Thiện tài đồng tử là ai
Thiện Tài đồng tử là Bồ tát tái sanh nên căn lành sâu dày, rộng lớn vô cùng, mới được ngài Văn Thù tìm đến khai ngộ, dạy cho đồng tử đạo Bồ đề để nhận thức được khổ đau sanh tử trầm luân mà tránh được nhiễm ô trần thế. Trên bước đường tu, gặp được minh sư hướng dẫn là điều vô cùng quan trọng. Vì trong thực tế cuộc sống, chúng ta thấy nhiều người tuy có căn lành, nhưng không được phước duyên gặp Bồ tát chỉ dạy, thì sẽ bị người đời nhồi nặn một lúc, họ cũng trôi lăn theo dòng sông mê bể khổ. Thiện Tài thì khác hẳn, nhờ Bồ tát Văn Thù khai tâm, liền nhớ ngay cõi này là chốn giả tạm, khổ đau, không phải là chốn quê nhà vĩnh hằng của ông. Nhận thức sâu sắc như vậy, Thiện Tài một lòng cầu thỉnh Bồ tát Văn Thù chỉ dạy phương cách thoát ly trần ai khổ lụy. Văn Thù Sư Lợi khẳng định chỉ có một cách duy nhất là tầm sư học đạo. Thật vậy, khi đã ý thức rõ cuộc đời là huyễn ảo, xấu xa, chúng ta phải hướng tâm đi tìm cái chân thực, tốt đẹp vĩnh hằng. Thiện Tài có cả gia nghiệp đầy đủ của báu, không thiếu gì, nhưng ngài thấy nó chỉ tạo thêm ràng buộc, nên sẵn sàng từ bỏ để dấn thân tìm đạo. ĐứcPhật Thích Ca xuất gia cũng với ý thức hoàn toàn buông bỏ dục lạc mới đạt được quả Vô thượng Đẳng giác. Còn chúng ta không có gì mà còn muốn tạo thêm, nhiều tham muốn quá, chắc chắn cách đạo còn xa, khó lòng đi trọn con đường giác ngộ. Tuy nhiên, việc tầm sư học đạo không đơn giản. Riêng tôi, từ lúc mới 12 tuổi đầu, mang chí xuất gia cũng khổ vô cùng với vấn đề tìm chùa để tu, tìm Thầy để theo học đúng chánh pháp. Vì vậy, có người tu một lúc rồi cũng quay trở về. Đi một đoạn đường tu tương đối còn nhiều người, nhưng đi cho trọn Phật đạo thì thật là hiếm. Nếu may mắn gặp Văn Thù trên đường tìm đạo thì còn gì hạnh phúc hơn. Thuở nhỏ, tôi được nhiều người giúp đỡ. Đặc biệt có một Hòa thượng rất giỏi về thuốc Bắc và uyên thâm Hán học. Bất chợt, ngài gặp tôi ở Đức Hòa và bảo tôi nên về chùa Huê Nghiêm ở Thủ Đức tu với Hòa thượng Trí Đức là cố Viện chủ Tổ đình Huê Nghiêm. Nghe lời chỉ dạy đó, tôi lội bộ từ Củ Chi đến Đức Hòa, rồi đi ngược trở về Thủ Đức, không có một đồng xu lận lưng. Với duyên may ấy đã đưa tôi đến nương với Hòa thượng Huê Nghiêm, tiến tu đến ngày nay. Thiện Tài được khai ngộ và phát tâm Bồ đề rồi, Văn Thù cho biết việc của ông đến đây là xong và khuyên từ đây về sau Thiện Tài nên hành Bồ tát đạo, dấn thân vào đời để tìm chơn thiện tri thức, không phải ngụy thiện tri thức. Văn Thù chỉ dạy Thiện Tài nên đi về phương Nam, trên đỉnh núi Diệu Phong học đạo với Tỳ kheo Đức Vân đang tu Bồ tát hạnh. Muốn hành Bồ tát đạo mà lại tìm Thanh văn để học là chuyện trái ngược, nhưng Thiện Tài vâng lời dạy không chút nghi ngờ, rồi hướng về hư không lạy, đền ơn tri ngộ. Tìm Tỳ kheo trên đỉnh núi cao, nghĩa là người cầu đạo phát tâm Bồ đề phải hướng ý chí đến quả vị cao nhất là Phật. Tìm đạo với Tỳ kheo, vì đó là đệ tử Phật đang tiến trên lộ trình cầu thành Phật quả. Thật là Tỳ kheo thì phải thể hiện năm đức tánh tiêu biểu. Trước nhất, Tỳ kheo có hình tướng giải thoát khiến người từ xa trông thấy đã phát tâm. Khi đến gần, nhận thấy lời nói, dáng đi, cử chỉ của Tỳ kheo đều đáng cho ta kính trọng. Và càng tiếp xúc, gần gũi nhiều năm với Tỳ kheo, ta chỉ thấy những điều tốt của họ và cuộc sống thánh thiện ấy tác động cho ta hưởng hương vị giải thoát. Tâm hoàn toàn thanh thoát, hướng thượng, gần gũi và học với người cao thượng là con đường mà Văn Thù dạy chúng ta phải trải qua trên bước đường tu, đi tắt vào đời không được. Tỳ kheo Đức Vân ở trên núi nhiều năm cũng làm bao nhiêu việcbình thường, nhưng hơn người thế tục ở năm đức tánh thánh thiện trên. Nghe lời Văn Thù, Thiện Tài khao khát đến núi Diệu Phong tìm Đức Vân Tỳ kheo, nhưng tìm hoài không gặp. Sau khi đi vòng quanh núi bảy ngày, mới thấy một vị sư đang chậm rãi đi kinh hành ở đỉnh núi toát ra đức hạnh cao cả như ngọn núi cao mà ngài đang sống. Phải mất một tuần mới tìm được Đức Vân, haynói cách khác, chúng ta tu hành luôn luôn có giai đoạn thử thách. Trong một tuần cầu đạo, lòng chúng ta thường quyết tâm đến độ cao, dù tan thân mất mạng cũng cam chịu. Khi nghĩ lên núi tu tưởng là đơn giản, dễ dàng, nhưng thực tế không như ta mơ tưởng. Chẳng hạn như từ chân núi Thị Vải leo lên, mệt thở không ra hơi, chẳng thấy bồng lai tiên cảnh hay bóng dáng tiên nào cả, chỉ có nắng chang chang, toàn là đá với đá, khiến ta bắt đầu nản chí tang bồng. Suốt một tuần tìm đạo, người không có căn lành cảm thấy buồn thiu, chán ngắt và bắt đầu nhớ gia đình. Trái lại, với người có căn lành sâu dày nơi Phật đạo, cảnh u tịch của núi rừng tác động cho tâm hồn họ trở nên nhẹ nhàng, trong sáng. Từ một ngày đến bảy ngày, họ quên hết thế sự, kể cả gia đình. Lúc đó, chỉ một lòng thiết tha cầu đạo mới gặp được Đức Vân. Thiện Tài trong một tuần quyết tâm tìm thì Đức Vân xuất hiện. Và với căn lành có sẵn, khi thấy đạo hạnh của ngài sáng ngời, chỉ trong khoảnh khắc, thân tâm Thiện Tài liền thanh tịnh. Người có căn lành tu dễ dàng, chỉ nhìn thấy là đắc đạo liền, vì đời trước đã từng tu, đã thực hiện các pháp lành của Phật, nên nay thấy quen thuộc. Giữa Thầy và họ liền hợp nhau, thông nhau và bằng quyết tâm cầu giải thoát, chỉ trong chớp mắt tiếp nhận được sở đắc của Thầy. Văn Thù bảo Thiện Tài tìm Đức Vân, nhằm nhắc nhở chúng ta sơ tâm học đạo cần phải tìm một vị danh Tăng, một người đức hạnh để nương theo. Đó là ý thức đầu tiên cần có, vì trên đường tu, người sơ tâm mà gặp người phiền não thì nghiệp chướng trần lao phát sanh. Đức hạnh là việc quan trọng chính, trước nhất xuất gia phải nương tựa với người phước đức, ví nhưcây tùng không bị phong ba bão táp quật ngã. Bước đầu tu không giữ đức hạnh thì càng về sau, cuộc đời tu của chúng ta càng khó khăn vì bị người bươi móc tội lỗi. Riêng tôi may mắn được cầu pháp với Hòa thượng Huê Nghiêm. Niềm tin của Hòa thượng đối với Phật rất cao và tấm lòng của Hòa thượng đối với đạo cũng hiếm người có được. Cách hành đạo của Hòa thượng tôi thấy rõ là Ngài không đòi hỏi bất cứ quyền lợi nào, chỉ mong được đền trả ơn Phật. Ngài sợ thời gian trôi qua mà đạo quả chưa thành, nên lúc đại chúng ngủ, Hòa thượng vẫn tiếp tục lạy Phật, trì chú, khiến tôi sanh tâm kính trọng và cũng bắt chước nỗ lực công phu tu tập như ngài. Nghĩa là tôi đã nương được đức hạnh của Hòa thượng. Ngược lại, chúng ta theo vị Thầy chỉ lo tham đắm thế gian thì rõ ràng đang tiến bước trên đường ác. Để thâm nhập Pháp giới, kinh Hoa Nghiêm đảo ngược thứ tự, theo đó thứ nhất tu chùa, thứ nhì tu chợ, thứ ba mới tu nhà. Nói cách khác, vào chùa học đạo Vô thượng của Như Lai xong, mới đem Phật pháp vào xã hội và sau cùng trở về hướng dẫn gia đình. Bước đầu tìm cao Tăng học đạo, tìm người đức hạnh sánh bằng trời cao, tiêu biểu bằng hình ảnh Đức Vân Tỳ kheo, để rèn luyện mình thành người đạo đức. Từ đây, phải làm theo tất cả phương tiện mà vị thiện tri thức dạy. Ở giai đoạn này, phần lớn thiện tri thức dạy chúng ta tích tụ công đức, nên làm việc nặng nhọc thay cho mọi người không biết nhàm chán, mới là cầu đạo thật. Như Huệ Năng bửa củi, gánh nước, giã gạo, sau ngài thành Tổ, thể hiện rõ nét gương sáng nhập Pháp giới. Trái lại, chúng ta thấy phần lớn những người lánh nặng tìm nhẹ, thích làm việc nổi cho nhiều người biết, thì cuối cuộc đời của họ cũng chẳng ra sao. Tôi sớm ý thức sự quan trọng của việc tích lũy công đức trên bước đường tu, từ thuở ấu thơ mới vào đạo, đã siêng năng làm những việc nặng nhọc mà người khác thường chê bỏ, trốn tránh. Nhờ cực khổ công quả cho Phật lâu ngày, tích tụ thành công đức, giúp tôi thăng hoa cuộc sống đạo hạnh đến ngày nay. Biết nương theo người đạo đức để tự sửa mình cho trong sạch, mới dễ tiến xa. Tôi thấy trên thực tế, có nhiều chùa vắng người ở, nhưng có Thầy lại kiếm không được chùa để ở. Chúng ta phải tự xem tại sao người không dung chứa mình. Theo ý tôi, rõ ràng là tại ta không có đức hạnh, xuất gia tu học không đúng pháp mới ra nông nổi ấy. Thiết nghĩ lo tu bồi cội đức thì sau này có điều kiện tốt cho ta phát triển khả năng. Những người thiếu đức hạnh, dù giỏi cũng không dùng được. Việc tu hành trước tiên phải lo rèn luyện đức hạnh tốt khả dĩ thay Phật giáo hóa độ sanh. Luyện mình thành người đức hạnh, tức ba nghiệp thuần hòa, chỉ quyết tâm làm đạo, việc bình thường khác không nghĩ đến và không làm. Một người có đức hạnh thật, chắc chắn người khác nhìn thấy phải có cảm tình ngay. Không đức hạnh, ăn nói bừa bãi, hiện tướng hung dữ, thì có năn nỉ, người ta cũng không cho mình ở, dù chùa còn phòng rộng thênh thang. Thuở nhỏ, tôi may mắn gặp quý Thầy thường nhắc nhở, dạy tôi phải làm những việc gì để trở thành người đức hạnh. Tôi vâng lời làm đúng vậy, nên đến đâu cũng được thương mến. Chỉ nhìn những gì tốt, hay, phải mà bắt chước theo. Tôi thấy những Thầy khác thường phạm sai lầm vì chỉ biết những việc xấu của người, còn việc đáng làm, nên biết, thì lại ở ngoài tai, không đụng đến. Nghe lời Thầy, tôi không màng quan tâm đến việc lặt vặt của người khác, nỗ lực học kinh điển và sống hòa với đại chúng. Tôi công quả, làm được việc, thì người mới cho ở và thương được. Tôi làm Hương đăng thì trang hoàng bông trái đẹp đẽ, quét dọn sạch sẽ. Làm vệ sinh nhà cầu thì cũng siêng năng làm sạch không ai bằng. Thiết nghĩ chúng ta hiện hữu nơi nào đều cần thiết, lợi ích cho người; nói cách khác, có tài và đức tánh tốt, đó là đức hạnh.
Thiện tài đồng tử 1. Học đạo từ Văn-thù và Phổ Hiền Thiện Tài Đồng Tử là một thanh niên nổi danh do hành Bồ-tát hạnh kiệt xuất. Thiện Tài được cảm hóa và trực tiếp lãnh thọ sự dẫn dắt của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, qua đó được gián tiếp lãnh thọ ảnh hưởng hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền. Khi mới phát tâm Bồ-đề hành Bồ-tát đạo, Thiện Tài rất ham học hỏi không biết mệt mỏi, một lòng một dạ thực hành chưa hề thối chuyển. Văn-thù và Phổ Hiền là hai vị Bồ-tát nổi tiếng xưa nay trong Phật giáo, đều là bậc thượng thủ trong các Bồ-tát. Nơi pháp hội của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, hai vị đồng tâm hiệp lực phò trợ pháp Đại thừa “bi trí song vận” vô thượng thậm thâm vi diệu, thực hiện đạo Bồ-tát: Trừ cái khổ của chúng sinh và ban vui cho chúng sinh, đầy đủ bản hoài cứu nhân độ thế của Phật, từng bước cải tiến cõi nhân gian trở thành cảnh Tịnh độ. Phật là bậc Thánh vô thượng đầy đủ đại bi đại trí, biểu hiện bi trí viên dung tùy cơ giáo hóa, dùng phương tiện dẫn dắt chúng sinh quy hướng Bồ-đề, cho nên nói Phật là Vô thượng, lòng từ bi và trí tuệ sâu rộng khôn lường. Văn-thù và Phổ Hiền chưa được đầy đủ bi trí như đức Phật, nhưng mỗi vị lại chuyên sâu một mặt, hai vị hợp lại có thể hiển thị đầy đủ công năng đại bi đại trí như đức Phật. Chẳng hạn như nếu phân biệt về việc tuyên dương thì mỗi vị đều tự nêu cao bi và trí (mặc dù hai mặt mà một thể) của đức Phật. Do chỗ phân biệt tính chất đặc thù của từng vị cho nên trong hàng Bồ-tát, các Ngài được tôn xưng là Đại Trí Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-tát, thành ra phân thân đại bi và đại trí của đức Phật. Mỗi vị tùy theo nhiệm vụ riêng mà hành hóa tại nhân gian.Đạo Đại thừa Bồ-tát là sự kết hợp, cấu thành của bi trí rộng lớn vô biên, vốn chỉ là một thể mà không có hai. Dùng phương tiện mà nói thì mới có phân biệt bi trí tương đối, trước sau sâu cạn chẳng đồng. Như nương nơi đại bi mà lập đại nguyện thì việc độ sinh lấy đại bi làm đầu, như nương nơi đại trí mà thành đại hạnh thì việc giáo hóa lấy đại trí làm đầu. Không đại bi chẳng thể phát đại nguyện, không đại trí chẳng thành đại hạnh. Đại bi thâu nhiếp hết thảy hạnh nguyện cho nên thành hạnh Phổ Hiền. Người học đạo Bồ-tát phải lấy hạnh Phổ Hiền làm lý tưởng thực hiện. Hoàn thành hạnh Phổ Hiền cũng tức là hoàn thành bi đức của Phật. Đại trí thâu nhiếp hết thảy phương tiện, không có phương tiện thì chẳng thể độ sinh, không thành tựu được hạnh Bồ-tát. Cho nên, người học hạnh Bồ-tát lấy trí Văn-thù làm mục tiêu, trí Văn-thù viên thành cũng tức là viên thành trí đức của Phật. Nếu như tổng hợp hai thứ ấy lại tức là tròn đầy bi trí của Phật. Việc thực hiện hạnh Bồ-tát tuy có phân ra bi trí, nhưng thực tế thì phải dựa vào nhau mà hành, nương vào nhau mà thành và cần phải có sự liên hệ nhất quán mới có thể hành trung đạo Đại thừa viên dung vô ngại. Như người mù và người què nương nhau mới có lợi. Nếu đem tính nhất quán của bi trí mà triển khai một cách máy móc thì cũng giống như đem người mù và người què tách riêng ra sẽ đi đến chỗ thất cách, hoặc là bất cập hoặc là thái quá, không thành tựu trung đạo và cả hai đều không có lợi. Thiện Tài Đồng Tử học theo hạnh Bồ-tát cho nên phát sinh quan hệ mật thiết với ngài Văn-thù và Phổ Hiền, đó cũng là lý và thế tất nhiên của sự phát triển mà thôi. Việc thực hành hạnh Bồ-tát của Thiện Tài Đồng Tử biểu hiện ở chỗ nghiêng nặng về đại trí, vì vậy cậu mới chịu sự chỉ đạo của Bồ-tát Văn-thù mà thực hiện một sự tham vấn rộng rãi. Thật ra, sự tham vấn đó cũng là mục đích hoàn thành đầy đủ hạnh Phổ Hiền rộng lớn, vì tham vấn tức là thực hành hạnh Phổ Hiền, không lìa hạnh Phổ Hiền. Nhưng nếu xét về mặt đại trí thì đó là tạm ẩn tàng cái bi hạnh mà nêu cái nghĩa thù thắng của đại trí, đề cao tính vô thượng của hạnh Đại thừa Bồ-tát, tròn đầy ánh sáng nơi pháp giới.Việc thực hành Bồ-tát đạo của Thiện Tài chịu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp với Văn-thù và Phổ Hiền. Vì sao lại phải triển khai? Điều này vốn xuất hiện trong sự tích tham vấn Thiện tri thức liên tục của Thiện Tài Đồng Tử, nhưng bài văn này chỉ đề cập đến phần mở đầu trước khi Thiện Tài đi tham vấn mà thôi. 2. Hội Phổ Chiếu Pháp Giới ở chùa Đại Tháp Trong sự nghiệp lớn cứu nhân độ thế mà đức Phật Thích-ca Mâu-ni kiến thiết, Văn-thù và Phổ Hiền cùng phân chia trách nhiệm gánh vác tuyên truyền và phát triển rộng rãi. Phổ Hiền lãnh đạo phần lớn thanh niên thuộc hội Hành Chứng (tu hành chứng quả) nghiêng về việc tu học thực hành, cho nên thường an định một chỗ. Văn-thù dựa vào biện tài vô ngại, lãnh đạo phần lớn thanh niên thuộc đoàn Tín Giải (tin hiểu) xem trọng việc phát dương lý trí, cho nên thường lưu động tuyên truyền bốn phương. Hai Ngài phân công hợp tác, phát huy nội tu ngoại hoằng của Phật giáo, tợ như hai mà lại chẳng phải hai, chiếu diệu khắp cùng thế giới, trải dài vô tận.Có một lần, Văn-thù và Phổ Hiền cùng tham gia đại pháp hội Hoa Nghiêm với đức Phật Thích-ca tại tinh xá Kỳ Hoàn, vườn Cấp Cô Độc nước Xá-vệ. Sau đó, Văn-thù-sư-lợi lãnh đạo đoàn Tín Giải tạm thời từ biệt đức Phật, chia tay với Bồ-tát Phổ Hiền, du hành về phương Nam, triển khai công tác hoằng truyền Phật pháp. Đoàn Tín Giải một khi đã ra đi thì không từ khổ nhọc, không sợ gian nan. Trải qua biết bao núi non, ruộng đồng, tiến về vịnh phía Nam của Ấn Độ, gặp một thị trấn tên gọi Phước Thành, họ dừng lại tại chùa Đại Tháp, nơi cánh đồng phía Đông của ngoại thành. Chùa Đại Tháp là Thánh địa Phật giáo nổi tiếng, không những phạm vũ rộng lớn trang nghiêm, cảnh trí u tịch đẹp đẽ, phong cảnh thích hợp với người tu hành, mà nơi đây còn có các bậc Thánh thường đến giảng pháp. Vì thế, khách du lịch từ các nơi đến thăm chùa hằng ngày. Trên các nẻo đường dẫn đến chùa, người người đến tham quan, lễ bái không ngừng. Khi Bồ-tát Văn-thù dẫn đầu đoàn Tín Giải đến Phước Thành, dừng chân nơi chùa Đại Tháp. Chẳng mấy chốc, người trong ngoài Phước Thành đều nghe tin. Đã từ lâu, người người vốn khát ngưỡng tinh thần truyền giáo và biện tài vô ngại của Bồ-tát Văn-thù, cho nên Phật tử và những người hâm mộ Phật pháp tấp nập rủ nhau đến chùa. Người thì lễ bái, kẻ thì thỉnh giảng pháp, hoặc phỏng vấn, hoặc chiêm ngưỡng, khiến cho không khí sinh động hẳn lên. Tinh thần của đại chúng rất phấn khởi khiến Bồ-tát Văn-thù và đoàn viên cũng phải bận rộn nhiều. Bồ-tát Văn-thù dự định kế hoạch, tuyên bố sẽ cử hành đại hội Phổ Chiếu Pháp Giới tại chùa Đại Tháp và tuyên giảng kinh Phổ Chiếu Pháp Giới trong bảy ngày. Điều này, khiến người người vui mừng quá đỗi. Thế rồi một truyền mười, mười truyền trăm, trăm truyền ngàn, truyền vạn làm náo động cả Phước Thành. Pháp hội bắt đầu khai mạc, quang cảnh chùa Đại Tháp nhìn chỗ nào cũng thấy mới mẻ. Phật tử, đặc biệt là thanh niên nam nữ đến nghe giảng pháp rất đông không thể kể xiết. Giảng đường Phổ Chiếu Pháp Giới phải nới rộng thêm ra. Những người đến sau chỉ có thể đứng ở phía ngoài giảng đường. Bồ-tát Văn-thù bắt đầu giảng pháp. Ngài thong thả bước lên pháp tòa, pháp tướng trang nghiêm, thái độ từ hòa, cặp mắt bình thản phóng ra ánh sáng trí tuệ vô lượng, khiến cho thính chúng đang nhốn nháo liền im lặng và an định. Lúc ấy, muôn người lặng yên nhất tâm mong đợi, một hơi thở mạnh cũng không nghe. Diệu nghĩa Phổ Chiếu Pháp Giới chưa tuyên mà không khí trong ngoài hội trường đã hiển thị ra cảnh tượng Phổ Chiếu Pháp Giới. Bồ-tát Văn-thù bắt đầu khai giảng. Khi đề kinh Phổ Chiếu Pháp Giới vang lên đã điểm trúng ngay lòng người đang ngưỡng đợi. Ngài khởi đầu bằng một giọng Phạm âm thanh tịnh có tác dụng ảnh hưởng triệt để tới trong ngoài giảng đường, khiến cho nước tâm của thính chúng vô cùng lắng trong. Ngay lúc ấy, giáo pháp hiển hiện bên trong mỗi người mà vẫn dung thông vô ngại, hỗ tương nhiếp nhập trong ánh sáng thanh tịnh huyền diệu mà không bị phân cách. Cũng giống như hàng ngàn ngọn đèn trong một ngôi nhà, ánh sáng ngọn đèn của mỗi người chiếu rọi lẫn nhau không ngại, đây thực là cảnh giới bất khả tư nghị. Sự tuyên thuyết đề kinh Phổ Chiếu Pháp Giới của Đại Trí Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát đã phát xuất tác dụng bất khả tư nghị, khiến cho tinh thần của chúng hội cùng hòa nhập với nhau. Nhưng đây chỉ mới là sức gia bị của Đại Trí Văn-thù mà thôi, không phải là cảnh giới do thính chúng đạt được. Cho nên, vì muốn cho thính chúng có thể đạt được trí Phổ Chiếu Pháp Giới, Bồ-tát Văn-thù phải dùng đến phương tiện ngôn ngữ giải thích sâu cạn danh nghĩa đề kinh Phổ Chiếu Pháp Giới và tuyên giảng nội dung của kinh. Văn kinh không dài lắm, tương tợ như Tâm Kinh, nhưng nghĩa lý thì vô cùng tận, khắp hư không, đầy pháp giới cũng khó dung nạp được hết. Bồ-tát Văn-thù phát huy trí tuệ cao siêu và xảo diệu, khiến cho thính chúng tự mình lãnh ngộ được hỷ lạc của pháp vị. Diệu nghĩa Phổ Chiếu Pháp Giới trùng trùng vô tận, đưa thính chúng vào cảnh giới siêu việt, quên cả thân tâm lẫn thế giới bên ngoài. Chẳng biết thời gian là bao lâu, chợt nghe tuyên bố phần tiếp theo sẽ giảng vào ngày hôm sau, đại chúng như người trong mộng mới tỉnh, mọi người trở về với hiện thực. Sau khi Bồ-tát Văn-thù rời pháp tòa, họ mới sôi nổi bàn tán về pháp lạc chưa từng có và quyến luyến ra về. Thời gian trôi qua như điện chớp, đại hội Phổ Chiếu Pháp Giới đã đến ngày cuối cùng. Người đến chùa Đại Tháp nghe kinh ngày càng đông đảo, họ ngồi đầy cả trong lẫn ngoài chùa thành cả một biển người. Có người đến vì để nghe kinh, cũng có người vì tôn sùng ngưỡng mộ đạo đức của Bồ-tát Văn-thù mà hấp dẫn đến. Sau khi Bồ-tát Văn-thù giảng kinh Phổ Chiếu Pháp Giới hoàn tất, thính chúng hết lòng cảm tạ và chí thành đảnh lễ. Những vị chưa học Phật thì phát tâm quy y Tam Bảo, những người học Phật rồi thì phát tâm Bồ-đề, cầu học đạo Bồ-tát, số nhiều không thể kể xiết. Lại còn số thanh niên đồng nam đồng nữ thuần khiết muốn gia nhập đoàn Tín Giải của ngài Văn-thù, đem nhiệt tâm dũng cảm vì pháp, vì người mà phục vụ, sinh lòng kính ngưỡng không bờ mé, sôi nổi phát tâm học Phật, tu tập Đại thừa Phật pháp. Trong số các đồng nam ấy, có một thanh niên tên gọi là Thiện Tài Đồng Tử, không biết dũng khí thế nào, đột nhiên tách chúng tiến đến gần trước mặt ngài Văn-thù trang nghiêm thỉnh cầu: - Lạy đấng Diệu trí thanh tịnh như mặt trăng, lòng từ rộng lớn không bờ mé trùm khắp hết thảy! Xin Ngài dũ lòng thương chiếu cố đến con, lạy bậc vua trong hết thảy pháp giới, Pháp Bảo là hàng đầu qua lại không trở ngại, xin dũ lòng dạy dỗ cho con!Bồ-tát Văn-thù quan sát Thiện Tài Đồng Tử, thấy cậu tuổi còn trẻ, thân thể khang kiện, phong độ phi phàm, cử chỉ trang nghiêm, lời nói thành khẩn, biết là người đã sâu trồng căn lành. Lại thấy trong những ngày vừa qua, Thiện Tài rất chăm chỉ và say sưa nghe giảng pháp, nên Ngài đáp ứng yêu cầu khai thị yếu nghĩa pháp Đại thừa, xong rồi lại còn khích lệ và an ủi nữa. Thiện Tài Đồng Tử được Bồ-tát Văn-thù khai đạo và khích lệ, thật là một sự vui mừng chưa từng có! Sau đó, cậu mới cùng đại chúng rời khỏi chùa Đại Tháp. Được tin Bồ-tát Văn-thù và chúng đoàn Tín Giải sắp rời đi hoằng đạo nơi khác, giới nhân sĩ Phật giáo ở Phước Thành chuẩn bị buổi tiễn đưa thật long trọng và nhiệt tình. Thiện Tài Đồng Tử cũng chuẩn bị tham gia buổi tiễn đưa tại chùa Đại Tháp. 3. Điều khổ tâm và mất ngủ của Thiện Tài Đồng Tử Đêm đã khuya mà Thiện Tài vẫn còn trằn trọc, thao thức, chưa tìm ra được cách giải quyết vấn đề, khiến Thiện Tài vô cùng khổ tâm. Đây cũng là một điểm rất đặc biệt mà Thiện Tài Đồng Tử không giống với người thường, vì điều khổ tâm và mất ngủ của cậu tuyệt đối không có chút liên quan gì đến việc thăng quan hay phát tài như người đời thường để tâm đến. 4. Niềm vui và nỗi buồn của buổi tiễn đưa Tiếng chuông trống công phu chiều đã ngân vang. Ánh dương khuất dạng sau rặng núi phía Tây, hắt những tia sáng cuối cùng lên đỉnh điện của chùa Đại Tháp, giống như một lớp vàng lá lấp lánh mới được phủ lên đấy. Hiện tượng này cũng chẳng khác gì việc Thánh giả Văn-thù tuy ra đi nhưng vẫn còn lưu lại ánh sáng trí tuệ Phổ Chiếu Pháp Giới để cho mọi người đều ngưỡng vọng suy tư. 5. Trong rừng vắng dưới ánh trăng, bày tỏ tấm lòng và tình cảm của mình Thiện Tài hiểu rõ việc học đạo Bồ-tát, tu hạnh Phổ Hiền, yêu cầu đầu tiên là được trí tuệ quảng đại, điều này phải do thân cận thiện tri thức rất nhiều mới có thể đạt được. Thiện Tài rất cảm kích lòng từ bi của Bồ-tát Văn-thù đã khai đạo một cách thiết yếu và rõ ràng. Thiện Tài không còn phải bận tâm về vấn đề làm thế nào để tu Bồ-tát đạo. Thiện Tài hiểu rằng, thân cận thiện tri thức là học tập việc bắt đầu của hạnh Bồ-tát. Có tin sâu vào việc này mới có thể giúp cho việc đi đến đạo Bồ-tát một cách tuyệt đối không sai sót, đem đến cho ta thiện xảo ứng tri, ứng hạnh vô biên, thành tựu hạnh nguyện vô thượng, trọn vẹn mục tiêu tối cao. Thiện Tài dường như đã thấy được con đường sáng phía trước, trong lòng sung sướng vô cùng, liền bái biệt Bồ-tát Văn-thù, trung thành với lời dạy thực tiễn của Thánh giả, không ngại khuya sớm, không ngại gian nan, tiến thẳng về dòng sông phía Nam bắt đầu kiếp sống tham phỏng học hỏi, triển khai bản lý lịch vinh quang trong việc tham cầu thiện tri thức của mình. |