Ví dụ về sai sót trong báo cáo tài chính

Cơ quan quản lý tổng kết lại thành 6 nhóm “sai sót thường gặp” trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp công bố năm nay.

Báo cáo tài chính là bức tranh phản ánh “sức khoẻ” của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vô tình hay hữu ý, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa tuân thủ đầy đủ các quy định trong chuẩn mực kế toán và các văn bản pháp lý có liên quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính, dẫn đến báo cáo tài chính cung cấp cái nhìn sai lệch hoặc không đầy đủ cho người đọc.

Tình trạng này phổ biến đến mức cơ quan quản lý phải tổng kết lại thành 6 nhóm “sai sót thường gặp” trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp công bố năm nay.

Sai sót về hình thức

Luật kế toán quy định, báo cáo tài chính của đơn vị kế toán phải được tính bằng đồng Việt Nam [VND], nhưng nhiều báo cáo tài chính sử dụng đơn vị tính là nghìn đồng, vừa không phù hợp với quy định tại Luật, vừa gây khó theo dõi cho người đọc. Thậm chí, nhiều báo cáo tài chính khi công bố vẫn thiếu chữ ký của giám đốc, kế toán trưởng, người lập biểu, thiếu thời gian lập. Một số báo cáo tài chính có bút toán điều chỉnh của kiểm toán, nhưng điều lạ là doanh nghiệp vẫn đề ngày lập là ngày kết thúc năm tài chính.

Sai sót liên quan đến bảng cân đối kế toán

Trên chỉ tiêu “Tiền và các khoản tương đương tiền”, nhiều doanh nghiệp đã “gom” vào cả những khoản đầu tư có thời hạn trên 3 tháng. Điều này giúp số liệu tiền và các khoản tương đương tiền của doanh nghiệp tăng vọt.

Quảng cáo

Nhiều doanh nghiệp có các khoản đầu tư chứng khoán, nhưng lại không theo dõi chi tiết từng loại chứng khoán đầu tư ngắn/dài hạn đang nắm giữ, dẫn đến việc hạch toán không đúng lãi, lỗ khi bán chứng khoán.

Thủ tục thành lập hội đồng thẩm định mức trích lập các khoản dự phòng cũng không được nhiều doanh nghiệp thực hiện nghiêm, từ đó không trích lập hoặc trích lập không đúng quy định đối với các khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi, dự phòng tổn thất các khoản đầu tư tài chính, dự phòng giảm giá hàng tồn kho...

Nhiều doanh nghiệp cũng không dự kiến mức tổn thất để trích lập dự phòng đối với khoản nợ phải thu chưa đến hạn thanh toán, nhưng tổ chức kinh tế đã lâm vào tình trạng phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể hoặc không thu thập thông tin tài chính trước/sau kiểm toán của các đơn vị, tổ chức nhận đầu tư tài chính dài hạn khác để xem xét sự cần thiết phải trích lập dự phòng.

Với hàng tồn kho, khoản mục có giá trị rất lớn trong tổng tài sản của nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngành xây lắp, nhưng công tác kiểm kê chưa được thực hiện tốt ở thời điểm khóa sổ kế toán lập báo cáo tài chính, khiến con số này không đảm bảo độ tin cậy. Nhiều doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính giá hàng tồn kho không nhất quán, không phù hợp với chính sách kế toán công bố.

Với khoản chênh lệch tỷ giá, năm qua, dù đã có khuyến cáo của cơ quan quản lý, nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn không áp dụng Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 10, mà áp dụng Thông tư 201/2009/TT-BTC, vì Thông tư có những quy định mâu thuẫn với chuẩn mực kế toán, làm tăng con số lợi nhuận của doanh nghiệp.

Sai sót liên quan đến báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh

Quảng cáo

Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp là yếu tố chi phối quyết định của nhà đầu tư. Vậy nhưng, vẫn có doanh nghiệp bất động sản áp dụng chuẩn mực về hợp đồng xây dựng [ghi nhận doanh thu theo tiến độ, tương tự nhà thầu xây dựng]. Hay có doanh nghiệp ghi doanh thu từ cổ phiếu được nhận không phải trả tiền do công ty cổ phần phát hành thêm cổ phiếu từ thặng dư vốn cổ phần, trả cổ tức bằng cổ phiếu.

Với chi phí, nhiều doanh nghiệp thay đổi phương pháp khấu hao khi không có bằng chứng cho thấy có sự thay đổi về cách thức sử dụng và thu hồi tài sản nhằm giảm con số chi phí phải khấu hao trong năm, nhờ vậy, làm tăng lãi/giảm lỗ trên báo cáo tài chính. Thậm chí, chi phí lãi vay không được hạch toán đúng, đủ; chi phí quản lý doanh nghiệp cũng không được kết chuyển toàn bộ vào báo cáo kết quả kinh doanh, mà “treo” lại một phần trên bảng cân đối kế toán.

Sai sót liên quan đến báo cáo lưu chuyển tiền tệ

Mặc dù thị trường chứng khoán suy giảm kéo dài, nhiều khoản đầu tư tài chính đã bị giảm sâu, nhưng trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ của nhiều doanh nghiệp đã không trình bày luồng tiền liên quan đến chứng khoán nắm giữ vì mục đích thương mại; không bóc tách chênh lệch giữa số dư đầu kỳ và cuối kỳ của các khoản phải thu, phải trả và tồn kho liên quan đến hoạt động đầu tư và tài chính. Thậm chí, trên báo cáo tài chính của không ít doanh nghiệp, số liệu giữa báo cáo này không khớp với số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh.

Sai sót liên quan đến thuyết minh báo cáo tài chính

Thuyết minh báo cáo tài chính là một thành tố của báo cáo tài chính, cung cấp cho người đọc báo cáo căn cứ của các số liệu được hạch toán trên bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh. Thế nhưng, nhiều bản thuyết minh lại theo kiểu “nói một đằng, làm một nẻo”. Ví dụ, thuyết minh chính sách kế toán chênh lệch tỷ giá công bố theo VAS10, nhưng thực tế lại kế toán theo Thông tư 201/2009.

Bản thuyết minh báo cáo tài chính trong nhiều trường hợp không thuyết minh các chỉ tiêu có tính chất trọng yếu theo quy định của chuẩn mực kế toán như khoản đi vay, cho vay có giá trị lớn, phương pháp xác định doanh thu, giá vốn gắn với từng loại hình lĩnh vực kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp, khiến người đọc không có được cái nhìn rõ ràng, chân thực về doanh nghiệp. Thông tin về các bên liên quan không được trình bày, hoặc trình bày không đủ các nội dung theo quy định của chuẩn mực kế toán.

Sai sót liên quan đến báo cáo tài chính hợp nhất

Không loại trừ đầy đủ các khoản phải thu, phải trả, đi vay, cho vay, quan hệ giao vốn, doanh thu, giá vốn, lãi lỗ chưa thực hiện liên quan đến các giao dịch cung cấp hàng hóa, dịch vụ, tài sản cố định của các giao dịch nội bộ giữa doanh nghiệp và chi nhánh trên báo cáo tài chính tổng hợp/hoặc giữa công ty mẹ và các công ty con, giữa các đơn vị thành viên trong cùng tập đoàn.

Nhiều doanh nghiệp dựa vào lý do không tập hợp được báo cáo tài chính của công ty liên kết vào thời điểm lập báo cáo tài chính hợp nhất để hạch toán khoản đầu tư vào công ty liên kết theo phương pháp giá gốc, thay vì sử dụng phương pháp vốn chủ sở hữu, có thể dẫn tới ghi nhận khoản lỗ khi công ty liên kết có tình trạng kinh doanh bết bát, thua lỗ.

Theo Đầu tư chứng khoán

Sai sót và gian lận trong báo cáo tài chính là điều chắc chắn bạn sẽ gặp trong quá trình kiểm toán các doanh nghiệp. Đã có không ít doanh nghiệp phá sản dù trước đó họ công bố báo cáo tài chính với các chỉ tiêu rất tốt. Nguyên nhân dẫn tới sự phá sản này chủ yếu do sự gian lận trong hoạt động tài chính của các công ty. Vậy làm sao để phân biệt giữa gian lận và sai sót trong báo cáo tài chính và các ví dụ điển hình của sai sót là gì? 

1. Làm sao để phân biệt giữa gian lận và sai sót.

Khi bạn phát hiện ra một lỗi sai trên báo cáo tài chính trong một cuộc kiểm toán, bạn chắc chắn phải chịu trách nhiệm cho việc đánh giá lỗi sai đó để điều chỉnh báo cáo tài chính. Việc quan trọng luôn bao gồm xem xét lỗi sai này có bản chất là gian lận hay sai sót đế đánh giá trọng yếu. + Gian lận là khi kiểm toán viên tìm thấy bằng chứng chứng minh tính “cố ý” của hành động trong lỗi sai.

+ Sai sót là khi kiểm toán viên tìm thấy bằng chứng mang tính “vô ý” của tác nhân.

Tuy nhiên, ranh giới giữa sai sót và gian lận đôi khi vô cùng mong manh. Hy vọng qua bài viết có thể cung cấp cho các bạn cách phân biệt gian lận và sai sót rõ ràng nhất.

2. Một vài ví dụ điển hình của sai sót trong BCTC.

+ Phân loại nhầm chi phí: Chi phí quảng cáo lại được ghi nhận vào chi phí khấu hao vì 02 tài khoản này có số hiệu gần giống nhau nên kế toán đã ghi nhận nhầm.

+ Ước tính kế toán và ghi nhận chưa hợp lý cho chi phí nợ xấu: Người chịu trách nhiệm ước tính đơn giản là chưa theo sát với thực tế. Theo nguyên tắc thận trọng, mỗi kỳ kế toán đều cần lập dự phòng cho những khoản doanh thu mà có khả năng không đòi được. Nếu người lập báo cáo tài chính không hiểu hết được tình hình, chuyện sai sót là điều dễ hiểu.

+ Áp dụng sai các nguyên tắc kế toán: Ghi nhận giá trị của tài sản theo giá gốc thay vì giá trị thị trường. Chưa cập nhật các chuẩn mực và thông tư kế toán mới dẫn đến áp dụng sai phương pháp tính giá của hàng tồn kho từ nhập trước xuất trước sang nhập sau xuất trước.

+ Gian lận xảy ra khi ai đó cố tình đưa ra các dữ liệu nhằm lừa người sử dụng thông tin. Gian lận trong doanh nghiệp thường bao gồm 02 loại chính:

Làm giả báo cáo tài chính: Người làm quản lý thường lạm quyền để sửa các thông tin về tài sản, nguồn vốn, doanh thu, lợi nhuận cho mục đích cá nhân. Các thủ thuật chính cho loại hình gian lận này thường bao gồm:

  • Che dấu công nợ và chi phí: bằng cách không ghi nhận công nợ và chi phí lên báo cáo tài chính, vốn hóa chi phí không đủ điều kiện vốn hóa.
  • Ghi nhận doanh thu không có thật hay khai khống doanh thu: bằng cách ghi nhận thêm các nghiệp vụ bán hàng không có thật hoặc tự tạo ra các khách hàng và chứng từ giả mạo.
  • Định giá sai tài sản: bằng cách không ghi giảm, lập dự phòng giá trị hàng tồn kho bị hỏng, mất mát. Che giấu và không lập dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi.

Ghi nhận sai niên độ: doanh thu hay chi phí được ghi nhận không đúng với thời kỳ mà nó phát sinh. Doanh thu hoặc chi phí của kỳ này có thể chuyển sang kỳ kế tiếp hay ngược lại để làm tăng hoặc giảm thu nhập theo mong muốn.

+ Không khai báo đầy đủ thông tin: nhằm hạn chế khả năng phân tích của người dùng báo cáo tài chính.

+ Sử dụng sai mục đích tài sản của doanh nghiệp:

Thường do hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp yếu kém. Các nhân viên trong doanh nghiệp lợi dụng sơ hở để biển thủ tài sản như tiền, hàng tồn kho hoặc sử dụng tài sản công vào việc cá nhân.

Như vậy, có rất nhiều cách để gian lận trong một doanh nghiệp nếu hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp không hiệu quả. Kiểm toán viên cần nâng cao nhận thức và hiểu biết để trang bị cho mình đủ kỹ năng phân biệt và phát hiện ra những gian lận thường núp bóng dưới cái tên “sai sót”.

Video liên quan

Chủ Đề