Túi kết mạc ở đâu

Vui lòng liên hệ

Hotline: 1900636040

Xem Kho giao diện mới

Viêm kết mạc cấp tính là bệnh về mắt có thể liên quan đến một số bệnh lý như giảm thị lực, nhạy cảm với ánh sáng, chảy nước mắt hay mất thị lực do kết mạc co rút.

Viêm kết mạc cấp tính là gì?

Kết mạc là một màng mỏng trong suốt có chứa các mạch máu, bao phủ lên củng mạc của nhãn cầu [lòng trắng] và mặt trong của sụn mi, tạo nên hai túi cùng đồ trên và dưới. Khi viêm cấp tính, các mạch máu ở kết mạc sung huyết làm cho kết mạc phù và đỏ, vì vậy người ta thường gọi viêm kết mạc cấp là đau mắt đỏ.

Bệnh có thể xuất hiện vào tất cả các thời điểm trong năm, nhưng thường có những đợt bùng phát thành dịch, nhất là vào những thời điểm giao mùa.

Viêm kết mạc cấp tính rất dễ lây với mức độ tấn công trong nội bộ gia đình lên đến 50%. Khoảng 35–50% bệnh nhân phát triển các biến chứng.

Không giống như viêm kết mạc do vi khuẩn, viêm kết mạc cấp tính liên quan đến các bệnh lý quan trọng như:

– Giảm thị lực hoặc độ nhạy ánh sáng do thâm nhiễm dưới biểu mô dai dẳng [giác mạc viêm tích tụ]

– Chảy nước mắt mãn tính [chảy nước mắt quá mức] từ các vấn đề thoát lệ đạo.

– Mất thị lực do kết mạc co rút và kết mạc bị dính một phần hay toàn phần [sẹo kết mạc].

Triệu chứng của bệnh viêm kết mạc cấp tính

Bệnh viêm kết mạc cấp tính thường có các triệu chứng điển hình như: cộm xốn, ngứa mắt, sưng đỏ mí và kết mạc, chảy rỉ ghèn và nước mắt, nhất là vào buổi sáng ghèn làm dính chặt lông mi rất khó mở mắt khiến người bệnh khó chịu, phải thường xuyên dụi mắt.

Một số trường hợp viêm kết mạc cấp do virus sẽ bị nổi hạch trước tai sưng và đau. Nếu nguyên nhân là vi trùng thì ghèn thường có màu vàng đặc như mủ còn do virus thì thường trắng trong, dai kéo thành sợi. Một số có thể kèm theo các triệu chứng viêm đường hô hấp như ho, sốt, sổ mũi, khò khè.

Bình thường bệnh sẽ giảm dần và hết sau 5-7 ngày. Nếu bị biến chứng viêm giác mạc [lòng đen] sẽ có biểu hiện chảy nước mắt, nhìn mờ, chói mắt khi nhìn ra ánh sáng. Trường hợp này nếu không được điều trị đúng và kịp thời có thể gây loét giác mạc rất nguy hiểm và ảnh hưởng tới thị lực lâu dài.

Một số trường hợp tiến triển nặng, các sợi Fibrin trong dịch tiết của kết mạc sẽ kết hợp với tế bào viêm và vi khuẩn tạo thành một màng giả bám chặt ở mặt trong kết mạc, gây sưng húp mi mắt, loét trợt biểu mô giác mạc rất nguy hiểm. Có thể kèm theo xuất huyết kết mạc và chảy nước mắt lẫn máu hồng.

Hình thái và nguyên nhân của viêm kết mạc cấp tính

Viêm kết mạc cấp có nhiều hình thái

– Viêm kết mạc cấp tiết tố mủ do vi khuẩn: Đây là hình thái viêm kết mạc dạng nhú tối cấp.

– Viêm kết mạc cấp tiết tố màng do vi khuẩn: là loại viêm kết mạc cấp tiết tố có màng phủ trên diện kết mạc, có màu trắng xám hoặc trắng ngà.

– Viêm kết mạc do virus: Là viêm kết mạc có kèm nhú, nhiều tiết tố và hoặc có giả mạc, bệnh thường kèm sốt nhẹ và các biểu hiện cảm cúm, có hạch trước tai, thường phát triển thành dịch.

Nguyên nhân của viêm kết mạc cấp tính

– Viêm kết mạc cấp tiết tố mủ do vi khuẩn: thường gặp do lậu cầu [Neisseria Gonorrhoeae], hiếm gặp do não mô cầu [Neisseria Menigitidis].

– Viêm kết mạc cấp tiết tố màng do vi khuẩn: thường gặp do vi khuẩn bạch hầu [C. Dipptheria] và liên cầu [ Streptococcus Pyogene], phế cầu.

– Viêm kết mạc do virus: do virus Adeno virus, Entero virus…

Bệnh viêm kết mạc cấp tính là bệnh dễ lây lan

Viêm kết mạc xảy ra do virus, vi khuẩn nên có khả năng lây lan cao thậm chí bùng phát thành dịch. Con đường lây nhiễm viêm kết mạc chủ yếu là tiếp xúc trực tiếp với ghèn, gỉ mắt của người bệnh hay dịch tiết ở mắt, qua các vật dụng trung gian như khăn mặt, kính, chậu rửa mặt…

Bệnh cũng lây qua đường hơi thở và đường nước bọt như khi nói chuyện gân, ho, hôn… Do vậy, cần cách ly người bệnh đau mắt đỏ và có các biện pháp dự phòng để hạn chế nguy cơ lây nhiễm như đeo khẩu trang khi tiếp xúc với bệnh nhân, rửa tay sạch sẽ bằng xà phòng sát khuẩn, không dùng chung các vật dụng cá nhân…

Trong quá trình điều trị, người bệnh cũng cần có những lưu ý nhất định, tuân thủ chỉ định của bác sĩ cũng như uống thuốc đủ liều để hồi phục nhanh, giảm thiểu các nguy cơ sức khỏe do bệnh gây ra.

Điều trị viêm kết mạc cấp tính

Viêm kết mạc cấp tính là bệnh nhiễm trùng mắt nên việc điều trị khá đơn giản bằng các thuốc giảm nhẹ triệu chứng, kháng viêm, kháng sinh nhỏ tại chỗ và toàn thân. Tuy nhiên, nếu điều trị không đúng chỉ định và không kịp thời có thể có những biến chứng nguy hiểm gây ảnh hưởng đến thị lực lâu dài.

Khi có các triệu chứng của bệnh viêm kết mạc cấp tính cần đi khám và điều trị đúng theo hướng dẫn của các bác sĩ chuyên khoa. Không tự ý mua thuốc, hoặc dùng thuốc của người này điều trị cho người khác. Đặc biệt là những thuốc có chất corticosteroid không có chỉ định của bác sĩ.

Có thể áp dụng một số biện pháp hỗ trợ trong quá trình điều trị như đắp khăn mặt ấm lên mắt làm giảm đau và khó chịu, rửa mặt bằng xà phòng nhẹ hoặc dầu gội đầu trẻ em để loại bỏ bớt tác nhân gây bệnh, dùng nước muối sinh lý để rửa mắt và làm mềm lông mi, nhất là vào buổi sáng. Bổ sung vitamin C để tăng cường sức đề kháng.

Cách phòng ngừa bệnh viêm kết mạc cấp tính

– Để phòng bệnh, cần giữ vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân.

– Rửa tay thường xuyên với xà phòng, đặc biệt sau khi tiếp xúc với người bệnh.

– Dùng riêng khăn, chậu rửa mặt khi bị bệnh để tránh lây lan sang người khác.

– Tránh chạm vào mắt không bị nhiễm sau khi đã chạm vào mắt bị nhiễm.

– Khi đi đường bụi phải đeo kính, tra nước muối sinh lý để rửa mắt, rửa tay xà phòng thường xuyên.

– Không tự ý mua thuốc tra nhỏ hoặc dùng thuốc của người khác tra nhỏ khi bị bệnh. Không tự đắp lá trầu, lá dâu vào mắt… vì có thể gây nhiễm trùng nặng thêm.

Bệnh viện Mắt Sài Gòn

Ths.BS Đỗ Minh Lâm

Tài liệu tham khảo:

//www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/17970823

//www.msdmanuals.com/professional/eye-disorders/conjunctival-and-scleral-disorders/acute-bacterial-conjunctivitis

//www2.health.vic.gov.au/public-health/infectious-diseases/disease-information-advice/acute-bacterial-conjunctivitis

//www.healio.com/pediatrics/eye-care/news/online/%7B364d4d0f-901c-41dc-ad8b-ab2fac10edf0%7D/pediatric-acute-bacterial-conjunctivitis-an-update

//emedicine.medscape.com/article/1191730-overview

Một số bệnh về mắt, nhất là một số bệnh liên quan đến kết mạc, giác mạc có thể điều trị bằng cách nhỏ trực tiếp thuốc vào mắt. Loại thuốc dùng trực tiếp trên mắt là thuốc mỡ và thuốc nước. Thuốc tra, nhỏ mắt có đặc điểm ngấm trực tiếp vào mắt rất nhanh. Ví dụ: tetracain ngấm vào nội nhãn qua đường giác mạc nhanh hơn qua đường tiêm tĩnh mạch.

Do tính chất của thuốc tra, nhỏ mắt nên một số bệnh liên quan đến kết mạc, giác mạc thường được bác sĩ chỉ định dùng thuốc nước hay thuốc mỡ là chính. Ngoài ra thuốc nhỏ mắt còn có tác dụng làm sạch mắt, hoặc điều trị một số bệnh sâu hơn trong nhãn cầu như viêm màng bồ đào trước. Ví dụ: atropin dùng trong việc điều trị viêm màng bồ đào, có tác dụng tách dính đồng tử gây ra do viêm màng bồ đào trước. Một trong số những sai lầm của người dùng là thường nghĩ nước nhỏ mắt là phụ khi được cấp phát chung với các loại thuốc khác. Tuy nhiên tra, nhỏ thuốc nhỏ mắt thế nào cho đúng? Cách sử dụng thuốc nhỏ mắt đúng cách là như thế nào? Đây là vấn đề nhiều người còn chưa rõ, cùng tham khảo bài viết dưới đây để biết cách nhỏ thuốc mắt đúng cách.

Cách nhỏ thuốc nước

– Đầu tiên phải lau sạch mắt khỏi bụi bẩn hay ghèn.

– Nhỏ thuốc nước vào từng mắt, lưu ý nhỏ vào góc trong của mắt.

– Sau khi nhỏ, dùng ngón tay giữa kéo mi dưới xuống cho thuốc đều mắt, lưu ý sau khi nhỏ mới kéo mi dưới, không vừa nhỏ vừa kéo.

– Tiếp đó lau các giọt thuốc thừa chảy ra cạnh gốc sống mũi và hai mi.

– Nên để mắt cách đầu lọ thuốc nhỏ khoảng 1-2 cm, tránh để đầu lọ thuốc nhỏ mắt chạm vào mi mắt gây nhiễm khuẩn lọ thuốc nhỏ.

Với thuốc nhỏ mắt bình thường như Natri Clirid bạn có thể nhỏ 3 – 5 lần mỗi ngày. Với những loại thuốc nhỏ mắt chuyên trị, hãy nhỏ theo toa của bác sĩ. Tuy nhiên khi phải nhỏ 3-4 loại thuốc khác nhau thì làm thế nào? Đầu tiên ko nên nhỏ cùng lúc, vì sẽ làm pha loãng thuốc và làm thuốc sau rửa trôi thuốc trước. Vì thế mỗi thuốc nhỏ cách nhau nửa giờ là đủ.

Cách tra thuốc mỡ

– Cách tốt nhất là nhờ người khác nhỏ, trong khi người bệnh nằm ngửa đầu hoặc tựa đầu vào ghế.

– Dùng ngón tay trỏ và ngón cái, khẽ mở khe mắt của người bệnh, sau đó bóp một dải thuốc mỡ dài 3-5 ly vào mi dưới.

– Thả ngón trỏ khỏi mi dưới, tuy nhiên ngón cái vẫn giữ mi trên, không cho chớp. Vì mi trên chớp rất nhanh sẽ làm thuốc mỡ dính lên mi và không ngấm được vào mắt.

Thoa thuốc mỡ phải theo chỉ định của bác sĩ, nhưng để dễ dàng hơn nên tra vào giờ ngủ trưa hoặc tối trước khi đi ngủ, như vậy sẽ đủ thời gian hơn cho thuốc ngấm vào mắt.

Một số lưu ý khi sử dụng thuốc nhỏ mắt

* Mỗi lần chỉ cần nhỏ 1 giọt duy nhất, giọt thứ hai thường bị tràn ra ngoài mắt, làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn mắt, không những gây lãng phí mà còn làm giảm hiệu quả điều trị.

* Nếu sử dụng song song hai loại thuốc nước và thuốc mỡ, nên sử dụng thuốc nước trước, sau đó khoảng nửa giờ sau mới sử dụng thuốc mỡ để tránh thuốc mỡ ngăn cản sự hấp thu của thuốc nước.

* Sau khi vào mắt, thuốc sẽ qua ống mũi lệ vào mũi họng. Những loại thuốc điều trị tăng nhãn áp thường rất dễ ngấm vào máu theo cách nhỏ mắt thông thường. Vì thế, sau khi nhỏ thuốc hãy nhắm mắt, dùng ngón trỏ ấn nhẹ vào góc trong mắt ở gần sống mũi. Ấn trong khoảng 1-2 phút để tạo áp lực giúp giảm lượng thuốc trôi xuống mũi và họng.

Tài liệu tham khảo: tài liệu điều dưỡng Bệnh viện Mắt Sài Gòn

Video liên quan

Chủ Đề