Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên người ấn Độ cổ đại đã đạt được những thành tựu gì về toán học

154332 điểm

trần tiến

hãy nêu những thành tựu văn hóa tiêu biểu của Ấn Độ cổ đại.

Tổng hợp câu trả lời [3]

Những thành tựu văn hóa tiêu biểu của Ấn Độ cổ đại là: • Ấn Độ là nơi khởi phát của tôn giáo, trong đó hai tôn giáo chính là Hin-đu và Phật giáo. • Người Ấn Độ sáng tạo ra chữ viết từ rất sớm, phổ biến nhất là chữ Phạn. • Văn học Ấn Độ phong phú và nhiều thể loại, tiêu biểu nhất là sử thi. • Công trình kiến trúc Hinđu giáo và Phật giáo đồ sộ, được xây dựng nhiều nơi • Người Ấn Độ biết làm ra lịch, tạo ra các chữ số mà ngày nay vẫn còn đang sử dụng.

Những thành tựu văn hóa tiêu biểu của Ấn Độ cổ đại là: • Ấn Độ là nơi khởi phát của tôn giáo, trong đó hai tôn giáo chính là Hin-đu và Phật giáo. • Người Ấn Độ sáng tạo ra chữ viết từ rất sớm, phổ biến nhất là chữ Phạn. • Văn học Ấn Độ phong phú và nhiều thể loại, tiêu biểu nhất là sử thi. • Công trình kiến trúc Hinđu giáo và Phật giáo đồ sộ, được xây dựng nhiều nơi • Người Ấn Độ biết làm ra lịch, tạo ra các chữ số mà ngày nay vẫn còn đang sử dụng.

Những thành tựu văn hóa tiêu biểu của Ấn Độ cổ đại là: • Ấn Độ là nơi khởi phát của tôn giáo, trong đó hai tôn giáo chính là Hin-đu và Phật giáo. • Người Ấn Độ sáng tạo ra chữ viết từ rất sớm, phổ biến nhất là chữ Phạn. • Văn học Ấn Độ phong phú và nhiều thể loại, tiêu biểu nhất là sử thi. • Công trình kiến trúc Hinđu giáo và Phật giáo đồ sộ, được xây dựng nhiều nơi • Người Ấn Độ biết làm ra lịch, tạo ra các chữ số mà ngày nay vẫn còn đang sử dụng.

Tham khảo giải bài tập hay nhất

Loạt bài Lớp 6 hay nhất

xem thêm

Hi Lạp được coi là quê hương của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau của khoa học tự nhiên [Thiên văn học, địa lí, toán học, vật lí, sinh vật, y dược]. Là nơi sản sinh ra những con người khổng lồ, kiến thức uyên bác, với những thành tựu đáng giá đóng góp cho kho tàng khoa học tự nhiên của lịch sử nhân loại.

Toán học

Toán học Hi Lạp với Talét [thế kỉ VI TCN], Pitago [580 – 500 TCN], Ơcơlít, Acsimét [285 – 212 TCN]… đã vượt qua cách tính nhân, chia, cộng, trừ sơ cấp, vươn tới sự khái quát thành những định lí, định đề, nguyên lí vẫn được sử dụng trong toán học hiện đại: Định lí Pitago, định lí Talét, định luật Acsimét, định đề Ơcơlít…

Các nhà toán học Hi Lạp cổ đại đã phát minh và đặt cơ sở cho môn hình học. Họ đã tính được độ dài của chu vi quả đất [39.700 km], đường kính, diện tích và chu vi các hình với việc tìm ra giá trị của số đo pi = 3,1324.

Talét [Thế kỉ VI TCN] nhà toán học, thiên văn học và triết học Hi Lạp, quê ở Milê. Người đầu tiên đo được chiều cao của Kim tự tháp nhờ phương pháp đo và tính bóng của nó trên mặt đất. Talét cũng là nhà thiên văn học đầu tiên tính toán và dự báo chính xác ngày xảy ra nhật thực ở Milê – ngày 28 – 5 – 585 TCN.

Pitago [580 – 500 TCN] nhà số học nổi tiếng, quê ở đảo gamốt [thuộc biển Êgiê] người theo chủ trương xây dựng nền chính trị bảo thủ nên đã bỏ Xamốt sang sống ở Nam Hi Lạp, đã từng mở trường dạy học. Pitago [và những học trò của ông] đã có công tổng kết những tri thức về số học, thiết lập nhiều công thức, định lí toán học trong đó có định lí Pitago “Tổng bình phương của hai cạnh góc vuông bằng bình phương của cạnh huyền trong một tam giác”. Pitago còn là nhà thiên văn học tiến bộ thừa nhận trái đất hình cầu, chuyển động theo một quỹ đạo nhất định.

Acsimét [285 – 212 TCN] – nhà vật lí có tên tuổi nhất, người chế tạo ra những hệ thống máy móc đầu tiên ở Hi Lạp – quê ở Xixin [thành bang Xiracudơ] tác giả của định luật Acsimét, người phát hiện ra sức đẩy của nước [bằng chính trọng lượng của vật ở trong nước], phát hiện ra nguyên lí của phép đòn bẩy. Khi Rôma tấn công Xiracudơ, Acsimét đã phát minh ra nhiều vũ khí, máy móc bảo vệ thành: kính hội tụ để sử dụng ánh nắng mặt trời đốt cháy thuyền Rôma; máy bơm nước sử dụng tay để hút nước cho các chiến thuyền Hi Lạp. Acsimet cũng là người tìm ra giá trị của số pi = 3,1324. Acsimét bị quân Rôma giết chết ngay trong phòng thí nghiệm của ông ở Xiracudơ.

Ơcơlít [nửa đầu thế kỉ III TCN], nhà toán học quê ở Alexandria [Ai Cập] người có công tập hợp nhiều nhà toán học và nhiều công trình toán học về Alexandria; người đầu tiên biên soạn sách giáo khoa hình học.

Thiên văn học

Về thiên văn học, người Hi Lạp cũng có những thành tựu và đóng góp đáng kể với tên tuổi của các nhà thiên văn sáng giá: Talét [thế kỉ VI TCN], Pitago [580 – 500 TCN], Arixtác [khoảng thế kỉ III TCN], Eraxtôten [281 – 192 TCN], Hecataút.

  • Các nhà thiên văn Hi Lạp đã nghiên cứu và công bố những bản đồ thiên văn Babylon;
  • dự đoán được ngày nguyệt thực, nhật thực [Talét];
  • thừa nhận quả đất hình cầu và chuyển động theo một quỹ đạo nhất định [Pitago];
  • đề ra thuyết về hệ thống mặt trời và thuyết trái đất tự xoay quanh nó và xoay quanh mặt trời [Arixtác, người ở đảo Xamốt];
  • tính được độ dài của chu vi quả đất với con số tương đối chính xác 39.700 km [Eraxtôten, người ở Alexandria];
  • vẽ được bản đồ đầu tiên của thế giới [Hêcataút];
  • tính được một năm có 365 ngày và 5/19 của ngày [Mêtôn, thế kỉ V TCN].

Y học

Về y học, Híppôcơrát [460 – 377 TCN] được coi là “ông tổ của khoa học y dược”, là người đả phá mạnh những tư tưởng mê tín, dị đoan trong chữa bệnh, đề ra việc chữa bệnh bằng phương pháp khoa học và yêu cầu đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp đối với các thầy thuốc.

Hêrôphin [đầu thế kỉ III TCN] là người đầu tiên nêu ra luận điểm não là trung tâm hệ thần kinh, chỉ huy các hoạt động của con người. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra học thuyết về sự tuần hoàn của máu và phương pháp khám bệnh thông qua việc bắt mạch [nhanh, chậm] của bệnh nhân.

Hêracơlít – người xứ Tarentum – nổi tiếng trong giới phẫu thuật Hi Lạp. Tương truyền, khi mổ xẻ, Hêracơlít đã sử dụng thuốc mê để giảm sự đau đớn cho bệnh nhân.

Lịch sử thế giới cổ đại - NXB Giáo dục,

a] Chữ viết: Thời đại Harappa-Môhenjô Đarô, ở miền Bắc Ấn đã xuất hiện một loại chữ cổ mà ngày nay người ta còn lưu giữ được khoảng 3000 con dấu có khắc những kí hiệu đồ hoạ. Thế kỉ VII TCN, ở đây đã xuất hiện chữ Brami, ngày nay còn khoảng 30 bảng đá có khắc loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brami, thế kỉ V TCN ở Ấn Độ lại xuất hiện chữ Sanscrit, đây là cơ sở của nhiều loại chữ viết ở Ấn Độ và Đông Nam Á sau này.

b] Văn học: Ấn Độ là nước có nèn văn học rất phát triển, gồm có 2 bộ phận chính là Vê đa và sử thi, tuy nhiên nổi bật hơn cả là sử thi với hai tác phẩm văn học nổi bật thời cổ đại là Mahabharata và Ramayana. Mahabharata là bản trường ca gồm 220 000 câu thơ. Bản trường ca này nói về một cuộc chiến tranh giữa các con cháu Bharata. Bản trường ca này có thể coi là một bộ “bách khoa toàn thư” phản ánh mọi mặt về đời sống xã hội Ấn Độ thời đó. Ramayana là một bộ sử thi dài 48 000 câu thơ, mô tả một cuộc tình giữa chàng hoàng tử Rama và công chúa Sita. Thiên tình sử này ảnh hưởng tới văn học dân gian một số nước Đông Nam Á. Riêmkê ở Campuchia, Riêmkhiêm ở Thái Lan chắc chắn có ảnh hưởng từ Ramayana. Thời cổ đại ở Ấn Độ còn có tâp ngụ ngôn Năm phương pháp chứa đựng rất nhiều tư tưởng được gặp lại trong ngụ ngôn của một số dân tộc Á-Âu.

c] Nghệ thuật: Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tới nhiều nước Đông Nam Á. Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một tôn giáo nhất định, do yêu cầu của tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra ba dòng nghệ thuật: Hinđu giáo, Phật giáo, Hồi giáo. Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajanta ở miền trung Ấn Độ. Đây là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa, các gian chùa thường hình vuông và nhiều gian mỗi cạnh tới 20m. Trên vách hang có những bức tượng Phật và nhiều bích hoạ rất đẹp.

READ:  Những thành tựu nổi bật của nền văn minh Tây Âu thời phục hưng

Các công trình kiến trúc Hinđu giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn Độ và được xây dựng nhiều vào khoảng thế kỉ VII – XI. Tiêu biểu cho các công trình Hinđu giáo là cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn, gồm tất cả 85 đền xen giữa những hồ nước và những cánh đồng.

Những công trình kiến trúc Hồi giáo nổi bật ở Ấn Độ là tháp Mina, được xây dựng vào khoảng thế kỉ XIII và lăng Taj Mahan được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVII.

d] Khoa học tự nhiên:
– Về Thiên văn: người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch, họ chia một năm ra làm 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. [ Như vậy năm bình thường có 360 ngày ]. Cứ sau 5 năm thì họ lại thêm vào một tháng nhuận.

– Về Toán học: Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số mà ngày nay ta quen gọi là số Arập. Đóng góp lớn nhất của họ là đặt ra số không, nhờ vậy mọi biến đổi toán học trở thành đơn giản, ngắn gọn hẳn lên. [Người Tây Âu vì vậy mà từ bỏ số La Mã mà sử dụng số Arập trong toán học.] Họ đã tính được căn bậc 2 và căn bậc 3; đã có hiểu biết về cấp số, đã biết về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác. Pi = 3,1416.

READ:  Những nét văn hóa Ấn độ trong truyện cổ tích Việt Nam

– Về vật lý: Người Ấn Độ cổ đại cũng đã có thuyết nguyên tử. Thế kỉ V TCN, có một nhà thông thái ở Ấn Độ đã viết “…trái đất, do trọng lực của bản thân đã hút tất cả các vật về phía nó”.

– Y học: cũng khá phát triển. Người Ấn Độ cổ đại đã mô tả các dây gân, cách chắp ghép xương sọ, cắt màng mắt, theo dõi quá trình phát triển của thai nhi. Họ để lại hai quyển sách là “ Y học toát yếu” và “ Luận khảo về trị liệu”.

[Tổng: 5 Trung bình: 3.8]

Video liên quan

Chủ Đề