10 quốc gia giàu khoáng sản hàng đầu ở Châu Phi năm 2022

 
Sự kiện này là "một khởi đầu tốt" sau khi thế giới gần đây đã có cách nhìn nhận mới về lục địa này. Châu Phi đang có những đổi thay đáng ghi nhận  và thế giới hiện nay quan tâm nhiều đến châu Phi.

Tiềm năng to lớn

Châu Phi có diện tích lớn thứ ba thế giới, sau châu Á và châu Mỹ. Số dân hiện nay là 820 triệu người. Nhiều quốc gia châu Phi có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, trữ lượng dồi dào. Đứng đầu trong số đó là CH Nam Phi. Nam Phi đứng hàng đầu thế giới về trữ lượng vàng và khai thác vàng, đồng thời còn nhiều kim loại quý hiếm khác. Angola và CHDC Congo nổi tiếng về kim cương, nhôm, chì, thiếc, đồng,  cà-phê và chế biến gỗ. Ma-rốc, Xa-ra-uy có trữ lượng phốt-phát khổng lồ. Cốt Đi-voa là nước sản xuất ca cao lớn nhất thế giới. Châu Phi có nhiều nước có trữ lượng dầu mỏ và khí đốt lớn: Algeria, Libya, Chad, Sudan, Angola, Nigieria, CHDC Congo...

Trong bối cảnh giá dầu tăng cao và tình hình mất ổn định ở Trung Đông, nguồn dầu mỏ của châu Phi ngày càng có sức hấp dẫn lớn các nước công nghiệp phát triển, nhất là Mỹ, nước tiêu dùng dầu mỏ nhiều nhất thế giới. Chỉ riêng nguồn dầu mỏ của Vịnh Ghi-nê, Chad hay Sudan đã có thể cho phép Mỹ giảm đáng kể sự lo ngại phụ thuộc vào Trung Đông. Hiện nay, dầu thô nhập từ châu Phi chiếm 15% tổng số dầu nhập khẩu vào Mỹ. Con số này sẽ lên đến 25% trong vòng mười năm tới. Chính dầu mỏ là một trong những nguyên nhân lớn quyết định việc Mỹ và một số nước khác thực hiện chính sách tăng cường quan hệ với châu Phi. Tại châu Phi, bên cạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên và sự nghèo nàn của một số quốc gia, vẫn có những nước có khí hậu ôn hòa, giàu tiềm năng phát triển nông nghiệp, chăn nuôi, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, đánh bắt cá như  Algeria, Ai Cập, Ma-rốc, Tunisia , Mali, Senegal , CH Nam Phi. Nhiều nước ở khu vực Bắc Phi, Tây Phi hoặc ở miền nam châu Phi có đủ sản vật phong phú, phong cảnh tươi đẹp, có những điểm du lịch nổi tiếng, trong đó có thể kể đến Ai Cập, Algeria, Tunisia , Ma-rốc, Tanzania, Namibia, Nam Phi, v.v. Trong các cộng đồng dân cư ở châu Phi, lớp người trẻ dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ khá cao, là nguồn cung cấp nhân lực dồi dào cho các thị trường lao động ở châu lục cũng như tại nhiều nước trong Liên hiệp châu Ấu (EU).

Từ nhiều năm nay, châu Phi được các cường quốc  trên thế giới rất chú ý về vị trí địa - chính trị. Tại châu Phi, Mỹ và Pháp đã lập những căn cứ quân sự lớn kiểm soát nhiều tuyến đường huyết mạch trên Biển Đỏ và Đại Tây Dương. Nhiều năm nay, các đơn vị quân đội Mỹ đóng ở Kenya , Eritrea, Ethiopia thường xuyên tuần tiễu ở Ần Độ Dương và kiểm soát con đường qua Biển Đỏ, tới kênh Suez đi sang Trung Đông. Sau sự kiện ngày 11-9-2001 ở Mỹ, do nhu cầu bảo đảm an ninh cho mình, Washington  hết sức quan tâm tới châu Phi, nơi được cho là có căn cứ của mạng lưới khủng bố. Tháng 5-2005, Washington  lập đề án "Sáng kiến chống khủng bố xuyên Sahara ". Theo đề án này, Mỹ chi 100 triệu USD mỗi năm nhằm ngăn chặn khủng bố và kiểm soát an ninh vùng phía nam sa mạc Sahara , trong đó chú trọng khu vực phía bắc Nigeria . Đã có chín nước châu Phi  tham gia đề án này. Ngoài ra, Washington  rất lo ngại tình trạng nội chiến ở Sudan . Nếu hòa bình không được thiết lập ở miền nam Sudan , thì các mỏ dầu tập trung nhiều ở vùng này không thể hoạt động và không có lợi cho Mỹ. Không những có vị trí an ninh chiến lược, châu Phi giờ đây còn là một thị trường lớn, gồm hơn 50 quốc gia đang phát triển, phần lớn trong số đó đang bước vào nền kinh tế thị trường năng động. Vì thế nên không phải chỉ có Mỹ, các nước EU, mà còn nhiều nước Mỹ la-tinh và châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Ần Độ, Malaysia, Singapore,. v.v. đều rất chú ý đến thị trường châu Phi. Các nước này coi châu Phi cũng như châu Á, là những "thị trường của tương lai". Bra-xin, Nhật Bản, Trung Quốc, Ần Độ, Malaysia, Singapore... thời gian qua đều tăng viện trợ  và đẩy mạnh các mối quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại với các nước châu Phi. Tại lục địa này  đang diễn ra một cuộc chạy đua lớn tranh giành ảnh hưởng chính trị - kinh tế  giữa Mỹ và Pháp và với các nước khác.

Chàng khổng lồ thức tỉnh

Có tiềm năng dồi dào, vậy vì sao đến nay châu Phi vẫn là lục địa nghèo nhất thế giới? Làm gì để châu Phi thoát ra khỏi những căn bệnh lâu năm  là khủng hoảng, dịch bệnh, xung đột và nội chiến?

Trước hết, châu Phi vốn là thuộc địa do nhiều nước thực dân, đế quốc trước kia chiếm giữ. Các quốc gia tại đây đã từng bị chia cắt để trị, bị xâu xé, bị vơ vét và bần cùng hóa đến tận xương tủy. Vì vậy đến nay, tình trạng lạc hậu, kinh tế chậm phát triển, mất cân đối còn nặng nề, nông nghiệp thô sơ, hạ tầng cơ sở thiếu, nền giáo dục, y tế kém. Phần lớn các nước giành độc lập chưa lâu, chỉ từ năm 1960 trở lại đây. Có nước như Zimbabwe  mới giành được độc lập năm 1980. Nam Phi mới thoát khỏi chế độ Apacthai được 11 năm nay để đi vào con đường phát triển đất nước. Châu Phi cần có khoảng thời gian nhiều thập kỷ để thay đổi. Sau hàng trăm năm làm thuộc địa, cho nên hàng chục nước châu Phi luôn ở trong tình trạng nghèo khổ và lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tình trạng đó dẫn đến những cuộc khủng hoảng toàn diện sâu sắc. Các mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn sắc tộc, xung đột - nội chiến và dịch bệnh  là những căn bệnh kinh niên ở châu Phi. Đối với nhiều nước chưa phát triển như ở châu Phi, đây là một cái vòng luẩn quẩn khó gỡ.

Châu Phi hiện nay nhiều khó khăn, chỉ chiếm 1% GDP  và 2% kim ngạch thương mại thế giới. Thế giới có 48 nước nghèo nhất thì 35 quốc gia nằm ở châu Phi. 40% số dân các nước phía nam sa mạc

Sahara , gồm hơn 30 nước chỉ có mức thu nhập dưới 1 USD/người/ngày. Khoảng 200 triệu dân châu Phi thường xuyên thiếu ăn. Hơn 50 triệu trẻ em đang độ tuổi đi học không được đến trường. Số dân khu vực phía nam sa mạc Sahara  chỉ chiếm 10% dân số thế giới, nhưng chiếm tới 70% số người có HIV (hơn 25 triệu người). Châu Phi cũng là nơi có tỷ lệ thất nghiệp vào loại cao so với các châu lục khác.

Bước sang những năm  đầu  của thế kỷ 21, sau mấy chục năm dài bất ổn, làn sóng khủng hoảng ở châu Phi đã có phần lắng dịu. Nguyên nhân chủ yếu là do xu hướng liên kết, hòa bình đối thoại ngày càng tăng trên thế giới, các cuộc cạnh tranh kinh tế diễn ra gay gắt và xu hướng toàn cầu hóa lan rộng đòi hỏi mỗi quốc gia phải ổn định, hòa bình, phát triển để tồn tại. Trong khi đó tại châu Phi, nước Nam Phi mới - nền kinh tế mạnh nhất trên lục địa, đã phát triển được một số năm và bắt đầu phát huy tác dụng đầu tàu kinh tế. Những  điểm sáng khác về phát triển kinh tế như Tunisia , Algeria, Li-bi, Mali, Namibia... được duy trì. Một loạt các cuộc khủng hoảng như ở Angola , Rwanda  được tìm cách tháo gỡ. Liên tiếp từ đầu năm 2005 đến nay, các cuộc khủng hoảng tại Sudan, Cote d' Ivore, Burundi... lần lượt được giải quyết và khai thông bế tắc. Nhiều nước châu Phi nhận thấy phải cải tổ và đẩy mạnh  cải cách. Do vậy nên  tại châu Phi đã xuất hiện những tín hiệu đáng mừng về tăng trưởng kinh tế.

Theo báo cáo mới đây của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và Ngân hàng phát triển châu Phi (BAD), năm 2004, nền kinh tế của châu Phi đạt tốc độ tăng trưởng 5,1% và là mức cao nhất trong vòng tám năm nay. Cũng trong năm 2004, lạm phát của châu Phi giảm xuống còn 7,5% và là mức thấp nhất từ trước đến nay. Đây là lần đầu trong hơn 20 năm qua kinh tế châu Phi đạt mức phát triển hơn 4%/năm  trong hai năm liên tiếp. Dự báo, năm 2005, tăng trưởng kinh tế của châu lục này có thể đạt 4,7% và năm 2006 có thể đạt tới  5,2%.

Theo ADB, những nguyên nhân giúp kinh tế châu Phi đạt mức tăng trưởng kỷ lục này là nhờ sự phục hồi của nền kinh tế thế giới, giá hàng hóa hợp lý và nguyên nhân quan trọng là có nhiều tiến bộ trong phương thức quản lý kinh tế vĩ  mô ở các nước châu Phi trong năm qua.

Bên cạnh tiến bộ về kinh tế, mấy năm qua, tại châu Phi cũng đã diễn ra nhiều thay đổi về chính trị. Tháng 7-2002, Tổ chức Thống nhất châu Phi (OAU) với cơ chế cũ đã giải tán, thay vào đó là việc thành lập Liên minh châu Phi (AU) với sự liên kết mạnh mẽ hơn, bộ máy lãnh đạo có hiệu quả hơn. AU đã vạch ra một kế hoạch chiến lược phát triển kinh tế mới, năng động cho châu Phi, đó là "Chương trình đối tác mới vì sự phát triển châu Phi" (NEPAD). HNCC AU họp tại thành phố Xi-tê (Li-bi) đầu tháng 7-2005 đã xem xét những tiến bộ đạt được, rút ra những kinh nghiệm bước đầu sau ba năm thực hiện NEPAD. Hội nghị một lần nữa xác định NEPAD là giải pháp cho sự phát triển chung của châu Phi và là nền tảng để các nước thành viên vươn lên, nỗ lực đoàn kết tối đa nhằm góp phần đưa châu Phi  dần dần thoát khỏi tình trạng đói nghèo và chậm phát triển. Vững tin vào tiềm năng của mình, từng bước khắc phục các cuộc khủng hoảng, kinh tế tăng trưởng, lại được sự giúp đỡ của G-8 và cộng đồng quốc tế, các nước châu Phi đang có nhiều nỗ lực phát triển kinh tế, nâng cao vai trò của châu Phi trên trường quốc tế.

Ngành công nghiệp khoáng sản của Châu Phi là ngành công nghiệp khoáng sản lớn thứ hai trên thế giới. Châu Phi là lục địa lớn thứ hai, với 30,37 triệu km vuông, ngụ ý một lượng lớn tài nguyên. Với dân số 1,216 tỷ sống ở đó. Đối với nhiều nước châu Phi, thăm dò và sản xuất khoáng sản tạo thành một phần quan trọng của nền kinh tế của họ và vẫn là chìa khóa cho tăng trưởng kinh tế. Châu Phi có rất nhiều dự trữ khoáng sản và xếp hạng đầu tiên về số lượng dự trữ bauxite, coban, kim cương công nghiệp, đá phốt phát, kim loại nhóm bạch kim (PGM), vermiculite và zirconium.

Công ty khai thác và khai thác Trung Phi (CAMEC), một trong những doanh nghiệp khai thác chính của Châu Phi, bị chỉ trích vì tác động môi trường không được kiểm soát và quản lý xã hội tối thiểu. Vào mùa xuân năm 2009, tài sản của người chơi cricket người Anh đã nghỉ hưu Phil Edmonds đã bị Chính phủ Vương quốc Anh bắt giữ do sự liên kết bất hợp pháp của Camec với cựu Tổng thống Zimbabwe tự bổ nhiệm Robert Mugabe Camec gần đây đã bán 95,4% cổ phần của mình cho Tập đoàn Tài nguyên thiên nhiên Á-Âu. Nó đang được tái cấu trúc và không còn giao dịch dưới thương hiệu Camec. [1]

Dự trữ khoáng sản châu Phi xếp thứ nhất hoặc thứ hai cho bauxite, coban, kim cương, đá phốt phát, kim loại nhóm bạch kim (PGM), vermiculite và zirconium. [2] Nhiều khoáng chất khác có mặt với số lượng. Tỷ lệ sản xuất thế giới năm 2012 từ đất châu Phi là bauxite 7%; Nhôm 5%; Chromite 38%; coban 60%; đồng 9%; vàng 20%; quặng sắt 2%; Thép 1%; chì (PB) 2%; mangan 38%; kẽm 1%; xi măng 4%; Kim cương tự nhiên 56%; than chì 2%; Đá phốt phát 21%; than 4%; Nhiên liệu khoáng sản (bao gồm than) - 13% và dầu mỏ 8%; Uranium 18%; [3] và bạch kim 69,4%.

Nhà sản xuất chính [Chỉnh sửa][edit]

Kể từ năm 2005, các khoáng sản chiến lược và các nhà sản xuất quan trọng là:

Vật chấtPhần trăm sản xuất thế giớiQuốc giaTham khảo
Kim cương73%Botswana 35%; Congo (Kinshasa) 34%; Nam Phi 17%; Angola, 8%[4]
Vàng89%Nam Phi 56%; Ghana, 13%; Tanzania, 10%; và Mali, 8%[5]
Uranium16%Namibia 46%; Nigeria 44%; Nam Phi ít hơn 10%[6]
Bauxite (cho nhôm)9%Guinea 95%; Ghana 5%[7]
Thép2%Nam Phi 54%; Ai Cập 32%; Libya 7%; Algeria 6%[5]
Uranium16%Namibia 46%; Nigeria 44%; Nam Phi ít hơn 10%[7]
Thép2%Nam Phi 54%; Ai Cập 32%; Libya 7%; Algeria 6%[7]
Thép2%Nam Phi 54%; Ai Cập 32%; Libya 7%; Algeria 6%Nhôm
5%16%Namibia 46%; Nigeria 44%; Nam Phi ít hơn 10%[4]

Vàng

Economics[edit][edit]

89%[edit]

Nam Phi 56%; Ghana, 13%; Tanzania, 10%; và Mali, 8%

[5][edit]

Uranium

The mineral industry's exports make up an important part of the African gross income. Ongoing mining projects of more than US$1 billion are taking place in South Africa (PGM 69%; gold:31%), Guinea (bauxite and aluminium), Madagascar (nickel), Mozambique (coal), Congo (Kinshasa) and Zambia (cobalt and copper), Nigeria and Sudan (crude petroleum), Senegal (iron), and many others.

Investment[edit][edit]

The Department of Mineral Resources of South Africa reported that investment in newly committed precious metals projects in South Africa—those for which funds had already been committed or were being expended—was $8.26 billion in 2005. An additional $9.56 billion was reported for potential precious metals projects in South Africa (that is, feasibility-level projects for which funds had not yet been committed). PGM accounted for 69% of the investment and gold 31%. Potential investments in iron ore projects was at least $950 million. Investment in newly committed processed minerals projects amounted to $681 million, and potential processed minerals projects is $584 million.[10]

By 2008, capital expenditure for the heavy mineral sands project at Mandena in Madagascar was expected to total $585 million; at Moma in Mozambique, $348 million; and at Kwale in Kenya, $178 million. By 2010, capital expenditures for bauxite and alumina in Guinea were likely to total more than $2.35 billion; nickel in Madagascar, $2.25 billion; and coal in Mozambique, $1 billion. Substantial capital expenditures were also likely for aluminum in Mozambique and South Africa, cobalt and copper in the Democratic Republic of the Congo (Congo-Kinshasa) and Zambia, crude petroleum in Nigeria and Sudan, iron ore in Senegal, and natural gas in Nigeria.[10] However, commercial investment in mining in Africa has been shown to increase the likelihood of protests in the surrounding area.[11]

Exploration[edit][edit]

Exploration activity, as defined by African exploration budgets reported by the MEG[who?], increased to $807 million in 2005 from $572 million in 2004. Africa's share of the world exploration budget increased slightly to 16.5% in 2005 from 16.1% in 2004. In 2005, the principal mineral targets in Africa were copper, diamond, gold, and platinum group metals (PGM).[10]

African countries that experienced the highest levels of exploration activity in 2005 were, in descending order based on the number of exploration sites as compiled by the USGS, South Africa, Burkina Faso, Ghana, and Zambia, but activity took place in a number of other countries. Gold accounted for approximately 51% of reported African exploration projects, diamond accounted for about 14%, copper and PGM each accounted for about 11%, and nickel accounted for 5%. Early stage projects accounted for about 77% of the 2005 activity, and feasibility stage projects accounted for about 12%.[10]

Australian and Canadian junior companies continued to invest time and money to explore Africa. South African companies continued to expend a sizable amount of their exploration resources outside of South Africa.[10]

Trade[edit][edit]

Africa's current account surplus amounted to 2.3% of its GDP in 2005 versus 0.1% of GDP in 2004. In 2005, sub-Saharan countries ran an average deficit of 0.6% of the GDP, and countries in the Arab Maghreb Union ran an average surplus of 12.2% of GDP. Trade surpluses in oil-exporting countries more than offset trade deficits in oil-importing countries.[10]

Oil-importing countries had an average current account deficit of 3.3% of the GDP in 2005, and oil-exporting countries had an average current account surplus of 12.2% of GDP. Out of 33 African nations for which information was available, 20 countries experienced a decline in their terms of trade between 2002 and 2005 and 13 experienced an improvement. Oil importers experienced the worst decline. However, Botswana's terms of trade improved because higher prices for oil imports were more than offset by higher prices for diamond exports. Similar reasoning held for Mozambique because of higher prices for aluminum; in Niger, for uranium; and in Zambia, for copper.[10]

The average current account deficit for oil-importing countries is expected to increase to 4.1% of the GDP in 2006 and to 3.8% of the GDP in 2007. For oil-exporting countries, the surplus is predicted to rise to 15.4% of the GDP in 2006 and 15.8% of the GDP in 2007. Africa was expected to run a current account surplus of 3.6% of the GDP in 2006 and 4.2% of the GDP in 2007.[10]

In 2004 or 2005, mineral fuels accounted for more than 90% of the export earnings of Algeria, Equatorial Guinea, Libya, and Nigeria. Minerals and mineral fuels accounted for more than 80% of the export earnings of Botswana (led by, in order of value, diamond, copper, nickel, soda ash, and gold), Congo (Brazzaville) (petroleum), Congo (Kinshasa) (diamond, petroleum, cobalt, and copper), Gabon (petroleum and manganese), Guinea (bauxite, alumina, gold, and diamond), Sierra Leone (diamond), and Sudan (petroleum and gold). Minerals and mineral fuels accounted for more than 50% of the export earnings of Mali (gold), Mauritania (iron ore), Mozambique (aluminum), Namibia (diamond, uranium, gold, and zinc), and Zambia (copper and cobalt). Gold was a significant source of export earnings in Ghana, South Africa, and Tanzania. Diamond was a significant source of export earnings in the Central African Republic and South Africa, as was uranium in Niger.[10]

Khí châu Phi
% của sự sản xuấtĐiểm đến của LNG
Algeria72%Châu Âu88%
Nigeria13%Hoa Kỳ11%
Ai Cập9%Châu Á1%
Libya6%

Các nhà xuất khẩu khí đốt tự nhiên của Châu Phi bao gồm Algeria, có 72%xuất khẩu khí đốt tự nhiên của lục địa, Nigeria, 13%, Ai Cập, 9%và Libya, 6%. Châu Âu đã nhận được 91% tổng số xuất khẩu khí đốt tự nhiên của châu Phi và là điểm đến của 95% xuất khẩu khí đốt tự nhiên của Châu Phi theo đường ống và 88% xuất khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) của Châu Phi. Hoa Kỳ đã nhận được 11% xuất khẩu LNG của Châu Phi và các quốc gia của Châu Á và Khu vực Thái Bình Dương, 1%. [10]

Năm 2005, châu Âu đã nhận được 35% xuất khẩu dầu mỏ của châu Phi; Hoa Kỳ, 32%; Trung Quốc, 10%; Nhật Bản, 2%; và các quốc gia khác ở châu Á và khu vực Thái Bình Dương, 12%. Các nước Tây Phi đã gửi 45% xuất khẩu của họ sang Hoa Kỳ và 32% cho Trung Quốc, Nhật Bản và các quốc gia khác ở châu Á và khu vực Thái Bình Dương. Các nước Bắc Phi đã gửi 64% xuất khẩu của họ sang châu Âu và 18% cho Hoa Kỳ. Xuất khẩu xâm nhập sang các nước châu Phi chỉ chiếm 2% tổng số xuất khẩu dầu khí châu Phi. [10]

Tuy nhiên, thương mại khoáng sản intaregional rất có ý nghĩa trong trường hợp vàng. Nam Phi đã nhập khẩu 142.000 kg mỗi năm vàng, chủ yếu từ các nước Tây Phi, để cung cấp nhà máy lọc vàng. Phần lớn sản lượng mỏ vàng châu Phi đã được tinh chế ở Nam Phi trước khi xuất khẩu sang các khu vực khác. [10]

Hầu hết các kim loại đồng và bạch kim của châu Phi sản xuất PGM được xuất khẩu ở dạng tinh chế. Phần lớn sản xuất crôm của Châu Phi đã được xử lý thành Ferrochromium trước khi xuất khẩu. Đối với các mặt hàng khác, bao gồm bauxite, đá quý màu, kim cương, quặng sắt, dầu mỏ và uranium, hầu hết hoặc tất cả sản lượng của lục địa đã được xuất khẩu trước khi xử lý hạ nguồn. [10]

Legislation[edit][edit]

Vào tháng 9 năm 2004, chính phủ Eritrea đã ra lệnh tạm dừng tất cả các hoạt động thăm dò khoáng sản ở nước này trong khi xem xét Đạo luật Khai thác của mình. Việc đình chỉ chính phủ đã được dỡ bỏ vào tháng 1 năm 2005. Chính phủ đã tăng lợi ích vốn chủ sở hữu tối đa có thể mà họ có thể nắm giữ trong một dự án thông qua thỏa thuận tùy chọn từ 20% lên 30%. [10]

Có hiệu lực vào ngày 28 tháng 2 năm 2005, các nhà sản xuất bạch kim không còn có thể nắm giữ số tiền thu được từ hoạt động khai thác của Zimbabwe trong các tài khoản nước ngoài để tài trợ cho việc thăm dò và phát triển ở quốc gia đó. Việc mất quyền truy cập trực tiếp vào các khoản thu nhập này có thể khiến các công ty nước ngoài gặp khó khăn hơn trong việc tài trợ cho việc thăm dò tại Zimbabwe. [10]

Vào cuối năm 2004, Chính phủ Liberia đã thông qua luật quy định cho các biện pháp kiểm soát về xuất khẩu, nhập khẩu và vận chuyển kim cương thô. Ngoài ra, chính phủ đã đình chỉ việc cấp tất cả các giấy phép khai thác kim cương và đặt lệnh cấm đối với triển vọng kim cương phù sa. [10]

Vào ngày 15 tháng 12 năm 2005, Quốc hội Ghana đã thông qua một khoáng sản và luật khai thác mới (Luật số 703). Luật mới cung cấp quyền truy cập vào quyền khoáng sản trên cơ sở ai đến trước, được xem xét trước; một khung thời gian cụ thể trong đó tất cả các ứng dụng nên được cấp; quyền cho người nộp đơn yêu cầu lý do bằng văn bản từ Bộ trưởng nếu một đơn bị từ chối; quyền của chính phủ để có được đất hoặc ủy quyền cho nghề nghiệp và sử dụng của mình nếu đất được yêu cầu cho mục đích khai thác; việc thành lập một hệ thống địa chính để quản lý quyền khoáng sản; việc thiết lập phạm vi tỷ lệ tiền bản quyền cho phép không dưới 3% hoặc hơn 6% tổng doanh thu khai thác; quyền của chính phủ để có được lãi suất miễn phí 10% đối với các hợp đồng khai thác; và việc thiết lập thời gian cho thuê khai thác, không quá 30 năm và có thể được gia hạn một lần trong một khoảng thời gian không vượt quá 30 năm nữa. [10]

Tại Nam Phi, chương trình trao quyền kinh tế đen của chính phủ yêu cầu quyền sở hữu đen của ngành khai thác đạt 15% vào năm 2009 và 26% vào năm 2014. Các hành động gần đây để tăng quyền sở hữu đen bao gồm việc mua lại 20% các cánh đồng vàng của tài nguyên Mvelaphanda thuộc sở hữu đen Ltd. vào năm 2009; Việc chuyển nhượng các mỏ do Anglogold Ashanti tổ chức sang khoáng sản cầu vồng châu Phi thuộc sở hữu đen; và việc mua lại 30% của Sallies Ltd. bởi Tổ chức đầu tư thời Phục hưng châu Phi (PTY) Ltd. [10]

Environment[edit][edit]

Phá rừng sử dụng nhiên liệu và sản xuất nông nghiệp thâm dụng đất tiếp tục là một vấn đề môi trường quan trọng ở nhiều nước châu Phi. [12] Các nguyên nhân khác của nạn phá rừng bao gồm sản xuất đá quý, vôi và cát và sỏi. Đường ống khí Tây Phi, dự kiến ​​sẽ bắt đầu các hoạt động thường xuyên vào cuối năm 2008, có thể giúp giảm thiểu tác động của nạn phá rừng ở Bénin, Ghana và Togo và giảm khí thải của khí nhà kính. Năm 2005 khí đốt tự nhiên đã bị Nigeria bùng lên; Trong tương lai, Nigeria dự kiến ​​sẽ xuất khẩu khí đốt tự nhiên sang Bénin, Ghana và Togo. Chính phủ Nigeria đã cam kết chấm dứt sự bùng phát của khí đốt tự nhiên, điều này sẽ dẫn đến giảm ô nhiễm. [10]

Việc sử dụng thủy ngân của các thợ mỏ vàng thủ công đã dẫn đến ô nhiễm không khí và nước nghiêm trọng ở Ghana, Kenya, Mozambique, Nam Phi, Sudan, Tanzania và Zimbabwe. Cơ sở môi trường toàn cầu, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc và Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc đã bắt đầu dự án thủy ngân toàn cầu vào tháng 8 năm 2002 để giảm bớt những vấn đề này. Dự án Mercury toàn cầu đã cung cấp các công nghệ sạch hơn và đào tạo cho các công ty khai thác, tiến hành đánh giá sức khỏe và giúp đỡ các năng lực điều tiết của chính phủ. [10]

Metals[edit][edit]

Nhôm, bauxite và alumina [chỉnh sửa][edit]

Từ năm 2000 đến 2005, sản xuất nhôm tinh chế châu Phi tăng 54%. Tại Mozambique, Smelter Mozal đã được hoàn thành vào năm 2000, và nhà máy luyện Mozal 2, vào năm 2003. Sản lượng của Nam Phi tăng lên do sự mở rộng của lò luyện Hillside vào tháng 12 năm 2003. Sản lượng cũng tăng ở Cameroon và Ai Cập. Ở Ghana, nhà máy luyện Valco đã bị đóng cửa vì hạn hán làm giảm công suất thủy điện hiệu quả của đất nước. Nam Phi chiếm khoảng 48% sản lượng nhôm châu Phi; Mozambique, 32%; và Ai Cập, 14%. Kenya là nhà sản xuất nhôm tinh chế thứ cấp duy nhất. Châu Phi chiếm 5% sản xuất nhôm thế giới vào năm 2005. [10]

Sản xuất bauxite châu Phi đã giảm khoảng 3% từ năm 2000 đến 2005. Từ năm 1990 đến 2005, tỷ lệ sản xuất bauxite thế giới của Châu Phi giảm xuống còn 9% từ 16%. Guinea chiếm khoảng 95% sản xuất bauxite châu Phi; Ghana chiếm hầu hết các phần còn lại. Năm 2005, Guinea là nhà sản xuất Alumina duy nhất của Châu Phi. [10]

Năm 2005, mức tiêu thụ nhôm thế giới lên tới 31,6 triệu tấn (t) so với 29,9 t năm 2004. Tiêu thụ nhôm châu Phi tăng 3,4% vào năm 2005. Ở Nam Phi, mức tiêu thụ nhôm tăng lên 374.000 T năm 2005 từ 342.000 T năm 2004 . [10]

Việc sản xuất nhôm tinh chế dự kiến ​​sẽ tăng trung bình khoảng 10% mỗi năm từ năm 2005 đến năm 2011. Công cụ luyện kim Mozal 3 ở Mozambique và nhà máy Smelter của Coega ở Nam Phi dự kiến ​​sẽ mở vào giữa năm 2009 và cuối năm 2010. Tại Cameroon, Alcan Inc. có kế hoạch tăng gấp ba lần sản xuất từ ​​công việc Smelter vào năm 2010. Công ty nhôm Smelter của Nigeria Ltd. có thể mở lại lò luyện tại Valco Smelter bắt đầu vào năm 2006. [10]

Sản xuất bauxite châu Phi có khả năng tăng trung bình khoảng 10% mỗi năm từ năm 2005 đến 2011. Ở Guinea, kế hoạch tăng công suất tinh chế alumina khoảng 5 triệu tấn mỗi năm trong năm 2008 và 2009 dự kiến ​​sẽ dẫn đến sản xuất bauxite cao hơn . Các nhà máy lọc dầu Sangarédi và Kamsar có khả năng bắt đầu sản xuất vào cuối năm 2008 và 2009, và việc mở rộng nhà máy lọc dầu Friguia có thể được hoàn thành vào năm 2009. Việc mở lại của Mineral Holdings Bauxite vào năm 2006 và khởi động Quận Kambia năm 2010 có thể tăng sản xuất bauxite của Sierra Leone lên 2,7 tấn vào năm 2011. [10]

Copper[edit][edit]

Việc sản xuất đồng mỏ của Châu Phi tăng 48% từ năm 2000 đến 2005. Zambia là nhà sản xuất hàng đầu ở Châu Phi; Việc sản xuất ngày càng tăng của đất nước là do sản lượng cao hơn từ Mufulira và các mỏ Nkana và mở cửa trở lại của mỏ Chambishi. Sự gia tăng sản xuất ở Congo (Kinshasa) chủ yếu là do việc mở mỏ Lonshi và mỏ Dikulushi vào năm 2001 và 2002, tương ứng. Sản lượng của Nam Phi đã giảm do sản xuất thấp hơn từ mỏ Palabora và việc đóng cửa mỏ Maranda năm 2004. Năm 2005, Zambia chiếm 65% sản lượng mỏ đồng châu Phi; Nam Phi, 15%; và Congo (Kinshasa), 13%. Tỷ lệ sản xuất mỏ đồng thế giới của Châu Phi là 5% vào năm 2005 so với 14% vào năm 1990. [10]

Sản lượng đồng tinh chế của Châu Phi tăng 40% từ năm 2000 đến 2005; Tăng sản lượng từ các nhà máy Bwana Mkubwa và Mufulira ở Zambia nhiều hơn là bù đắp sản lượng thấp hơn của Nam Phi. Ở Nam Phi, sản xuất giảm do sản lượng thấp hơn từ nhà máy lọc dầu Palabora. Năm 2005, Zambia chiếm 77% sản xuất đồng tinh chế châu Phi; Nam Phi, 19%; và Ai Cập, 3%. Congo (Kinshasa), chiếm 37% sản lượng đồng tinh chế lục địa vào năm 1990, đã ngừng sản xuất vào năm 2000. Ai Cập là nhà sản xuất đồng tinh chế thứ cấp duy nhất; Sản xuất chính chiếm hầu hết sản xuất châu Phi. [10]

Năm 2005, mức tiêu thụ đồng tinh chế thế giới đã tăng lên 16,8 tấn từ 16,7 t năm 2004; Tiêu thụ đồng châu Phi lên tới khoảng 170.000 T vào năm 2005. Tiêu thụ của Nam Phi đã giảm xuống còn 82.000 T năm 2005 từ 84.000 T năm 2004. [10]

Sản lượng mỏ đồng châu Phi dự kiến ​​sẽ tăng trung bình khoảng 16% mỗi năm từ năm 2005 đến năm 2011. Congo (Kinshasa) có thể chiếm khoảng một nửa số lần tăng sản lượng. Nikanor PLC đã lên kế hoạch mở Kananga và Tilwezembe Mines vào năm 2006 và 2007, và khởi động lại sản xuất tại mỏ Kamoto-Oliveira-Virgule (KOV) vào cuối năm 2009. Công ty khai thác và khám phá Trung Phi PLC (CAMEC) Mở một mỏ mới trong quý đầu tiên của năm 2008 và đạt công suất hoàn toàn vào năm 2009. Tenke Mining đã lên kế hoạch bắt đầu dự án Tenke Fungurume vào cuối năm 2008. Anvil Mining Ltd. Đầu năm 2007, Metorex Ltd. có khả năng sẽ bắt đầu dự án Ruashi Chất thải vào giữa năm 2006 và mỏ Ruashi vào tháng 7 năm 2008. Các nguồn sản xuất mới khác bao gồm dự án Kolwezi Chailings vào năm 2008 và Mỏ Etoile năm 2009. Dự án Chất Đuôi Ruashi và Mỏ Lonshi dự kiến ​​sẽ ngừng hoạt động vào năm 2010 [10]

Sản lượng có khả năng tăng mạnh ở Zambia vì sản lượng cao hơn từ mỏ Kansanshi năm 2006 và lần lượt khai trương mỏ Chingola và Lumwana vào năm 2007 và 2009. Mở rộng được lên kế hoạch cho Mufulira, Mufulira South và Nkana Mines vào năm 2007 [10]

Tại Botswana, mỏ Dukwe dự kiến ​​sẽ mở vào năm 2009 và đạt hoàn toàn công suất vào năm 2011; Sản xuất từ ​​mỏ Phoenix có khả năng tăng gấp ba lần vào năm 2011. Nevsun Resources Ltd. đã lên kế hoạch bắt đầu khai thác từ một khu vực giàu đồng tại Bisha ở Eritrea vào năm 2010. Tại Mauritania, mỏ Guelb Moghrein bắt đầu sản xuất đồng tinh chế vào cuối năm 2006. Nam Việc sản xuất của Châu Phi có thể tăng lên do sự mở rộng của mỏ PGM Limpopo. [10]

Việc sản xuất đồng tinh chế dự kiến ​​sẽ tăng trung bình 17% mỗi năm từ năm 2005 đến năm 2011. Sản lượng của Zambia dự kiến ​​sẽ tăng lên do sản lượng cao hơn từ nhà máy lọc dầu Mufulira và chiết xuất dung môi Kansanshi (SX- EW) Các nhà máy vào năm 2006 và các nhà máy Konkola SX-ED vào năm 2007. Tại Congo (Kinshasa), các nhà máy SX-ED mới có thể mở tại Dự án Chất Tế Kolwezi và Mỏ Mutoshi vào đầu năm 2008, và tại mỏ Kov vào cuối năm 2009. Camec đã lên kế hoạch bắt đầu sản xuất tại nhà máy Luita vào năm 2008. Congo (Kinshasa), không sản xuất đồng tinh chế vào năm 2000, có thể chiếm hơn 25% sản lượng đồng tinh chế của Châu Phi vào năm 2011. [10]

Gold[edit][edit]

Sản lượng mỏ vàng của Châu Phi là 522.000 kg/1.148.400 pound trong năm 2005, giảm 14% so với năm 2000. Sản xuất ít hơn đáng kể so với năm 1990 do sự sụt giảm lâu dài trong sản xuất của Nam Phi. Từ năm 1990 đến 2005, tỷ lệ sản xuất mỏ vàng thế giới của Châu Phi đã giảm từ 32% xuống còn khoảng 21%. [10]

Ở Nam Phi, sự giảm sản xuất từ ​​năm 2000 dựa trên rộng, với sản lượng giảm tại mỏ Noligwa lớn, Driefontontein & NBSP; [FR], mỏ Kloof, Mponeng, mỏ Savuka và Min Tautetona. Mỏ Ergo, Tây Bắc và mỏ St. Helena đã bị đóng cửa. Sự suy giảm trong sản xuất của Ghana là một phần do sản lượng thấp hơn tại mỏ Bibiani. Đầu ra cũng giảm ở Zimbabwe. [10] [fr], the Kloof mine, the Mponeng, the Savuka Mine, and the TauTona Mines. The Ergo mine, the North West, and the St. Helena Mines have been closed. The decline in Ghana's production was partially attributable to lower output at the Bibiani Mine. Output also decreased in Zimbabwe.[10]

Ở Tanzania, sản xuất tăng trong những năm gần đây vì việc mở mỏ Geita năm 2000; Mỏ Bulyanhulu năm 2001; Mỏ vàng Bắc Mara năm 2002; Mỏ Buhemba năm 2003; và mỏ Tulawaka năm 2005. Mỏ Bulyanhulu, mỏ vàng Bắc Mara và mỏ Tulawaka đều được sở hữu hoặc vận hành bởi Barrick Gold. Sản lượng tăng từ năm 2000 ở Mali vì việc mở các mỏ Loulo, Morila và Yatela. Các mỏ vàng Mupane và Samira Hill được mở ở Botswana và Nigeria, tương ứng; Các quốc gia này chỉ có sản xuất vàng thủ công trước năm 2004. [10]

Năm 2005, Nam Phi chiếm 56% sản lượng vàng châu Phi; Ghana, 13%; Tanzania, 10%; và Mali, 8%. Tỷ lệ sản xuất vàng lục địa của Nam Phi tiếp tục giảm từ 89% vào năm 1990 do chi phí sản xuất tăng liên quan đến hoạt động dưới lòng đất sâu hơn và tăng sản lượng ở Ghana, Guinea, Mali và Tanzania. [10]

Sản lượng mỏ vàng ở Châu Phi dự kiến ​​sẽ tăng 17% từ năm 2005 đến 2009. Sự suy giảm lâu dài trong sản lượng của Nam Phi có thể được đảo ngược vì sự hoàn thành dự kiến ​​của mỏ Moab Khotsong năm 2006, mỏ Dominion năm 2007, Tshepong Dự án từ chối vào năm 2008, trục Phakisa năm 2009, và việc mở rộng kế hoạch của mỏ Masimong vào năm 2010. Đến năm 2011, các dự án này có thể bù đắp nhiều hơn việc tắt máy Ergo và North West Mines năm 2005, việc đóng cửa vương miện theo kế hoạch của vương miện có kế hoạch Mỏ vào năm 2009 và sản xuất thấp hơn từ Noligwa vĩ đại, Kopanang và Mỏ Tau Lekoa. [10]

In Ghana, the outlook is for a substantial increase in output because of the expected opening of the Ahafo mine in the second half of 2006 and the Akyem Mine in 2008 and higher production from the Chirano Gold Mine and the Wassa Mines. Output is expected to decline at the Bibiani Mine.[10]

Tanzania's production was likely to rise to 60 tonnes by 2009 with the opening of the Buckreef Mine in 2007 and the Buzwagi Gold Mine in 2008 and the increased capacity at the North Mara Mine; these increases could more than offset the decreased production at the Geita Gold Mine. Production in Tanzania was expected to decline to 56 t by 2011 because of the planned closure of the Tulawaka Gold Mine in 2010. In Mali, the opening of the Tabakoto Mine in 2006 and the reopening of the Syama Mine in 2008 are likely to be offset by the shutdown of the Yatela Mine in 2007 and lower production at the Morila Gold Mine.[10]

Several African countries that had only artisanal gold production in 2005 are likely to open large-scale gold mines in the near future. By January 2008, production was expected to start at the Bonikro gold deposit in Côte d'Ivoire. In Mauritania, Rio Narcea Gold Mines Ltd. plans to start production at the Tasiast Gold Mine by mid-2007. The Youga and the Taparko Mines are expected to open in Burkina Faso by 2007 and 2009, respectively. Gold-rich zones in the Bisha Mine in Eritrea are planned to be mined from 2008 to 2010. In Congo (Kinshasa), the Kilo Moto Mine could open in 2009. Sudan's only large-scale gold mine is expected to shut down in 2010.[citation needed] Tigui Camara, who holds concessions in Guinea and Ivory Coast, is the only woman in West Africa to own a mining company, Tigui Mining Group, which is partly run as a social enterprise.[13]

Iron and steel[edit]

African production of crude steel increased by 27% from 2000 to 2005. The majority of the increase was attributable to Egypt. South Africa accounted for 54% of regional crude steel production; Egypt, 32%; Libya, 7%; and Algeria, 6%. Africa's share of world crude steel production amounted to 2% in 2005. South Africa produced about 7.1 t of hot-rolled steel products in 2005, and Libya, 1.67 t Other African producers of hot-rolled steel products included Algeria, Egypt, Morocco, and Tunisia.[10]

Africa accounted for 2% of the world's finished steel consumption. Africa consumed 18 t of finished steel products in 2005 compared with 17.5 t in 2004 and 15 t in 2000.[10]

Crude steel production was expected to rise by an average of about 5% per year from 2005 to 2011. Nigeria, which accounted for less than 1% of African crude steel output in 2005, could increase its share to 10% by 2011 with the opening of the Ajaokuta plant in 2006 and higher production at the Delta plant. In South Africa, the expansion of the Vanderbijlpark plant was scheduled to take place from 2006 to 2009. In Algeria, increased use of existing capacity was expected to raise national steel production to 2.5 t by 2011. Production could increase in Zimbabwe as Zimbabwe Iron and Steel Company restores its capacity; improvement in this company's situation depends upon the restoration of economic and political stability. African consumption of finished steel is expected to rise to 19 t by 2008.[10]

Iron ore[edit]

In 2005, the iron content of ore produced in Africa amounted to 34.8 tonnes compared with 32.1 tonnes in 2000. Higher production from the Sishen and the Thabazimbi Mines in South Africa more than offset lower output in Egypt and Mauritania. South Africa was the leading iron ore producer in Africa and accounted for 72% of continental output; Mauritania, 21%; and Egypt, 5%.[10]

The iron content of ore produced in Africa is expected to increase to almost 62 tonnes in 2011. In South Africa, the expansion of the Sishen Mine is likely to be completed in 2009; a further expansion of the mine could be completed by 2011. Production at the Bruce, the King, and the Mokaning Mines (BKM) could start in 2008; a proposed expansion of the mines could be completed in 2010. The opening of BKM would more than offset the expected decline in output from the Beeshok Mine after 2008. The F Faleme iron ore project in Senegal could start production in 2011. In Nigeria, mining is expected to restart at the Ajaybanko and the I Itakpe iron ore deposits in 2006 or 2007 and to reach full production by 2009. Output was also expected to increase in Algeria.[10]

Lead[edit][edit]

From 2000 to 2005, African lead mine production decreased by nearly 39%. South Africa's production declined because of lower production at the Black Mountain Mine and the closure of the Pering Mine in 2003. The decrease in Morocco's output was attributable to the closure of the Touissit Mine in 2002 and technical problems experienced by Compagnie Minière de Guemassa. In Tunisia, the Bouhabeur and the Fej Lahdoum Mines were closed in 2004, and the Bougrine Mine, in 2005. In Namibia, output increased at the Rosh Pinah mine. In 2005, Morocco and South Africa accounted for 39% each of African lead mine production, and Namibia, 13%. Africa's share of the world's lead mine production was about 3% in 2005.[10]

African production of primary refined lead declined by 45% compared with that of 2000; the decrease may have been attributable to lower lead mine production in Morocco. Production also declined in Algeria. Morocco, which was the leading African producer of primary refined lead, accounted for 88% of continental output. From 2000 to 2005, Africa's production of secondary refined lead increased by 34%. South Africa accounted for 86% of African secondary refined lead output; Kenya, Morocco, and Nigeria accounted for the remainder. The share of primary lead in total refined lead production in Africa declined to 35% in 2005 from 64% in 1995 and 72% in 1990.[10]

In 2004, world refined lead consumption was about 7.08 t compared with 6.8 Mt in 2003. South African lead consumption increased to 80,700 t in 2004 from 78,700 t in 2003.[10]

The decline in African lead mine production is likely to continue, with output expected to decline by 22% from 2005 to 2011. Most of the decrease would be attributable to the closure of the Bougrine Mine in Tunisia in 2005 and the Rosh Pinah Mine in Namibia by 2010. Secondary refined lead production is expected to increase in South Africa in 2006.[10]

Nickel[edit][edit]

African mine production of nickel increased by nearly 9% from 2000 to 2005. South Africa accounted for most of the increase in production; output also increased in Botswana and Zimbabwe. The majority of South Africa's nickel output was a coproduct of platinum metals group mining. Higher South African production was partially attributable to increased output from the Nkomati mine. In 2005, South Africa accounted for 47% of African nickel mine output; Botswana, 43%; and Zimbabwe, 9%. Minor tonnages of nickel were recovered as a byproduct of cobalt operations in Morocco.[10]

In 2004, South Africa's consumption of nickel increased to 25,000 tonnes from 24,000 tonnes in 2003. The stainless steel industry accounted for most of South Africa's nickel demand.[10]

Nickel mine production is likely to double from 2005 to 2011. The startup of the Ambatovy nickel and cobalt mine in 2009 in Madagascar is expected to account for the majority of the increase. Madagascar, which did not mine nickel in 2005, could have a 33% share of African nickel mine production by 2011. South Africa's output is expected to nearly double by 2011 because of increased capacity at the Nkomati nickel mine and the Limpopo and the Marikana PGM mines. In Zambia, Albidon Ltd. planned to start production from the Munali project in 2008. Production could increase at the Mimosa PGM mine in Zimbabwe. Botswana's production is likely to decline because of the closure of the Selebi-Phikwe mine in 2011 or 2012.[10]

Platinum-group metals[edit]

From 2000 to 2005, Africa's production of palladium and platinum increased by 55% and 47%, respectively. South African production increased because of higher output from the Bafokeng mine, the Impala mine, the Kroondal mine, the Marikana, and the Rustenburg Mines, and the opening of the Modikwa mine in 2002. Production increased in Zimbabwe because of higher output from the Mimosa mine and the opening of the Ngezi mine in 2001. South Africa, which was the continent's dominant producer of platinum group metals (PGM) in Africa, accounted for 97% and 96% of the production of platinum and palladium, respectively.[10]

African mine production of palladium is expected to increase by an average of between 4% and 5% per year from 2005 to 2011, and platinum, by between 3% and 4% per year. In South Africa, the increase is likely to be attributable to the opening of the Mototolo mine in late 2006 and the Two Rivers mine in 2007; the expansions of the Marula mine in 2007 and 2009, the Limpopo Mine in 2007 and 2010, the Rustenburg Mine in 2008, and the Nkomati mine by the end of 2009; and higher production from the Everest, the Kroondal, the Marikana, and the Modikwa Mines. Higher output in Zimbabwe is likely to result from the expansion of the Mimosa and the Ngezi Mines and the opening of the Unki mine in 2009.[10]

Zinc[edit][edit]

From 2000 to 2005, Africa's mine production of zinc declined by about 17%. The decrease in Morocco's output was attributable to technical problems experienced by Compagnie Minère de Guemassa. In South Africa, the closure of the Pering mine in 2003 and the Maranda Mine in 2004 more than offset higher output from the Black Mountain Mine. In Tunisia, the Bouhabeur and the Fej Lahdoum Mines were closed in 2004, and the Bougrine Mine, in 2005. Algerian output declined because of the shutdown of El Abed and the Kherzet Youcef Mines. Namibia's production increased because of the opening of the Skorpion Zinc mine; production also restarted at Slag Treatment Plant Lubumbashi in Congo (Kinshasa). In 2005, Morocco accounted for 36% of African zinc mine production; Namibia, 32%; South Africa, 15%; and Tunisia, 7%. Africa's share of world zinc mine production was about 2% in 2005. African production of zinc metal increased by 85% compared with that of 2000. In Namibia, the Skorpion smelter was opened in 2003. Production declined in Algeria and South Africa. Namibia, which did not produce zinc metal before 2003, accounted for 48% of continental zinc metal production in 2005. South Africa's share declined to 40% in 2005 from 75% in 2000, and Algeria's share, to 12% from 25%.[10]

Năm 2005, mức tiêu thụ kẽm tinh chế thế giới vẫn gần như không thay đổi ở khoảng 10,3 tấn tiêu thụ kẽm Nam Phi tăng lên 103.000 T vào năm 2005 từ 91.000 T năm 2004. [10]

Sự suy giảm sản lượng mỏ kẽm châu Phi có thể sẽ tiếp tục, với sản lượng giảm 13% từ năm 2005 đến 2011. Hầu hết sự giảm sẽ là do việc đóng cửa mỏ Bougrine ở Tunisia năm 2005 và mỏ Rosh Pinah ở Namibia vào năm 2010 Ở Congo (Kinshasa), đề xuất mở lại mỏ Kipushi và việc tái xử lý các chất thải kẽm và germanium gần Kolwezi có thể dẫn đến sự gia tăng hơn nữa trong sản xuất, nhưng liệu các dự án này có được thực hiện vào cuối năm 2011 hay không. Sản lượng cao hơn từ lò luyện Skorpion ở Namibia có thể làm tăng sản xuất kim loại kẽm trong khu vực gần 8% vào năm 2007. Sự gia tăng này sẽ bù nhiều hơn so với sản lượng giảm dự kiến ​​từ mỏ kẽm ở Nam Phi. [10]

Titanium[edit][edit]

10 quốc gia giàu khoáng sản hàng đầu ở Châu Phi năm 2022

Phần này cần mở rộng. Bạn có thể giúp đỡ bằng cách phát triển nó. (Tháng 6 năm 2008)needs expansion. You can help by adding to it. (June 2008)

Mặc dù đã có nhiều vấn đề với khai thác titan ở châu Phi, nhưng nó đã không bị dừng lại bởi các vấn đề môi trường do tính chất gây ô nhiễm của việc xử lý rutile, một quặng titan chính. Hiện tại có các mỏ khai thác titan mở cửa ở một số quốc gia ở Châu Phi (Kenya, Mozambique, Sierra Leone, Nam Phi).

Khoáng sản công nghiệp [Chỉnh sửa][edit]

Diamond[edit][edit]

Năm 2005, tỷ lệ sản xuất kim cương thế giới của Châu Phi, theo khối lượng, là 46%. Sản xuất kim cương châu Phi tăng gần 51% trong năm 2005 so với năm 2000. Sự gia tăng sản lượng dựa trên rộng rãi, với sản xuất tăng ở Angola, Botswana, Congo (Kinshasa), Ghana, Guinea, Lesoto, Namibia, Sierra Leone, Nam Phi và Zimbabwe. Sản xuất giảm ở Cộng hòa Trung Phi và Tanzania. [10]

Congo (Kinshasa) chiếm gần một nửa số lần tăng sản xuất, theo khối lượng. Tăng sự ổn định chính trị và quá trình Kimberley đã dẫn đến sản xuất cao hơn của các thợ mỏ thủ công. Societé Minière de Bakwanga (MIBA) tăng sản lượng của nó. Ngoài ra, Sengamines & NBSP; [FR] và Midamines Sprl bắt đầu hoạt động khai thác vào năm 2001 và 2005, tương ứng. [10] [fr] and Midamines SPRL started mining operations in 2001 and 2005, respectively.[10]

Ở Botswana, sản xuất tăng lên tại mỏ kim cương Jwaneng, mỏ kim cương Letlhakane và mỏ kim cương Orapa, và mỏ kim cương Damtshaa mở ra. Ở Nam Phi, sản xuất tăng lên tại mỏ kim cương Finsch, mỏ kim cương Kimberley, Namaqualand và mỏ kim cương Venetia. Tại Namibia, sản xuất cao hơn là do Namdeb Diamond Corporation (Pty) Ltd. Mỏ kim cương Murowa bắt đầu sản xuất tại Zimbabwe vào năm 2004. Botswana chiếm 35% sản lượng kim cương châu Phi theo khối lượng; Congo (Kinshasa), 34%; Nam Phi, 17%; và Angola, 8%. [10]

Năm 2005, giá trị toàn cầu của sản xuất kim cương thô lên tới 12,7 tỷ USD, trong đó châu Phi chiếm khoảng 60%. Botswana chiếm 24% giá trị của sản lượng kim cương thô toàn cầu; Nam Phi, 12%; Angola, 11%; Congo (Kinshasa), 8%; và Namibia, 5%. [10]

Vào tháng 11 năm 2002, chương trình chứng nhận quy trình Kimberley đã được thành lập để giảm thương mại kim cương xung đột, đặc biệt là kim cương có nguồn gốc từ Angola, Congo (Kinshasa) và Sierra Leone. Việc thành lập quy trình Kimberley liên quan đến các quan chức từ hơn 50 quốc gia sản xuất, xử lý và nhập khẩu kim cương cũng như đại diện của Liên minh châu Âu, Hội đồng Kim cương thế giới, Hội đồng Kim cương châu Phi và các tổ chức phi chính phủ. Vào năm 2005, các quốc gia châu Phi sau đây đã đáp ứng các yêu cầu tối thiểu của Chương trình chứng nhận quy trình Kimberley: Angola, Botswana, Cộng hòa Trung Phi, Congo (Kinshasa), Côte d'Ivoire, Guinea, Lesotho, Mauritius, Namibia, Sierra Leone, Nam Nam Châu Phi, Swaziland, Tanzania, Togo và Zimbabwe. [10]

Sản xuất kim cương bất hợp pháp được kiểm soát bởi quy trình Kimberley tập trung vào Côte D'Ivoire và Liberia vào năm 2005. Tại phiên họp toàn thể của Kimberley Process được tổ chức tại Moscow vào tháng 11, Chủ tịch đã kêu gọi hành động để giúp hỗ trợ kỹ thuật cho các quốc gia lân cận Côte d ' IVOIRE để tăng cường kiểm soát thương mại kim cương. [10]

Việc sản xuất kim cương thô dự kiến ​​sẽ tăng trung bình gần 3% mỗi năm từ năm 2005 đến 2011. [Cập nhật nhu cầu] ở Angola, mỏ kim cương Fucauma, Kamachia-Kamajiku, mỏ kim cương Luarica và Rio Lapi Garimpo Mỏ dự kiến ​​sẽ đóng góp vào sản lượng cao hơn. Sản xuất có thể tăng ở Congo (Kinshasa) vì có thể mở rộng các cơ sở của MIBA vào năm 2010. [Định lượng] kim cương châu Âu PLC bắt đầu sản xuất tại Lesotho vào năm 2005; Công ty đã lên kế hoạch đạt được công suất tối đa vào năm 2006. [định lượng] sản xuất của Zimbabwe có thể tăng lên do sản lượng cao hơn từ Minond Mine [10]needs update] In Angola, the Fucauma Diamond Mine, the Kamachia-Kamajiku, the Luarica diamond mine, and the Rio Lapi Garimpo Mines are expected to contribute to higher output. Production could rise in Congo (Kinshasa) because of the possible expansion of MIBA's facilities by 2010.[quantify] European Diamonds plc started production in Lesotho in 2005; the company planned to reach full capacity in 2006.[quantify] Zimbabwe's production could increase because of higher production from Murowa diamond mine.[needs update?] Output was expected to rise in Namibia and Tanzania because of expansions at mines operated by DeBeers Group.[10]

Phosphate Rock [Chỉnh sửa][edit]

Năm 2005, hàm lượng pentoxide diphosphated (P2O5) của sản xuất đá phosphate châu Phi lên tới khoảng 14,6 tấn so với 12,5 MT năm 2000. Phần lớn sự gia tăng sản lượng là do sản xuất cao hơn của Office Cherifien des Phosphates ở Morocco; Sản lượng của Ai Cập cũng tăng lên. [Định lượng] Morocco, nhà sản xuất đá phốt phát hàng đầu ở châu Phi, chiếm 60% sản lượng đá phốt phát lục địa năm 2004; Tunisia, 16%; và Nam Phi, 7%. [10]quantify] Morocco, which was the leading producer of phosphate rock in Africa, accounted for 60% of continental phosphate rock output in 2004; Tunisia, 16%; and South Africa, 7%.[10]

Hàm lượng P2O5 của sản xuất đá phốt phát châu Phi dự kiến ​​sẽ vẫn gần như không thay đổi trong năm 2011. [Cập nhật nhu cầu] ở Morocco, Office Cherifien des Phosphates có thể hoàn thành việc mở rộng vào năm 2009. Sản xuất dự kiến ​​sẽ giảm ở Algeria và Tunisia. [10]needs update] In Morocco, Office Cherifien des Phosphates could complete an expansion by 2009. Production is expected to decline in Algeria and Tunisia.[10]

Nhiên liệu khoáng sản [Chỉnh sửa][edit]

Coal[edit][edit]

Sản lượng than châu Phi tăng 9% từ năm 2000 đến 2005; Hầu hết sự gia tăng là do Nam Phi. Mỏ GoEdgevonden, Mafube và Mỏ Isibonelo được khai trương vào năm 2003, 2004 và 2005, và sản xuất tăng ở một số mỏ khác. Sản lượng cũng tăng ở Botswana, Ai Cập, Malawi, Nigeria, Swaziland và Zambia và giảm ở Morocco và Zimbabwe. Nam Phi, là nhà sản xuất than thống trị ở châu Phi, chiếm 98% sản lượng than trong khu vực; Zimbabwe, 1%; và những người khác, ít hơn 1%. Hơn 99% sản lượng than của Nam Phi là than bitum. Châu Phi chiếm khoảng 5% tổng sản lượng than anthracite và bitum thế giới trong năm 2005. [10]

Châu Phi chiếm khoảng 3% mức tiêu thụ than thế giới năm 2005. Trong khu vực, Nam Phi chiếm 92% tiêu thụ than châu Phi. Gần 71% sản lượng than của Nam Phi đã được tiêu thụ trong nước. Từ năm 2000 đến 2005, mức tiêu thụ than của Châu Phi tăng khoảng 12%. [10]

Sản lượng than châu Phi dự kiến ​​sẽ tăng trung bình 3% mỗi năm từ năm 2005 đến 2011. Nam Phi có thể chịu trách nhiệm cho phần lớn sự gia tăng; Việc sản xuất của nó có thể tăng lên 276 MT vào năm 2011. Sản lượng cao hơn sẽ là do việc mở mỏ Kriel South vào năm 2005, mỏ Forzando South năm 2006, mỏ Mooikraal vào giữa năm 2007 và mỏ Inyanda năm 2008; và sự mở rộng của mỏ than Geidgevonden và Leeuwpan năm 2006, mỏ Syferfontein năm 2007, mỏ Mafube năm 2008 và mỏ Grootegeluk năm 2010. Mozambique dự kiến ​​sẽ trở thành nhà sản xuất than thứ hai ở châu Phi với sự phát triển của sự phát triển của Dự án Moatize vào năm 2010. Botswana có khả năng trở thành nhà sản xuất xếp hạng thứ ba vì sự mở rộng của colliery morupule vào năm 2008 và bắt đầu sản xuất tại dự án Mmamabula năm 2011. Tại Zimbabwe, sản lượng có thể tăng tại Hwange Colliery vào năm 2011 nếu Sự ổn định kinh tế và chính trị được khôi phục. Sản xuất cũng được dự kiến ​​sẽ tăng ở Ma -la -uy, Nigeria và Tanzania. [10]

Uranium[edit][edit]

Năm 2005, sản lượng mỏ uranium châu Phi tăng 7% so với năm 2000. Hầu hết sự gia tăng là do sản xuất cao hơn tại mỏ Uranium Rossing ở Namibia; Sản lượng của Nigeria cũng tăng lên. Sản lượng của Nam Phi giảm do sản lượng mỏ vàng thấp hơn. Namibia chiếm 46% sản xuất uranium châu Phi; Nigeria, 44%; và Nam Phi, ít hơn 10%. Năm 1990, cổ phiếu sản xuất lục địa của Nigeria và Nam Phi lần lượt là 30% và 27%. Châu Phi chiếm khoảng 16% sản lượng uranium thế giới vào năm 2005. [10]

Nam Phi là người tiêu dùng uranium duy nhất trong khu vực năm 2005. Châu Phi chiếm ít hơn 1% điện được tạo ra trên toàn thế giới bằng năng lượng hạt nhân. [10]

Sản lượng mỏ uranium lục địa dự kiến ​​sẽ tăng 10% mỗi năm từ năm 2005 đến năm 2011. Sản xuất uranium của Namibia có thể tăng đáng kể khi khai trương mỏ Langer Heinrich vào cuối năm 2006 và việc mở rộng theo kế hoạch của nó, có thể được hoàn thành vào năm 2010 hoặc 2011 Ở Nam Phi, mỏ Dominion dự kiến ​​sẽ mở vào năm 2007 và sản xuất hơn 1.800 tấn/năm uranium oxit (U3O8) vào năm 2010. Anglogold Ashanti Ltd. Vào năm 2009. Paladin Energy of Australia có kế hoạch sản xuất khoảng 1.500 tấn/năm U3O8 từ dự án Kayelekera ở Ma -lai -xi -a bắt đầu từ quý ba năm 2008. [10]

Oil[edit][edit]

Năm 2005, dầu châu Phi đã xuất khẩu được phân phối là 35% cho EU, 32% cho Mỹ, 10% cho Trung Quốc và 1% khí đốt châu Phi đến châu Á. [6] Bắc Phi ưu tiên xuất khẩu dầu của mình sang các nước phương Tây là EU 64%; Hoa Kỳ 18%; Tất cả những người khác 18%. [6]

Xem thêm [sửa][edit]

  • Nền kinh tế châu Phi
  • Quặng sắt ở Châu Phi
  • Xi măng ở Châu Phi
  • Công nghiệp khai thác của Cộng hòa Dân chủ Congo

Citations[edit][edit]

  1. ^Ưu đãi của Enrc Châu Phi cho CAMEC có 93,55% chấp nhận được lưu trữ 2012 / 02-20 tại Wayback Machine, IBTimes, ngày 8 tháng 12 năm 2009. ENRC Africa offer for CAMEC has 93.55% acceptance Archived 2012-02-20 at the Wayback Machine, IBTimes, 8 December 2009.
  2. ^Mia, P1.1 MIA, p1.1
  3. ^Mia, P1.7 MIA, p1.7
  4. ^ Abmia P1.6a b MIA p1.6
  5. ^ Abmia P1.4a b MIA p1.4
  6. ^ Abcdemia p1.7a b c d e MIA p1.7
  7. ^ ABCMIA P1.3a b c MIA p1.3
  8. ^T J Brown, L E Hetherington, S D Hannis, T -Bide, A J Benham, N E Idoine, P A J Lusty (2009). Sản xuất khoáng sản thế giới 2003-07 (PDF). Bình luận Khảo sát địa chất> Thống kê khoáng sản thế giới. p. & nbsp; 82. ISBN & NBSP; T J Brown, L E Hetherington, S D Hannis, T Bide, A J Benham, N E Idoine, P A J Lusty (2009). World Mineral Production 2003-07 (PDF). Critish Geological Survey > World Mineral Statistics. p. 82. ISBN 978-0-85272-638-9. CS1 maint: uses authors parameter (link)
  9. ^Mia P1.5 MIA p1.5
  10. 4a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak al am an ao ap aq ar as at au av aw ax ay az ba bb bc bd be bf bg bh bi bj bk bl bm bn bo bp bq br bs bt bu
    MIA: 2005 Minerals Yearbook.
  11. ^Christensen, Darin (Mùa đông 2019). "Sự nhượng bộ đứng: Làm thế nào các khoản đầu tư khai thác kích động cuộc biểu tình ở Châu Phi". Tổ chức quốc tế. 73 (1): 65 bóng101. doi: 10.1017/s0020818318000413. PMC & NBSP; 6677272. PMID & NBSP; 31379386. Christensen, Darin (Winter 2019). "Concession Stands: How Mining Investments Incite Protest in Africa". International Organization. 73 (1): 65–101. doi:10.1017/S0020818318000413. PMC 6677272. PMID 31379386.
  12. ^"Những ảnh hưởng của khai thác ở Châu Phi". Khai thác Châu Phi. 2017-01-26. Truy cập 2017-10-30. "The Effects of Mining in Africa". Mining Africa. 2017-01-26. Retrieved 2017-10-30.
  13. ^Quản trị viên. "Tigui Camara: Dẫn đầu trong ngành công nghiệp khai thác thống trị nam". Tạp chí lãnh đạo châu Phi. Truy cập 2022-01-25. Admin. "TIGUI CAMARA: Leading In The Male Dominated Mining Industry". African Leadership Magazine. Retrieved 2022-01-25.

Tài liệu tham khảo chung [Chỉnh sửa][edit]

  • Thomas R. Yager, Omayra Bermúdez-Lugo, Philip M. Mobbs, Harold R. Newman, Mowafa Taib, Glenn J. Wallace và David R. Wilburn (tháng 8 năm 2012). "Các ngành công nghiệp khoáng sản của Châu Phi" (PDF). Niên giám Khoáng sản 2012. Khảo sát địa chất Hoa Kỳ, Giấy phép PD (Nguồn chính phủ Hoa Kỳ, miền công cộng) .________ 0: CS1 Duy trì: Sử dụng tham số tác giả (Liên kết)(PDF). 2012 Minerals Yearbook. U.S. Geological Survey, PD license (U.S. government source, public domain).{{cite book}}: CS1 maint: uses authors parameter (link)

Liên kết bên ngoài [Chỉnh sửa][edit]

  • Kim cương máu đầu tiên, bây giờ là máy tính máu? Bởi Elizabeth Dias, Tạp chí Time, ngày 24 tháng 7 năm 2009
  • Nam Phi: Exxaro để gõ từ tiền bản quyền khai thác, Eskom Hike? Ngày 15 tháng 10 năm 2010

Quốc gia nào có tài nguyên thiên nhiên cao nhất ở Châu Phi?

Cộng hòa Dân chủ Congo (DRC) được coi là một trong những quốc gia giàu nhất châu Phi về tài nguyên thiên nhiên và là nơi có sông Congo, con sông dài thứ hai ở châu Phi, tự hào có tiềm năng thủy điện lớn. (DRC) is considered to be one of Africa's richest countries in terms of natural resources and is home to the Congo River, the second-longest river in Africa, which boasts major hydroelectric potential.

Quốc gia nào có khoáng sản ở châu Phi?

Một số quốc gia khai thác lớn ở Châu Phi là Cộng hòa Dân chủ Congo (DRC), Nam Phi, Namibia và Zimbabwe.Người ta ước tính rằng châu Phi có khoảng 30 % dự trữ khoáng sản toàn cầu đã biết và những hàng hóa mong muốn này đã được khai thác, và thường được khai thác trong nhiều thế kỷ.Democratic Republic of Congo (DRC), South Africa, Namibia, and Zimbabwe. It is estimated that Africa houses roughly 30 percent of the known global mineral reserves, and these desirable commodities have been extracted, and often exploited, for centuries.

Quốc gia nào giàu nhất trong khoáng sản?

Nga.Dự trữ tài nguyên thiên nhiên của Nga trị giá 75 nghìn tỷ đô la theo ước tính của Statista.....
Hoa Kỳ.Giá trị ước tính của tài nguyên thiên nhiên ở U. S. là 45 nghìn tỷ đô la, gần 90% trong số đó là gỗ và than.....
Ả Rập Saudi.....
Canada.....
Iran.....
Trung Quốc.....
Brazil.....
Australia..

10 tài nguyên hàng đầu ở châu Phi là gì?

Châu Phi có một lượng lớn tài nguyên thiên nhiên, bao gồm kim cương, đường, muối, vàng, sắt, coban, uranium, đồng, bauxite, bạc, dầu mỏ, và đậu ca cao, nhưng cũng là gỗ nhiệt đới và trái cây nhiệt đới.diamonds, sugar, salt, gold, iron, cobalt, uranium, copper, bauxite, silver, petroleum, and cocoa beans, but also tropical timber and tropical fruit.