Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là gì

Bài viết được tư vấn chuyên môn & chia sẻ kinh nghiệm thực tế bởi Luật sư Nguyễn Hồng Quân.

LUẬT SƯ NGUYỄN HỒNG QUÂN LÀ LUẬT SƯ CHUYÊN GIẢI QUYẾT ÁN HÌNH SỰ, NHÀ ĐẤT. Với phương châm làm việc "chọn việc Đúng - Đáng - Đàng hoàng- Đặt Lợi Ích Khách Hàng Lên Hàng Đầu" kết hợp với bề dày kinh nghiệm trong việc tư vấn, tranh tụng, hỗ trợ pháp lý cho các khách hàng trong các vụ án hình sự, kinh tế lớn. 


1. Tội phạm là gì?

Tội phạm theo Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 [gọi tắt là Bộ luật Hình sự] định nghĩa: “là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.”

Tuy nhiên không phải bất kỳ hành vi nào có dấu hiệu của tội phạm cũng bị xem là tội phạm. Khoản 2 Điều 8 Bộ luật này đã quy định: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.”

>> Xem thêm: Tội phạm và hành vi phạm tội.

2. Một hành vi bị coi là tội phạm khi có các dấu hiệu sau:

Thứ nhất, tính nguy hiểm cho xã hội: hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội được hiểu là hành vi đó gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.

Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội…” Như vậy, tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất để xác định một hành vi có phải là tội phạm hay không. Một hành vi bị coi là tội phạm bản chất trong hành vi ấy đã chứa đựng tính nguy hiểm cho xã hội.

Để xác định tính nguy hiểm cho xã hội, thường dựa vào các căn cứ sau:

  • Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại;
  • Phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện phạm tội
  • Mức độ gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội;
  • Tính chất và mức độ lỗi;
  • Động cơ và mục đích của người phạm tội;
  • Các căn cứ khác như hoàn cảnh xã hội, nhân thân người phạm tội,...

>> Thông tin hữu ích:

Thứ hai, tính có lỗi: lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của chủ thể đối với hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó dưới hình thức vô ý hoặc cố ý. Bản chất của lỗi thể hiện ở việc người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được nguy hiểm đó nhưng tự mình lựa chọn và quyết định thực hiện hành vi trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn một xử sự khác phù hợp với lợi ích của xã hội.

Lỗi được phân loại thành lỗi cố ý và lỗi vô ý.

Theo đó lỗi cố ý bao gồm:

  • Cố ý trực tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
  • Cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Lỗi vô ý bao gồm:

  • Lỗi vô ý do quá tự tin: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
  • Lỗi vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

>> Đặt câu hỏi MIỄN PHÍ về dấu hiệu và cấu thành tội phạm với 400+ Luật sư hình sự.

Thứ ba, tính trái pháp luật hình sự:

Một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm nếu “... được quy định trong luật hình sự”.

Điều 2 Bộ luật Hình sự quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự như sau:

“1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.”

Như vậy hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự hay tính trái pháp luật hình sự là một dấu hiệu của tội phạm. Bất cứ hành vi nào không được quy định là một tội trong Bộ luật Hình sự thì việc thực hiện hành vi đó không bị xem là tội phạm.

Thứ tư, tính phải chịu hình phạt:

Tính phải chịu hình phạt thể hiện ở chỗ bất cứ tội phạm nào cũng đều bị áp dụng hoặc đe dọa áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất là hình phạt. Hình phạt được coi là cơ chế răn đe, giáo dục đối với tội phạm. 

Tóm lại, một hành vi được coi là tội phạm khi nó thỏa mãn đủ bốn dấu hiệu nêu trên.

Cấu thành tội phạm là gì? Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm?

Cấu thành tội phạm theo đó là tổng hợp những dấu hiệu có tính đặc trưng cho từng loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự.

Dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm phản ánh nội dung các yếu tố của tội phạm. Tuy nhiên không phải tất cả các dấu hiệu đều được nêu trong một cấu thành tội phạm. Theo đó, các dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm bao gồm:

  • Hành vi trong mặt khách quan của tội phạm
  • Lỗi trong mặt chủ quan của tội phạm
  • Chủ thể có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Những dấu hiệu khác là không bắt buộc, có những dấu hiệu được nêu trong cấu thành tội phạm này nhưng không được nêu trong cấu thành tội phạm khác. 


2. Đặc điểm của các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm:

  • Thứ nhất, các dấu hiệu đều do luật định: theo quy định tội phạm phải được quy định trong luật hình sự. Do đó, tất cả các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đều phải được quy định trong luật hình sự. 
  • Thứ hai, các dấu hiệu đều có tính đặc trưng: vì nó phản ánh được tính nguy hiểm cho xã hội của từng hành vi phạm tội, cho phép phân biệt tội này với tội khác. Không thể có hai cấu thành tội phạm giống hệt nhau.
  • Thứ ba, các dấu hiệu có tính bắt buộc: tất cả các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm đều có tính bắt buộc vì đó là điều kiện cần để khẳng định một hành vi nào đó có phải là hành vi phạm tội cụ thể hay không.

Bạn vẫn còn thắc mắc? Hơn 400 Luật sư chuyên về Hình sự trên iLAW đang sẵn sàng hỗ trợ bạn. Hãy chọn ngay một Luật sư gần bạn và liên hệ với Luật sư đó để được tư vấn miễn phí. 

|Ngày nay, thuê luật sư riêng cho cá nhân, gia đình đang là một xu hướng thịnh hành trong những năm gần đây. Quý độc giả có thể tham khảo thêm.

THÔNG TIN LIÊN QUAN:

Danh bạ Luật sư Hình sự

Tạm giam hình sự

Bộ luật tố tụng hình sự

Câu hỏi hình sự

Video liên quan

Chủ Đề