Bài tập tháng thứ 2 môn hợp đồng năm 2024

- Là sự gia tăng tài sản hoặc phát sinh việc chiếm hữu , sử dụng của một chủ thể đối với tài sản nhưng không dựa trên căn cứ do pháp luật quy định tại Điều 183 BLDS 2005).

- Là việc tránh được những khoản chi phí để bảo quản , giữ nguyên tài sản mà lẽ ra tài sản phải giảm sút.[1]

Câu 2: Vì sao được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự?

Trả lời: Khi được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật thì giữa người được lợi và chủ sở hữu tài sản có thể sẽ phát sinh việc hoàn trả tài sản; thanh toán chi phí cho người bảo quản, làm tăng giá trị tài sản hoặc bồi thường thiệt hại. Đó là những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự khi được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.

Câu 3: Trong điều kiện nào người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật có trách nhiệm hoàn trả?

Trả lời: Điều kiện để người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật có trách nhiệm hoàn trả:

- Thứ nhất, sự được lợi về tài sản của một người đã gây ra thiệt hại về tài sản cho chủ sở hữu.

- Thứ hai, sự được lợi về tài sản đó không dựa trên căn cứ do pháp luật dân sự quy định.

- Thứ ba, người được lợi về tài sản không có lỗi.[2]

Câu 4: Trong vụ việc được bình luận, nếu ông Hiếu không chứng minh được thóc là của ông mua và thuê bà Nguyệt, ông Ngoan chở đến Nhà máy thì ông Hiếu có là người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật không? Vì sao?

Trả lời: Trong vụ việc được bình luận trên có thể phát sinh hai trường hợp:

- Trường hợp thứ nhất, nếu ông Hiếu không chứng minh được thóc là của ông mua và thuê bà Nguyệt, ông Ngoan chở đến Nhà máy và Nhà máy đã thanh toán tiền cho ông Hiếu về số thóc nói trên thì lúc này ông Hiếu là người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Vì: Việc nhận tiền của Nhà máy Trương Lâm trả cho số bao thóc của ông Ngoan và bà Nguyệt đã làm phát sinh việc chiếm hữu, sử dụng của ông Hiếu đối với khoản tiền nêu trên nhưng không dựa trên căn cứ do pháp luật quy định. Điều này đã chứng tỏ ông Hiếu đã được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, làm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả của ông Hiếu đối với ông Ngoan, bà Nguyệt.

- Trường hợp thứ hai, nếu ông Hiếu không chứng minh được thóc là của ông mua và thuê bà Nguyệt, ông Ngoan chở đến Nhà máy và Nhà máy chưa thanh toán tiền cho ông Hiếu thì ông Hiếu không là người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Vì ông không có sự gia tăng tài sản hoặc phát sinh việc chiếm hữu, sử dụng đối với tài sản (số tiền bán thóc của ông Ngoan, bà Nguyệt) nhưng không dựa trên căn cứ do pháp luật quy định, hay tránh được những khoản chi phí để bảo quản, giữ nguyên tài sản mà lẽ ra tài sản phải giảm sút trong trường hợp này.

Câu 5: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu ông Hiếu không chứng minh được thóc là của ông mua và thuê bà Nguyệt, ông Ngoan chở đến Nhà máy thì ông Hiếu phải trả tiền đã nhận cho ai?

Trả lời: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu ông Hiếu không chứng minh được thóc là của ông mua và thuê bà Nguyệt, ông Ngoan chở đến Nhà máy thì ông Hiếu phải trả tiền đã nhận cho ông Ngoan, bà Nguyệt.

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Toà dân sự trên cơ sở chế định được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.

Trả lời:

- Văn bản pháp luật:

+ Khoản 2 Điều 599 BLDS 2005 quy định về Nghĩa vụ hoàn trả.

+ Điều 438 BLDS 2005 quy định về Nghĩa vụ trả tiền.

- Thực tiễn xét xử:

+ Trong Bản án trên, Tòa dân sự đã có hướng giải quyết rất thuyết phục: Đầu tiên xác định số thóc trên là của ai, rồi sau đó yêu cầu ông Hiếu chứng minh thóc là của ông mua và thuê bà Nguyệt, ông Ngoan chở đến. Nếu ông Hiếu không chứng minh được và Nhà máy đã đưa tiền cho ông Hiếu thì ông Hiếu phải trả cho ông Ngoan, bà Nguyệt, hoặc nếu Nhà máy chưa đưa tiền cho ông Hiếu thì Nhà máy phải trả cho ông Ngoan và bà Nguyệt.

+ Hướng giải quyết của Tòa dân sự không phải là hướng giải quyết mới mà đã có tiền lệ: Quyết định số 12/2003/HĐTP-KT ngày 6/11/2003: Công ty Tây Ninh và Công ty Tấn Bình có hợp đồng thương mại với nhau về việc mua bán thuốc lá, số hàng đã được Công ty Tây Ninh giao đủ và bà Cẩm là người giao hàng. Công ty Tây Ninh cho rằng Công ty Tấn Bình chưa thanh toán tiền hàng thuốc lá, ngược lại Công ty Tấn Bình cho rằng đã thanh toán đầy đủ tiền hàng thuốc lá thông qua bà Cẩm. Tòa án đã nêu trong quyết định: “Buộc Công ty Tấn Bình phải thanh toán cho Công ty Tây Ninh số tiền mua hàng thuốc lá còn thiếu và bồi thường tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán là có căn cứ.”[3]

- Suy nghĩ: Hướng giải quyết của Tòa dân sự trên cơ sở chế định được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là hợp lý, hợp pháp vì các lý do:

+ Thứ nhất, việc Tòa dân sự đưa ra hướng giải quyết xác định số thóc trên là của ai là hoàn toàn hợp lý, vì từ việc xác định sở hữu của số thóc trên mới có thể xác định được ông Hiếu có phải là người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật hay không để từ đó quyết định hướng giải quyết theo chế định này. Tuy nhiên việc Tòa án chỉ đưa ra trường hợp nếu ông Hiếu không chứng minh được số thóc này không phải là của ông Hiếu mà lại không đưa ra trường hợp ngược lại là không đúng, vì nếu ông Hiếu chứng minh được số thóc trên là của mình thì Tòa dân sự sẽ giải quyết theo hướng nào?

+ Thứ hai, việc Tòa dân sự đưa ra hai trường hợp (sau khi ông Hiếu không chứng minh được) và hướng giải quyết nếu Nhà máy đã đưa tiền cho ông Hiếu thì ông Hiếu phải trả cho ông Ngoan, bà Nguyệt, và nếu Nhà máy chưa đưa tiền cho ông Hiếu thì Nhà máy phải trả cho ông Ngoan và bà Nguyệt là hợp pháp (trong hướng giải quyết thứ nhất là dựa trên cơ sở các quy định về hoàn trả được lợi về tài sản, và trong hướng giải quyết thứ hai là dựa trên cơ sở các quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán giữa họ (bên mua chưa thanh toán đúng chú thể thì phải thanh toán lại)). Tuy nhiên để đảm bảo được quyền lợi cho ông Ngoan và bà Nguyệt trong trường hợp này thì Tòa dân sự nên kết hợp cả hai giải pháp lại, tức là ông Ngoan, bà Nguyệt có thể đòi phía bên Nhà máy hoặc ông Hiếu.

Câu 7: Nếu sau khi nhận tiền, ông Hiếu gửi khoản tiền này vào Ngân hàng để lấy lãi thì ông Hiếu có nghĩa vụ hoàn trả tiền lãi không? Vì sao?

Trả lời: Nếu sau khi nhận tiền, ông Hiếu gửi khoản tiền này vào Ngân hàng để lấy lãi thì ông Hiếu có nghĩa vụ hoàn trả tiền lãi. Vì: Theo Khoản 1 Điều 601 BLDS 2005 đã quy định người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật và không ngay tình thì phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.

Câu 8: Nếu thóc của bà Nguyệt, ông Ngoan đem đến bán cho Nhà máy, bà Nguyệt, ông Ngoan (ngoài khả năng đòi ông Hiếu) có thể yêu cầu Nhà máy thanh toán không? Vì sao?

Trả lời: Nếu thóc của bà Nguyệt, ông Ngoan đem đến bán cho Nhà máy, bà Nguyệt, ông Ngoan (ngoài khả năng đòi ông Hiếu) có thể yêu cầu Nhà máy thanh toán. Vì: Người đáng ra được nhận tài sản được quyền yêu cầu người đã thực hiện nghĩa vụ không đúng đối tượng tiếp tục thực hiện nghĩa vụ với mình. Căn cứ để thực hiện ở đây không phải là các quy định về hoàn trả tài sản do được lợi không có căn cứ pháp luật mà là các quy định thông thường về giao dịch dân sự được áp dụng giữa họ.[4]

Vấn đề 2: Giao kết hợp đồng có điều kiện.

Tóm tắt bản án:

- Ngày 2/9/1999 Bà Tao lập hợp đồng bán nhà số 36 Nguyễn Thị Diệu cho bà Diệp với giá 900 lượng vàng.

- Ngày 15/9/1999 Bà Tao xác lập lại hợp đồng, bán nhà cho bà Diệp với giá 1.600 lượng vàng.

- Ngày 27/8/2000 Bà Tao lập hợp đồng chuyển nhượng cho ông Phương, bà Thanh nhà số 36 Nguyễn Thị Diệu với giá 800 lượng vàng. Bà Tao đã nhận tiền của ông Phương. Ngoài ra, ông Phương còn nộp tiền hoá giá nhà là 1.197.698.861 đồng, tiền lệ phí trước bạ là 13.307.650 đồng (tương đương 248,16 lượng vàng) theo thoả thuận.

- Trong hợp đồng giữa bà Tao và ông Phương có thoả thuận tất cả các hợp đồng trước đây giữa bà Tao và bà Diệp đã được huỷ bỏ và không có giá trị pháp lý, sau khi bà Tao hoàn thành các thủ tục bán hoá giá nhà và được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà thì hai bên sẽ tiếp tục thực hiện việc mua bán nhà.

- Ngày 16/01/2003 Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất đối với nhà số 36 Nguyễn Thị Diệu cho bà Tao.

- Nhưng sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, bà Tao không tiếp tục thực hiện việc mua bán nhà như đã thoả thuận.

Câu 1: BLDS có cho biết thế nào là hợp đồng giao kết có điều kiện không?

Trả lời:

- BLDS 2005 có quy định về việc giao kết hợp đồng có điều kiện tại Khoản 1 Điều 125: “Trong trường hợp các bên có thoả thuận về điều kiện phát sinh hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự, thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự pháp sinh hoặc bị huỷ bỏ.”

- Chúng ta thấy rằng BLDS 2005 có quy định về hợp đồng dân sự có điều kiện phát sinh nhưng không cho biết đó là loại hợp đồng như thế nào. Thực ra, để là hợp đồng dân sự có điều kiện phát sinh thì đây phải là trường hợp các bên đã thống nhất với nhau về hợp đồng nhưng sự hình thành của hợp đồng còn phụ thuộc vào một điều kiện có thể xảy ra trong tương lai. Trong giai đoạn này, hợp đồng mà các bên muốn xác lập chưa tồn tại mà chỉ ở dạng “dự án” do đó chưa thể áp dụng các quy định tương ứng như điều kiện để hợp đồng có hiệu lực (các điều kiện về mặt hình thức và về mặt nội dung) hay trường hợp hợp đồng vô hiệu.[5]

Câu 2:Trong trường hợp bên chuyển nhượng tài sản chưa có quyền sở hữu tại thời điểm giao kết nhưng đang làm thủ tục hợp thức hoá quyền sở hữu, có quy định nào của BLDS coi đây là hợp đồng giao kết có điều kiện không?

Trả lời:

- Liên quan đến khái niệm “điều kiện” trong “hợp đồng dân sự có điều kiện”, BLDS 2005 không nêu chi tiết. Nhưng, “điều kiện” mà chúng ta đang bàn ở đây phải là một yếu tố nào đó trong tương lai “nhưng không chắc chắn xảy ra trong tương lai” và có ảnh hướng đến sự hình thành của hợp đồng. Tức là yếu tố này phải là yếu tố trong tương lai và nếu xảy ra thì hợp đồng được hình thành, còn nếu yếu tố không xảy ra thì hợp đồng không được hình thành.

š Vậy, trong một thoả thuận về chuyển nhượng tài sản, bên chuyển nhượng tài sản khi chưa có quyền sở hữu tại thời điểm giao kết nhưng đang làm thủ tục hợp thức hoá quyền sở hữu thì đây vẫn chưa được BLDS coi là một hợp đồng giao kết có điều kiện mà chỉ xem đây là một “dự án” chuyển nhượng tài sản. Và, khi nào bên chuyển nhượng được công nhận quyền sở hữu, hoàn thành xong thủ tục hợp thức hoá quyền sở hữu thì “dự án” này mới có thể trở thành hợp đồng giao kết có điều kiện.

Câu 3:Trong Quyết định số 14, Toà án nhân dân tối cao có coi hợp đồng trên là hợp đồng giao kết có điều kiện không?

Trả lời: TrongQuyết định số 14, Toà xác định hợp đồng trên là hợp đồng giao kết có điều kiện. Điều này được thể hiện ở phần xét thấy như sau:

- “Tại hợp đồng ngày 27-8-2000 hai bên thoả thuận: “...Sau khi bà Tao hoàn thành các thủ tục mua hoá giá nhà và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà số 36 Nguyễn Thị Diệu, thì hai bên sẽ làm thủ tục mua bán nhà tại Phòng Công chứng nhà nước và tiếp tục thực hiện việc mua bán nhà.”

- “Ngày 16-1-2003, UBND TPHCM cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với nhà đất tại 36 Nguyễn Thị Diệu cho bà Tao.”

š Như vậy, qua những căn cứ trên, Tòa án xác định hợp đồng mua bán ngôi nhà 36 Nguyễn Thị Diệu giữa bà Tao với vợ chồng ông Phương, bà Thanh là hợp đồng có điều kiện, cho dù như đã phân tích ở trên (câu 2) thì theo BLDS, đây vẫn chưa phải là hợp đồng có điều kiện vì yếu tố để hợp đồng chính thức có hiệu lực vẫn chưa tồn tại đến thời điểm giao kết.

Câu 4:Ngoài bản án này có quyết định nào khác đề cập đến vấn đề này không?

Trả lời: Ngoài bản án này ra, còn có những Quyết định khác cũng đề cập đến vấn đề này. Sau đây là một số ví dụ:

- Theo Toà dân sự TANDTC trong một Quyết định: “Bà Thu và bà Ngọc có ký hợp đồng đặt cọc để bảo đảm cho việc hứa chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Bà Ngọc hứa sau khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên sẽ chuyển nhượng cho bà Thu với giá 400 triệu đồng. Bà Thu nhận đất sau khi bà Ngọc làm xong thủ tục chuyển nhượng. Như vậy, đây là hợp đồng có điều kiện khi nào hoàn tất thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất sẽ chuyển nhượng.”[6]

- Một Quyết định khác, Toà dân sự TANDTC đã xét rằng: “Ngày 6-11-2000, ông Dũng, bà Huyền lập “Hợp đồng mua bán hoặc sang nhượng” căn nhà trên cho ông Hùng với điều kiện: Bên mua phải đặt 50 lượng sàng SJC, sau đó giao tiếp từ 50 đến 150 lượng vàng SJC cho bên bán; bên bán giao giấy tờ liên quan đến căn nhà cho bên mua, để bên mua làm thủ tục hợp thức hoá cho bên bán; khi bên bán đứng tên chủ quyền nhà thì bên mua phải giao đủ vàng, bên bán sẽ giao các giấy tờ nhà và ký các giấy tờ để sang tên cho bên mua. Điệu kiện hai bên đã thoả thuận là “khi bên bán đứng tên chủ quyền nhà” thì hai bên mới chính thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ và mua bán nhà theo quy định. Đây là loại giao dịch dân sự có điều kiện và giao dịch này chỉ phát sinh sau khi ông Dũng, bà Huyền có quyền sở hữu hợp pháp căn nhà.”[7]

Câu 5: Cho đến khi Uỷ ban nhân dân bán hoá giá nhà và cấp giấy chứng nhận cho bà Tao, hợp đồng chuyển nhượng tranh chấp đã tồn tại chưa? Vì sao?

Trả lời: Cho đến khi Uỷ ban nhân dân bán hoá giá nhà và cấp giấy chứng nhận cho bà Tao, hợp đồng chuyển nhượng tranh chấp trên chưa tồn tại. Vì:

- Hợp đồng chuyển nhượng trên đã được Toà xác định là hợp đồng giao kết có điều kiện, nội dung cụ thể của điều kiện là “khi bà Tao đã hoàn thành các thủ tục mua hoá giá nhà và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà...”

- Chưa thoả mãn điều kiện hay nói cách khác là điều kiện chưa xảy ra.

š Khi đó, giao dịch (hợp đồng) không phát sinh (tồn tại). Chỉ khi nào điều kiện xảy ra, cụ thể là bà Tao hoàn thành xong thủ tục bán hoá giá nhà và được cấp giấy chứng nhận thì mới được xem là có tồn tại hợp đồng.

Câu 6: Hệ quả pháp lý khi bà Tao có chủ quyền sở hữu nhà có tranh chấp.

Trả lời: Khi bà Tao có chủ quyền sở hữu nhà có tranh chấp thì điều kiện trong hợp đồng đã xảy ra, hợp đồng chuyển nhượng sẽ phát sinh, tức là sẽ thực sự hình thành và tồn tại. Vậy khi đó, bà Tao phải tiếp tục thực hiện việc mua bán nhà theo thoả thuận giữa hai bên:

- Bà Tao phải làm thủ tục công chứng hợp đồng chuyển nhượng nhà cho ông Phương, bà Thanh để hợp đồng chuyển nhượng có hiệu lực. Sau đó, bà Tao có nghĩa vụ giao nhà cho ông Phương, bà Thanh theo thoả thuận.

- Ông Phương, bà Thanh có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ giá trị căn nhà có thỏa thuận trong hợp đồng cho bà Tao.

Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về việc vận dụng các quy định liên quan đến giao kết hợp đồng có điều kiện.

Trả lời:

- Văn bản pháp luật: BLDS 2005 nêu ra khái niệm về giao dịch dân sự có điều kiện ở Khoản 1 Điều 125: “Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ.” nhưng không nêu rõ thế nào là một giao dịch dân sự có điều kiện.

- Thực tiễn xét xử: Như ở bản án trên, Toà án thường xác định giao dịch dân sự có điều kiện là giao dịch dân sự mà hai bên thoả thuận về một điều kiện trong tương lai mà khi điều kiện đó phát sinh, hai bên sẽ phải thực hiện giao dịch đã thoả thuận.

- Suy nghĩ: BLDS 2005 nêu ra khái niệm về giao dịch dân sự có điều kiện nhưng để hiểu rõ thế nào là một giao dịch dân sự có điều kiện. Chúng ta cần đi theo hướng xác định phổ biến của Toà án trong những bản án liên quan đến vấn đề này, theo đó, trong một giao dịch dân sự mà hai bên thoả thuận về một điều kiện trong tương lai mà khi điều kiện đó phát sinh, hai bên sẽ phải thực hiện giao dịch đã thoả thuận. Trong trường hợp điều kiện chưa xảy ra, thì giao dịch không phát sinh và quan hệ giữa hai bên chưa phải là quan hệ hợp đồng mà các bên muốn xác lập. Hướng xác định này rất rõ ràng, cụ thể, cần được duy trì và phát triển trong các vụ việc tương tự. Trên thực tế xét xử, Toà án đã vận dụng chế định “giao kết hợp đồng có điều kiện” rất linh hoạt, việc “phát hiện” các bên có thoả thuận về điều kiện phát sinh hợp đồng hay không giúp xác định đúng bản chất một hợp đồng có phải là hợp đồng có điều kiện, từ đó sẽ giúp cho việc giải quyết vụ án được thuyết phục hơn. Có thể thấy rằng, các quy định về giao dịch dân sự có điều kiện đã được Toà vận dụng một cách rất khéo léo, tạo được sự phù hợp và giúp bảo vệ tốt hơn cho quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ giao dịch dân sự.

Vấn đề 3: Hình thức hợp đồng.

Tóm tắt bản án: Ông Thành cùng những người anh em là con của ông Diêu, bà Định. Sau khi bà Định chết, ông Diêu tự ý ký giấy chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất tài sản chung của vợ chồng ông Diêu, bà Định cho ông Ngọc mà không có ý kiến của các con là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà Định. Ông Thành cho rằng đây là vi phạm pháp luật, nên khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên vô hiệu nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng thừa kế của bà Định.

Câu 1: Hợp đồng trong tình huống trên có phải công chứng chứng thực không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Trả lời: Căn cứ theo Khoản 1 Điều 122 Luật Nhà Ở 2014 về “Công chứng, chứng thực hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở” thì:

“Trường hợp mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

Đối với các giao dịch quy định tại khoản này thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực hợp đồng.”

š Vì hợp đồng trên là hợp đồng mua bán nhà ở nên cần phải công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật.

Câu 2: Nếu nay một bên yêu cầu tuyên bố vô hiệu về hình thức, Tòa án sẽ giải quyết như thế nào?

Trả lời: Theo Điều 134 BLDS 2005về “Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức” thì:

“Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.”

š Theo đó, nếu có yêu cầu của một hoặc các bên tuyên bố hợp đồng vô hiệu, Tòa áncó thể ra quyết định yêu cầu một hoặc các bên phải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong một thời hạn nhất định, kể từ ngày Tòa án ra quyết định để hoàn thiện hình thức hợp đồng. Cụ thể trong tình huống này có thể yêu cầu các bên đi công chứng hợp đồng mua bán trên. Quá thời hạn đó mà các bên không hoàn thiện các thủ tục hình thức thì Tòa án có quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

Câu 3: Theo quan điểm cá nhân của anh/chị, có nên công nhận hợp đồng trên không? Vì sao?

Trả lời: Theo Nghị quyết số 02/2004, trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng đất vi phạm điều kiện này: “Nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố,… và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Tòa án công nhận hợp đồng” š Do đó, trong trường hợp này, cần làm rõ nếu công nhận một phần hợp đồng mua bán giữa bà Nga và bà Tuyến thì có ảnh hưởng tới việc sử dụng nhà đất của các đương sự hay không? Nếu ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc sử dụng nhà của hai bên thì Tòa án nên công nhận toàn bộ hợp đồng mua bán nhà giữa bà Nga và bà Tuyến.

Câu 4: Việc Tòa án xác định hợp đồng chuyển nhượng vi phạm về hình thức và hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong bản án 41 có thuyết phục không? Vì sao?

Trả lời: Việc Tòa án xác định hợp đồng chuyển nhượng vi phạm về hình thức hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong bản án 41 hoàn toàn thuyết phục vì hợp đồng đã được ông Diêu và ông Ngọc ký ngày 27/10/2007, mặc dù không đảm bảo về hình thức do không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận nhưng đến ngày 2/11/2009, ông Thành mới có đơn khởi kiện đề ngày 29/10/2009 yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu là đã quá 2 năm kể từ ngày hợp đồng xác lập.

š Do đó theo Khoản 1 Điều 126 BLDS 2005 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng trênvô hiệu về hình thức đã hết.

š Vậy, việc Tòa án xác định hợp đồng chuyển nhượng vi phạm về hình thức và hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu làhoàn toàn hợp lí.

Câu 5: Hệ quả pháp lý, theo văn bản hiện hành, của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức.

Trả lời: Theo quy định của BLDS 2005 thì không phải giao dịch dân sự nào vi phạm điều kiện về hình thức cũng bị vô hiệu. Nếu giao dịch dân sự có vi phạm điều kiện về hình thức mà các bên không khởi kiện yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức thì Toà án không xem xét; nếu trường hợp đương sự yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu do vi phạm về hình thức thì theo quy định tại Điều 136 BLDS 2005, thời gian tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về hình thức chỉ có hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập, quá thời hạn này đương sự mới yêu cầu thì Toà án không chấp nhận yêu cầu đó, nghĩa là hợp đồng vẫn có hiệu lực.

Câu 6: Việc Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng sau khi xác định có vi phạm quy định hình thức và hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu có thuyết phục không? Vì sao?

Trả lời: BLDS 2005 tôn trọng những giao dịch dân sự mà trong đó, các bên tham gia giao dịch tự định đoạt giao dịch của mình. Đối với trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 134 BLDS 2005), thì thời hiệu để các bên tham gia giao dịch quyết định việc có yêu cầu Tòa án bảo vệ hay không là hai năm. Nếu họ không khởi kiện trong thời hạn này thì có nghĩa là họ từ chối quyền yêu cầu được pháp luật bảo vệ. Do đó, việc Tòa án vẫn công nhận hợp đồng trên là điều hợp lý, thuyết phục.

Vấn đề 4: Hợp đồng chính/phụ vô hiệu.

Câu 1: Thế nào là hợp đồng chính và hợp đồng phụ? Cho ví dụ minh họa đối với mỗi loại hợp đồng.

Trả lời:

- Hợp đồng chính:

+ Khoản 3 Điều 406 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ.”

š Hợp đồng chính là một hợp đồng tồn tại độc lập và được công nhận là có hiệu lực không lệ thuộc vào sự tồn tại của hợp đồng phụ, cũng như hiệu lực của hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

+ Ví dụ: Hợp đồng vay tiền có thế chấp tài sản đảm bảo. Ta thấy rằng hợp đồng vay tiền là một hợp đồng độc lập, không nhất thiết luôn cần phải có sự đảm bảo bằng tài sản thế chấp. Trường hợp khi hợp đồng thế chấp tài sản bị vô hiệu thì cũng không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng vay tiền.

- Hợp đồng phụ:

+ Khoản 4 Điều 406 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính.”

š Hợp đồng phụ chỉ có thể xác lập, tồn tại cùng với hợp đồng chính và có hiệu lực lệ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng chính. Khi hợp đồng chính vô hiệu thì sẽ làm chấm dứt hợp đồng phụ. Khi hợp đồng phụ vô hiệu thì không làm chấm dứt hợp đồng chính trừ trường hợp các bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.

+ Ví dụ: Hợp đồng bảo lãnh thế chấp tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Ta thấy rằng hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng chính còn hợp đồng thế chấp là hợp đồng phụ. Hợp đồng thế chấp phát sinh phục vụ cho hợp đồng bảo lãnh. Khi hợp đồng thế chấp bị vô hiệu thì không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh.

Câu 2: Các quy định về hợp đồng chính/phụ vô hiệu có tồn tại trong BLDS năm 1995 không?

Trả lời:

- Các quy định về hợp đồng chính/phụ vô hiệu không tồn tại trong BLDS 1995.

- Hợp đồng chính/phụ vô hiệu được quy định tại Khoản 2, 3 Điều 410 BLDS 2005.

Câu 3: Trong vụ việc trên, ai là người (chủ thể) có nghĩa vụ trả tiền Ngân hàng?

Trả lời: Trong vụ việc trên, công ty Thiên Minh là chủ thể có nghĩa vụ trả tiền ngân hàng vì công ty Thiên Minh là bên vay trong hợp đồng vay tiền với ngân hàng. Bà Quế chỉ là người đứng ra bảo lãnh cho công ty Thiên Minh vay tiền Ngân hàng.

Câu 4: Bà Quế tham gia quan hệ trên với tư cách gì? Vì sao?

Trả lời: Bà Quế tham gia quan hệ trên với tư cách là Bên bảo lãnh, vì bà Quế đã đứng ra bảo lãnh cho công ty Thiên Minh bằng một bất động sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà Quế.

Câu 5: Việc Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu có thuyết phục không? Vì sao?

Trả lời:

- Tòa án tuyên hợp đồng thế chấp trên vô hiệu là hợp lý.

- Hợp đồng thế chấp của bà Quế tuy đúng về hình thức (được công chứng) nhưng sai về mặt nội dung dẫn đến vô hiệu. Khi muốn thế chấp tài sản, thì tài sản phải thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp. Trường hợp này bà Quế đã thế chấp tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng trong thời kì hôn nhân mà không có sự đồng ý của chồng bà Quế. Điều này được căn cứ vào:

+ Khoản 1 Điều 219 BLDS 2005: “Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất.”

+ Khoản 1 Điều 217 BLDS 2005: “Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung.”

š Do đó việc bà Quế một mình đem bất động sản này đi thế chấp mà không có sự đồng ý của chồng bà là trái pháp luật. Vì vậy, hợp đồng thế chấp này vô hiệu.

Câu 6: Theo Tòa án, bà Quế có còn trách nhiệm gì với Ngân hàng không?

Trả lời: Theo Tòa án, bà Quế không còn trách nhiệm gì với Ngân hàng. Điều này thể hiện ở đoạn “không có cơ sở để buộc bà Quế phải chịu trách nhiệm dân sự đối với các khoản nợ nêu trên.”

Câu 7: Suy nghĩa của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong vụ việc trên liên quan đến trách nhiệm của bà Quế.

Trả lời:

- Hướng giải quyết của Tòa án với vụ việc trên là chưa hợp lý. Vì trong vụ việc này tồn tại 3 hợp đồng:

+ Hợp đồng vay tiền giữaNgân hàng và công ty Thiên Minh;

+ Hợp đồng bảo lãnh giữa bà Quế với Ngân hàng (bà Quế là bên bảo lãnh -bên có nghĩa vụ và Ngân hàng là bên nhận bảo lãnh - bên có quyền);

+ Hợp đồng thế chấp giữa bà Quế với Ngân hàng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

š Qua đó, xét mối quan hệ giữa các hợp đồng thì:

+ Hợp đồng bảo lãnh giữa bà Quế và Ngân hàng là hợp đồng phụ của hợp đồng vay tiền giữa Ngân hàng và công ty Thiên Minh và hợp đồng vay tiền là hợp đồng chính. Nếu không có việc công ty Thiên Minh vay tiền của Ngân hàng, thì bà Quế không đứng ra bảo lãnh. Hợp đồng bảo lãnh tồn tại phụ thuộc vào hợp đồng vay tiền. Giả sử hợp đồng vay tiền vô hiệu thì mặc nhiên hợp đồng bảo lãnh chấm dứt.

+ Hợp đồng thế chấp bất động sản giữa bà Quế và ngân hàng để đảm bảo thực hiện việc bảo lãnh là một hợp đồng phụ của hợp đồng bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng chính của hợp đồng thế chấp. Có thể nhận thấy rõ ràng hợp đồng thế chấp sinh ra để phục vụ cho hợp đồng bảo lãnh và nó cũng tồn tại phụ thuộc vào hợp đồng bảo lãnh.

š Theo lẽ đó, Tòa án tuyên hợp đồng thế chấp bất động sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà Quế là vô hiệu thì không ảnh hưởng gì đến hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh giữa bà Quế và Ngân hàng. Vì vậy, nghĩa vụ bảo lãnh của bà Quế vẫn tiếp tục, trách nhiệm của bà Quế vớiNgân hàng vẫn tồn tại, chỉ có một sự thay đổi so với trước đây là từ nghĩa vụ bảo lãnh được bảo đảm bằng thế chấp thì nay trở thành nghĩa vụ không có bảo đảm.

š Do đó, việcTòa tuyên là “không có cơ sở để buộc bà Quế phải chịu trách nhiệm dân sự đối với khoản nợ nêu trên” thì có thể xem là tương tự với tuyên hợp đồng bảo lãnh vô hiệu là chưa hợp lý.


[1] Tham khảo Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức, tr41-44;

[2] Tham khảo Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức, tr41-44;

[3] Tham khảo Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và Bình luận bản án, Nxb. CTQG 2014, Bản án số 15-18;

[4] Tham khảo Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và Bình luận bản án, Nxb. CTQG 2014, Bản án số 15-18;

[5] Tham khảo Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án, Nxb. CTQG 2013, tr.222-225;