giọt nước mắt ấy không chỉ là của sự xúc động mà còn là biểu tượng của tình yêu thương và sự hiểu biết đối với cuộc sống cùng với thiên nhiên. Đây là phần quan trọng nhất trong truyện, khi tác giả truyền tải thông điệp liên quan đến tình yêu thương, lòng nhân ái cùng với ý nghĩa của việc chúng ta cần phải hòa hợp và gắn bó với thiên nhiên.

Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ hết sức đơn giản, giúp tạo được sự dễ tiếp cận và thân thiện đối với độc giả, đặc biệt là với trẻ em. Câu chuyện được kể dưới góc nhìn thứ ba, giúp cho độc giả cảm nhận và đồng cảm được với tâm trạng của cả hai anh em. Tuy truyện viết cho trẻ em, nhưng nó truyền tải một thông điệp vô cùng sâu sắc về tình yêu thương các loài động vật cùng với tình hữu nghị giữa con người. Tác phẩm khuyến khích trẻ em cần hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của sự chia sẻ và giúp đỡ người khác, cũng như sẵn sàng để đối diện với những khó khăn và vượt qua chúng. Tác giả đã sử dụng mô tả tinh tế, sử dụng những từ ngữ sống động và hình ảnh sinh động nhằm tái hiện một khung cảnh thiên nhiên cùng với cuộc sống của chim chìa vôi. Hình ảnh của con chim đang đuối sức và hình ảnh của Mon và Mên đứng yên trong khung cảnh mưa sáng đã tạo nên được sự cảm động và lôi cuốn độc giả vào trong câu chuyện.

Như vậy, “Bầy chim chìa vôi” không chỉ là một câu chuyện nói về tình yêu thương động vật và thiên nhiên mà còn là một bài học vô cùng ý nghĩa của cuộc sống, lòng kiên cường cùng với sự đoàn kết khi đối mặt với khó khăn.

Biểu điểm bài văn số 2 ngữ văn8 năm 2024

1.2 Đề 2: Cảm nhận của em về truyện ngắn lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long

Nguyễn Thành Long là một cây bút truyện ngắn vô cùng xuất sắc, nổi tiếng với những tác phẩm: Giữa trong xanh (năm 1972), Ly Sơn mùa tỏi (năm 1980)... Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa rút ở trong tập Giữa trong xanh. Truyện ca ngợi về những con người sống giữa non xanh lặng lẽ nhưng lại vô cùng sôi nổi và hết lòng vì Tổ quốc, họ có trái tim nhân hậu.

Một bức tranh về thiên nhiên rất đẹp và đầy chất thơ. Lào Cai ở miền Tây Bắc của Tổ quốc không hề hoang vu mà ngược lại, rất hữu tình và tráng lệ. Khi xe vừa "trèo lên núi" thì lúc đó "mây hắt từng chiếc quạt trắng lên từ các thung lũng". Trạm rừng là nơi mà "con suối có thác trắng xóa". Giữa màu xanh của núi rừng, những cây thông đang "rung tít trong nắng", những cây tử kinh có "màu hoa cà " hiện ra đầy thơ mộng. Có lúc, cảnh tượng về núi rừng vô cùng tráng lệ, đó chính là khi "nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn". Sa Pa với những rặng đào cùng với đàn bò lang cổ đeo chuông... như dẫn hồn các du khách vào miền đất mới lạ kì thú.

Trên cái nền bức tranh thiên nhiên đó, cuộc sống của con người ở nơi miền Tây Tổ quốc thân yêu lại càng thêm nồng nàn ý vị: "nắng chiều làm cho bó hoa càng thêm rực rỡ và làm cho cô gái cảm thấy mình rực rỡ theo". Có thể nói đó chính là những nét vẽ hết sức tinh tế và thơ mộng.

Trên cái nền thơ mộng hữu tình đó là sự xuất hiện của những con người hết sức đáng yêu, đáng mến. Thiên nhiên, cảnh vật cho dù đẹp tới mấy cũng chỉ là cái nền để tô điểm và làm cho con người xinh đẹp hơn.

Đó là bác lái xe vui tính, cởi mở và nhiệt tình với các hành khách. Đó là ông họa sĩ già vô cùng say mê nghệ thuật, "xin anh em hoãn bữa tiệc đến cuối tuần sau" để ông được đi thực tế chuyến cuối cùng lên Lào Cai trước khi về hưu. Lúc nào ông cũng có trăn trở rằng "phải vẽ được một cái gì suốt đời mình thích". Đó còn là cô kĩ sư trẻ tuổi mới ra trường đã hăng hái, dám xung phong lên Lào Cai để công tác, bước qua cuộc sống học trò chật hẹp, bước vào một cuộc sống bát ngát mới tinh và cái gì cũng làm cho cô cảm thấy hào hứng. Cô khao khát về đất rộng trời cao, cô có thể được đi bất kì đâu, làm bất cứ điều gì mình muốn.

Và cả những nhân vật không xuất hiện trực tiếp: ông kĩ sư tại vườn rau Sa Pa suốt đời nghiên cứu để lai tạo giống su hào to củ và ngọt nhằm phục vụ dân sinh và xuất khẩu. Đồng chí cán bộ nghiên cứu khoa học thì "suốt ngày dự sét", ngày đêm mưa gió cứ hễ nghe sét là "choàng choàng chạy ra", mười một năm không có một ngày nào xa cơ quan, "không đi đến đâu mà tìm vợ" và “lo làm một bản đồ sét riêng cho nước ta", cái bản đồ đó "thật lắm của, thật vô giá". Trán đồng chí đó cứ hói dần đi!

Và, tiêu biểu nhất có thể là anh thanh niên với độ tuổi 27, làm công tác khí tượng kết hợp vật lý địa cầu ở trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, được nhận xét là “một trong những người cô độc nhất thế gian". Anh có nhiệm vụ là "đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất" góp phần giúp dự báo thời tiết để phục vụ sản xuất và chiến đấu. Những đêm bão tuyết, khí hậu rét ghê gớm, một mình một đèn bão ra "vườn" để lấy số liệu vào lúc nửa đêm, lúc ấy cả thân hình anh "như bị gió chặt ra từng khúc", xong việc thì trở vào nhà nhưng "không thể nào ngủ lại được". Anh đã làm công việc của mình với tinh thần trách nhiệm rất cao, với ý chí cùng với nghị lực to lớn để có thể vượt qua gian khổ và đơn độc giữa non xanh. Chí tiến thủ chính là một nét đẹp ở anh: tự học, đọc sách, cần cù và chịu khó: nuôi thêm gà để lấy trứng, trồng thêm hoa... làm cho cuộc sống thêm phần phong phú. Rất khiêm tốn khi nhắc đến mình, dành những lời tốt đẹp nhất để gợi ca những gương sáng khác nơi Sa Pa lặng lẽ. Rất hiếu khách, anh thể hiện mừng rỡ và quý mến khi thấy khách lạ đến chơi. Một bó hoa đẹp đem đi tặng cô kĩ sư trẻ, một làn trứng gà tươi để hiếu ông họa sĩ già, một củ tam thất gửi cho vợ bác lái xe mới ốm dậy... là biểu hiện cho một tấm lòng yêu thương và đối xử chân tình với đồng loại. Anh đã sống và làm việc vì lý tưởng cao đẹp, vì quê hương và đất nước thân yêu, như anh từng thổ lộ với ông họa sĩ già: "Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?". Vì thế sau khi vẽ xong chân dung của anh cán bộ khí tượng, họa sĩ đã nghĩ về anh: "Người con trai ấy đáng yêu thật...”

Tóm lại, những nhân vật ở trên là hình ảnh của những con người mới đã sống đẹp, giàu tình nhân ái, lại hết lòng phục vụ đất nước và nhân dân, sống ở nơi lặng lẽ non xanh nhưng họ chẳng có chút lặng lẽ nào! Trái lại, cuộc đời của họ lại vô cùng sôi nổi, chứa đầy tâm huyết và giàu nhiệt tình cách mạng. Đúng như Bác Hồ đã từng nói: "Đất nước ta là một vườn hoa đẹp. Mỗi người là một bông hoa đẹp". Nhà văn Nguyễn Thành Long đã dành những câu nói tốt đẹp nhất để nói về những con người đang sinh sống và cống hiến giữa Sa Pa lặng lẽ. Mỗi người ở nơi non xanh đó là một gương sáng và là một bông hoa ngát hương.

Truyện Lặng lẽ Sa Pa là một bài thơ được viết bằng văn xuôi rất trong sáng và trữ tình. Trên cái nền tráng lệ của thiên nhiên núi rừng, suối Sa Pa hiện ra bao nhiêu con người đáng yêu. Mỗi người chỉ một với vài nét vẽ mà tác giả đã lột tả được ra tâm hồn, tính cách và dáng vẻ của họ. Nguyễn Thành Long vô cùng chân thực trong việc kể và tả, nhờ thế mà chúng ta thấy những nhân vật như là bác lái xe, cô kĩ sư trẻ, ông họa sĩ già, anh thanh niên... rất gần gũi lại mến yêu.

Biểu điểm bài văn số 2 ngữ văn8 năm 2024

1.3 Đề 3: Vẻ đẹp của sự đồng cảm, gắn bó giữa con người và thế giới tự nhiên trong đoạn trích tác phẩm Mắt sói của Đa-ni-en Pen-nắc

“Mắt sói” là tác phẩm vô cùng tiêu biểu viết về thiếu nhi của tác giả có tên là Daniel Pennac. Truyện kể về cuộc gặp gỡ của sói Lam và Phi Châu ở một vườn bách thú. Cuộc gặp gỡ đó rất kỳ lạ và sau đó cả hai đã đắm chìm nhìn nhau dưới một ánh mắt từ ngày này qua ngày khác. Kỳ lạ thay đó là mỗi con mắt là một con đường giúp đưa được người kia trở lại với quá khứ của mình. Sói Lam phải trốn chạy vào vùng đất này qua vùng đất khác và trước sự săn lùng của toàn bộ gia đình nhà Sói Xám. Trên suốt chặng đường dài đi trốn chạy họ đã gặp được nhau, sau đó trở thành bạn thân của nhau. Thông qua câu chuyện, chúng ta có thể thấy được vẻ đẹp của sự đồng cảm và gắn bó giữa con người cùng với thế giới tự nhiên. Truyện với nhân vật Sói Lam là một con sói vô cùng dũng cảm, yêu thương gia đình và yêu thương những đứa bé. Khi thấy Ánh Vàng đang bị nhốt ở trong lưới Sói Lam đã không ngần ngại bất cứ nguy hiểm nào để nhảy vào cứu. Bằng tấm lòng đồng cảm và biết giúp đỡ, đặt vào hoàn cảnh của nhau để có thể thấu hiểu những nhân vật đã tạo ra được sự gắn kết tuyệt diệu giữa con người với thế giới tự nhiên. Sói Lam đã nhìn thấy được quá khứ đầy sự khổ đau của cậu bé Phi Châu. Phi Châu là một con người rất yêu thương động vật, hơn nữa lại thông minh nhanh nhẹn nhưng có một số phận bất hạnh và đầy đau khổ. Tình bạn của họ vô cùng cao đẹp, khi hai thế giới có thể thấu hiểu, chia sẻ và động viên nhau thông qua ánh mắt. Đó là sự gắn kết giữa hai tâm hồn muốn được yêu thương. Qua hai nhân vật tác giả muốn ca ngợi về tình thương yêu động vật cùng sự đồng cảm gắn bó giữa con người với thế giới tự nhiên đó mới là tình anh em, tình bạn và sự hy sinh đồng điệu của cả hai thế giới.

\>> Xem thêm: Soạn văn 8 kết nối tri thức

2. Soạn bài viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện Văn 8 tập 2 cánh diều

2.1 Đề 1: Phân tích truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao.

Nam Cao được nhận xét là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc nhất trong nền văn học hiện thực trước cách mạng. Những tác phẩm của ông sáng tác dựa trên hai đề tài lớn đó là người trí thức và người nông dân, nhưng thành công hơn cả phải kể đến là khi ông viết về đề tài người nông dân. Viết về người nông dân, nhà văn sẽ có khuynh hướng khám phá và phát hiện những vẻ đẹp phẩm chất ẩn sâu ở trong con người họ. Truyện ngắn Lão Hạc là một ví dụ như thế.

Trước hết về nhân vật lão Hạc, lão có một số phận bi thảm nhưng ẩn sau đó là những phẩm chất vô cùng cao đẹp, đại diện cho phẩm chất của người nông dân. Số phận của lão Hạc cũng là số phận chung của rất nhiều người nông dân vào trước cách mạng. Vợ lão chết sớm và lão ở vậy với hoàn cảnh gà trống nuôi con. Đứa con lớn lên vì không lấy được người mình yêu cho nên phẫn chí mà bỏ nhà ra đi. Lão ở vậy một mình cùng với cậu Vàng – kỉ vật mà người con trai để lại. Nhưng cuộc đời của lão càng ngày lại càng bi đát hơn nữa, lão bị ốm, lão phải tiêu tốn nhiều tiền dành dụm cho con mình, bởi vậy lão đành phải bán cậu Vàng – người bạn đã ở bên cạnh giúp lão vơi bớt đi nỗi buồn khi phải xa con mình. Khi bán cậu Vàng thì lão vô cùng đau đớn và ân hận. Nỗi ân hận ấy được thể hiện thông qua đoạn văn miêu tả vô cùng đặc sắc: cười như mếu, đôi mắt ầng ậng nước, mặt đột nhiên co rúm lại, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít, hu hu khóc. Tình cảnh của lão vô cùng đáng thương, lão luôn sống với sự day dứt và dằn vặt bản thân.

Nhưng ẩn đằng ấy chính là những phẩm chất rất cao đẹp của một người nông dân lương thiện. Lão là một người giàu tình cảm, tình yêu thương ấy được thể hiện ngay với cả một con vật: lão gọi con chó là cậu Vàng, gọi nịnh như nịnh một đứa trẻ, ông chăm sóc cho cậu Vàng chu đáo: cho cậu ăn cơm trong bát như một nhà giàu, không chỉ thế ông còn trò chuyện và mắng yêu cậu vàng, cậu Vàng làm lão bớt phần cô đơn, vơi đi nỗi nhớ mong con. Tình cảm sâu nặng của ông đối với cậu Vàng có nguồn gốc sâu xa là từ tình yêu thương con của lão Hạc, con chó lại là kỉ vật thiêng liêng mà người con để lại cho ông trước khi quyết định đi đến đồn điền cao su.

Tình phụ tử ở lão Hạc cũng hết sức sâu sắc và thiêng liêng. Vì cảnh nghèo không thể cưới được vợ cho con, lão đã vô cùng đau đớn, bởi vậy bao nhiêu tiền của làm được thì lão đều dành dụm cho con mình, lão chịu kham khổ, để cho người đời chửi mắng chứ nhất quyết không chịu tiêu lạm vào đồng tiền của con. Sau khi lão bị bệnh nặng, lão chỉ ăn mỗi khoai, hết khoai thì lão ăn củ chuối, rồi ăn sung luộc, củ ráy, rau má, nghĩa là vớ được bất cứ thứ gì thì lão ăn thứ ấy,… Và cuối cùng lão đã lo lắng sẽ tiêu vào tiền cho con nên lão đành phải chọn cái chết để bảo toàn được tài sản cho con trai mình. Cái chết hết sức đau đớn của lão Hạc xuất phát từ lòng yêu thương con âm thầm mà rất lớn lao.

Mặc dù nghèo khổ thật nhưng lão luôn giữ cho mình lòng tự trọng. Lão không nhận bất cứ sự giúp đỡ từ ai, ngay cả khi ông giáo mở lời đề nghị giúp, lão đã từ chối một cách hách dịch, vì lão hiểu được hoàn cảnh của gia đình ông giáo cũng nghèo túng chẳng khác gì với gia đình mình. Lòng tự trọng ấy còn được thể hiện thông qua cách thức tìm tới cái chết của ông. Trước khi chết thì ông để lại tiền để nhờ bà con lo ma chay, không muốn phiền hà tới hàng xóm. Lão chọn cách chết là ăn bả chó, một cái chết đau đớn và dữ dội như một lời tạ tội đối với cậu Vàng. Cái chết của lão Hạc cũng chính là sự khẳng định cho sức sống bất diệt với nhân cách cao đẹp của ông.

Ngoài nhân vật lão Hạc ở trong tác phẩm ta còn thấy nổi bật lên về hình ảnh của một ông giáo nghèo, người bạn vô cùng thân thiết của lão Hạc. Ông giáo có sự đồng cảm vô cùng sâu sắc với cảnh ngộ rất đáng thương của lão Hạc: an ủi, động viên khi mà lão bán chó, chia sẻ nỗi buồn ấy với lão Hạc, luôn tìm mọi cách để làm cho lão khuây khỏa và lạc quan. Ông còn là một người am hiểu tường tận nhất về vẻ đẹp nhân cách của lão Hạc: “Không cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Nghĩa khác đó chính là con người với nhân cách cao đẹp nhưng lại phải chết một cách vật vã, đau đớn và cái chết đó lại càng làm sáng thêm nhân cách cao đẹp của lão.

Nghệ thuật kể chuyện vô cùng xuất sắc: câu chuyện được kể do chính nhân vật tôi (ông giáo) người luôn kề cạnh lão Hạc, bởi vậy khiến cho câu chuyện trở nên chân thực và gần gũi, ngoài ra cũng khiến cho mạch kể trở nên tự nhiên và linh hoạt, tạo điều kiện kết hợp tả với kể với bình luận một cách tự nhiên và sinh động. Giọng văn đa dạng, thay đổi một cách linh hoạt. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện rất bất ngờ nhưng hợp lí, những bước ngoặt của truyện đã giúp bộc lộ rõ tính cách và phẩm chất của nhân vật. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một điểm nhấn nổi bật của văn bản: nhân vật đã được khắc họa thông qua diện mạo, ngôn ngữ đối thoại và diễn biến tâm trạng, thông qua lời nhận xét và bình luận của những nhân vật khác, bởi vậy chân dung của nhân vật hiện lên chân thực và sinh động hơn.

Với nghệ thuật kể chuyện hết sức đặc sắc, ngôn ngữ giản dị và lôi cuốn, Nam Cao đã cho người đọc thấy được chân dung số phận vô cùng bất hạnh của người nông dân trước cách mạng, họ đã bị đẩy tới bước đường cùng phải đi tìm cái chết. Nhưng đằng sau ấy còn là chân dung về tinh thần đẹp đẽ: giàu tình yêu thương cùng với nhân cách cao đẹp.

Biểu điểm bài văn số 2 ngữ văn8 năm 2024

2.2 Đề 2: Viết một đoạn văn phân tích về tác dụng của cách kết thúc truyện Lão Hạc (Nam Cao).

Mẫu 1:

Kết thúc truyện Lão Hạc đã gây ấn tượng và sự liên tưởng vô cùng sâu xa tạo cho tác phẩm một sức vang lớn. Lão đã kết liễu cuộc đời mình bằng cách ăn bả chó, có thể nói đó là một cái chết vô cùng dữ dội và đau đớn nhất, “Lão vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi … chốc chốc lại giật nảy lên, lão tru tréo, bọt mép sùi ra”, bấy nhiêu cụm từ ấy đã khiến cho chúng ta ấn tượng với cái chết của lão Hạc. Tác giả đã liên tiếp sử dụng những từ láy gợi hình và gợi cảm, nó khiến cho chúng ta hình dung được một lão Hạc đang sắp chết. Đó là cái chết của người bị trúng độc do bả chó. Bất giác, em có cảm tưởng như đây không phải cách chết của một con người bình thường mà đó là cách chết của một con chó. Có lẽ, cái chết đau đớn và dữ dội như muốn liên tưởng sâu sắc tới lời thanh minh và chuộc tội với cậu Vàng. Lão không chọn cách chết nào khác mà phải chết như cách chết của một con chó ăn phải bả, bởi với lão cho đến tận lúc chết, ám ảnh về cậu Vàng, về việc mà mình đã trót lừa một con chó vẫn làm day dứt lương tâm lão. Lão đã chọn một cách giải thoát thực sự đáng sợ nhưng lại như một cách để có thể tạ lỗi cùng cậu Vàng chăng? Lão Hạc yêu thương con chó hệt như con trai nhưng lại nỡ lừa để bán nó đổ cho thằng Mục giết thịt, thì lão cũng cần phải tự trừng phạt mình và tự chịu hình phạt giống như một con chó. Lão Hạc đã chết trong đau đớn và vật vã ghê gớm về mặt thể xác nhưng chắc chắn lão lại thấy vô cùng thanh thản về tâm hồn vì đã hoàn thành được nốt công việc cuối cùng với đứa con trai vẫn đang “bặt vô âm tín” với hàng xóm láng giềng về tang ma của chính mình. Lão chết để giữ lại phần ấm cho con, để giữ lại niềm hi vọng cho người con duy nhất đang ở một nơi xa mình. Cái chết của lão cũng là biểu hiện cao nhất cho tình phụ tử thiêng liêng và của đức hi sinh cao cả. Đó là âm vang của lòng tự trọng, cũng là âm vang của tình thương yêu và cả nhân cách vô cùng cao đẹp. Tiếng vang về cái chết của lão Hạc như một lời tố cáo hết sức đanh thép về xã hội chất chứa đầy bất công tàn bạo.

Mẫu 2:

Một trong những chi tiết để lại ấn tượng vô cùng sâu sắc trong lòng người đọc chính là cái chết của nhân vật Lão Hạc. Nam Cao đã sử dụng một loạt những tính từ và động từ mạnh giúp cho người đọc hình dung được một cách chi tiết về cái chết vô cùng thảm khốc đó: “ Lão đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọp mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật giật một cái, nảy lên. hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. cái chết thật dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy…”. Vậy tại sao mà lão Hạc phải chết? Thực ra, lão Hạc là một người rất muốn sống và ham sống. Lão đã làm đủ mọi cách để có thể tồn tại được trên cõi đời này. Nhưng lão phải chọn cái chết do đó là giải pháp duy nhất để có thể giữ được bản chất lương thiện của chính mình. Lão chết để bảo toàn căn nhà và bảo toàn mảnh vườn mà bao nhiêu năm qua hai vợ chồng lão đã phải vất vả mới kiếm được. Hơn thế nữa, lão cũng không muốn ăn lạm vào số tiền bán vườn mà lão đã dành dụm từng ngày để cho con mình cưới vợ. Đồng thời, lão Hạc cũng không muốn làm phiền tới bà con hàng xóm. Cái chết của lão đã thể hiện lòng thương con tuy âm thầm nhưng lại lớn lao, lòng tự trọng vô cùng đáng quý của lão. Cái chết đó chính là sự giải thoát cho lão Hạc, là sự tự giải thoát trước một cuộc sống quá ngột ngạt của xã hội thời phong kiến. Lão Hạc đã chọn cái chết như con chó. Cảnh lão Hạc chết có nhiều nét tương đồng với với cảnh thằng Mục và thằng Xiên khi bắt cậu Vàng. Đó chính là lời tạ lỗi hết sức chân thành và sâu sắc nhất dành cho cậu Vàng. Qua cái chết ấy, Nam Cao muốn thể hiện về niềm tin vào những người nông dân: dù có chết, họ vẫn luôn muốn giữ bản chất lương thiện, lòng yêu thương con và lòng tự trọng của mình. Đồng thời nó cũng thể hiện được tấm lòng hết sức nhân đạo của tác giả đã được thể hiện trong tác phẩm.

Trên đây là toàn bộ phần soạn bài Viết bài văn phân tích một tác phẩm (truyện) mà VUIHOC đã sưu tầm cho các em. Hy vọng sau khi tham khảo bài viết phía trên, các em có thể tự viết cho mình những bài văn thật hay và đạt được điểm cao. Ngoài bài soạn phía trên ra, khi muốn tham khảo về nhiều bài soạn khác nữa ở trong chương trình ngữ văn nói riêng cũng như những bài soạn khác của môn học khác nói chung, các em cần truy cập nhanh vào website của VUIHOC chính là vuihoc.vn để có thể đăng ký khoá học thật nhanh chóng và được giảng bài dễ hiểu từ các thầy cô giáo VUIHOC vô cùng nhiệt huyết.