Tây tiến sáng tác năm bao nhiêu

Bản Tây Tiến này có một số chi tiết khác với tác phẩm đã xuất bản cũng như bài thơ đã đưa vào sách giáo khoa.

Đó là một bản chép tay của nhà thơ Quang Dũng tặng nhà thơ Hải Bằng, vừa được nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Hải Trung [con trai của nhà thơ Hải Bằng, hiện ở Huế] công bố trên tạp chí Sông Hương tháng 5-2021 và báo Văn Nghệ ngày 22-5.

"Cọp trêu ngươi", "thơm nếp sôi", "dáng Kiều thơm"

Bản chép tặng này có nhan đề "Nhớ Tây Tiến - 1947", có ba chi tiết khác biệt lớn so với bản Tây Tiến đã in trong các sách của Quang Dũng và trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 [tập 1, trang 88 - 89].

Nếu trong bản Tây Tiến đang lưu hành hiện nay có các câu thơ "Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người", "Mai Châu mùa em thơm nếp xôi", "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", thì trong bản chép tay này là "cọp trêu ngươi", "thơm nếp sôi", "dáng Kiều thơm".

Nhà nghiên cứu Hải Trung cho rằng đây là những điểm "khác biệt quan trọng", liên quan đến ngữ nghĩa câu thơ và ý tứ của tác giả. Nếu theo văn bản này thì ý của tác giả cũng như ý câu thơ sẽ khác với văn bản đang lưu hành.

Trao đổi về vấn đề này, bà Bùi Phương Thảo - con gái nhà thơ Quang Dũng, đồng thời là người đại diện cho gia đình nhà thơ - khẳng định: văn bản bài thơ Tây Tiến đang lưu hành trong sách giáo khoa cũng như nhiều cuốn sách của Quang Dũng là bản chính thức và chính xác.

Đây là văn bản đã được chính nhà thơ Quang Dũng hoàn chỉnh và cho in trong tập thơ "Mây đầu ô" [NXB Tác Phẩm Mới, năm 1986].

Bà Phương Thảo cho hay khi làm tập thơ này, nhà thơ Quang Dũng đã trao đổi rất kỹ với nhà thơ Trần Lê Văn, người bạn thân thiết và cũng là người tổ chức bản thảo thơ Quang Dũng.

Từ đó về sau, các sách Tuyển tập Quang Dũng [NXB Văn Học 1988], Quang Dũng - tác phẩm văn học được Giải thưởng Nhà nước [NXB Hội Nhà Văn 2014], cũng như nhiều sách khác, trong đó có sách giáo khoa lớp 12, đã lấy văn bản thơ Quang Dũng từ một nguồn chính thức là tập "Mây đầu ô" [trong đó có bài Tây Tiến].

"Bản thảo đầu tiên khác với bản công bố chính thức là điều bình thường đối với người sáng tác, bởi sau đó tác giả còn chỉnh sửa cho hoàn thiện hơn. Bút tích của bản đầu tiên đưa ra là để minh họa về quá trình sáng tác, không thể căn cứ vào đó để khẳng định "nếp sôi" mới đúng" - bà Thảo nói.

Nhà thơ Quang Dũng thời Tây Tiến

Làm phong phú cho "bảo tàng Quang Dũng"

Nhà thơ Mai Văn Hoan, nguyên là giáo viên môn văn Trường THPT Quốc Học - Huế, đã nhiều lần giảng bài thơ Tây Tiến cho học sinh lớp 12 nên ông rất quan tâm đến sự kiện này.

Ông cho rằng dù bài thơ do chính Quang Dũng chép tặng nhà thơ Hải Bằng từ trước năm 1975 thì cũng không thể xem là bản gốc.

Theo lời kể của Quang Dũng, bản thảo đầu tiên bài Tây Tiến có nhan đề là "Nhớ Tây Tiến", ông gửi cho nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và sau đó nhà thơ Xuân Diệu đã cho đăng ở tạp chí Văn Nghệ số 11 - 12 tháng 4 - 5 năm 1949.

Bài thơ hay nên nhiều người chép chuyền nhau. Năm 1957, bài thơ được in lại với nhan đề Tây Tiến do tác giả tự bỏ đi chữ "nhớ". Lần thứ ba, in lại trong tập "Mây đầu ô", xuất bản năm 1986, lúc này tác giả vẫn còn minh mẫn.

Mãi đến năm 1988, ông bị bệnh nặng và qua đời. Điều này chứng tỏ Quang Dũng là người chịu trách nhiệm chính trong việc chỉnh sửa văn bản bài thơ Tây Tiến.

"Nhưng dù không phải là bản gốc, và không phải là bản hoàn chỉnh, thì bản chép tay bài Tây Tiến mà Quang Dũng tặng Hải Bằng cũng là một tư liệu quý, bổ sung một hiện vật làm phong phú thêm "bảo tàng Quang Dũng"", ông Hoan nói.

100 năm Quang Dũng, 73 năm "Tây Tiến"

Quang Dũng sinh năm 1921, năm nay là kỷ niệm 100 năm sinh thành của ông. Bài thơ Tây Tiến cũng có tuổi đời 73 năm, với một hành trình rất đặc biệt.

Quang Dũng sáng tác bài này tại làng Phù Lưu Chanh [tỉnh Hà Nam] năm 1948, và in lần đầu tiên trên báo Quân Bạch Đằng của Liên khu 3 cũng vào năm 1948. Năm 1949, in trên tạp chí Văn Nghệ, do đây là cơ quan ngôn luận trung ương nên người ta xác định đó là lần đầu tiên công bố chính thức.

Năm 1957, in chung trong tập "Rừng biển quê hương", cùng nhà thơ Trần Lê Văn, với nhan đề Tây Tiến. Năm 1986, in trong tập "Mây đầu ô", tập thơ riêng đầu tiên của Quang Dũng. Năm 1990, Tây Tiến được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 và giảng dạy trong nhà trường từ đó đến nay.

- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947 [Đây là giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, theo tiếng gọi của Đảng, nhiều học sinh - sinh viên đã lên đường tham gia kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”].

+ Nhiệm vụ: Phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào.

+ Địa bàn hoạt động: Rộng. Bao gồm các tỉnh Sơn la, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa - Thượng Lào.

+ Thành phần: Phần đông là thanh niên Hà Nội [sinh viên, học sinh].

+ Điều kiện sống và chiến đấu: Gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật.

+ Tinh thần: Hào hùng, lãng mạn, lạc quan, yêu đời.

- Hoàn cảnh sáng tác: Quang Dũng viết bài thơ này khi ông đã chuyển sang đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ Tây Tiến của mình.

- Xuất xứ: Bài thơ được in trong tập thơ Mây đầu ô [1986].

- Nhan đề: Ban đầu là Nhớ Tây Tiến sau đổi thành Tây Tiến

→ Tạo một nhan đề cô đọng và không bị lộ mạch cảm xúc ngay từ đầu. Nó cũng tạo cho người đọc cảm giác sống thực với đất và người Tây Tiến. Ngoài ra, hai chữ Tây Tiến còn gợi cảm giác hiên ngang, chủ động.

  1. Bố cục của bài thơ

- Khổ 1: Những chặng đường hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến giữa khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội.

- Khổ 2: Kỉ niệm về tình quân dân và bức tranh thiên nhiên trữ tình, thơ mộng.

- Khổ 3: Chân dung người lính Tây Tiến.

- Khổ 4: Lời thề gắn bó với binh đoàn Tây Tiến.

2. Tìm hiểu chi tiết

  1. Đoạn 1: Thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh người lính trên con đường hành quân gian khổ

* Hai câu thơ mở đầu:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

- Câu 1: nhắc tới 2 danh từ – điểm về, nơi đến của nỗi nhớ.

+ Hình ảnh “Sông Mã”: con sông gắn với đời lính => như gợi thức nỗi nhớ ùa về trong tâm hồn nhà thơ.

+ "Tây Tiến": Đoàn binh.

+ Ngắt nhịp 4/3.

→ Câu thơ đầu với tiếng gọi đầu tiên là tiếng gọi đồng đội.

- Câu 2: Điệp từ "nhớ” [2 lần], từ láy "chơi vơi”, điệp âm "ơi” [3 lần] → Tạo tính nhạc, hình tượng hoá nỗi nhớ.

+ Nhớ rừng núi: Không gian mênh mông của miền Tây.

+ Nhớ “chơi vơi” [2 thanh bằng, nhẹ, lan toả]→ gợi cảm giác nỗi nhớ vô hình, vô lượng, không thể đo đếm, nhớ mơ hồ, đầy ám ảnh, nỗi nhớ luôn lơ lửng, ăm ắp khôn nguôi.

→ Cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ, bài thơ là nỗi nhớ.

* Bức tranh thiên nhiên vừa dữ dội, hoang vu, hiểm trở vừa thơ mộng, trữ tình của núi rừng

- Bức tranh thiên nhiên dữ dội, hoang vu, hiểm trở:

+ BPNT liệt kê nhắc tới một loạt các địa danh ở miền Tây ấn tượng, khó quên trong đời lính.

+ Sương rừng: ở "Sài Khao", "Mường Lát": tên đất lạ lẫm, gợi một vùng xa xôi, hẻo lánh, bản làng, vùng đất người lính đã đi qua.

- "Sương lấp đoàn quân mỏi" → Sương rừng mờ ảo, phủ dày đặc che kín như vùi lấp cả đoàn quân/ Màn sương mờ của kỉ niệm – nỗi nhớ thương.

- "Đoàn quân mỏi" → gợi một cuộc hành quân dãi dầu đầy gian khổ của những người lính Tây Tiến.

+ Dốc núi, vực sâu [ba câu thơ tiếp]

Nghệ thuật: sử dụng nhiều từ láy: "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút”

Điệp từ: “dốc”

→ Diễn tả sự hiểm trở với những con đường quanh co, gập ghềnh, đứt đoạn của núi rừng Tây Bắc.

Nghệ thuật nhân hoá “súng ngửi trời”, phép đảo "hun hút cồn mây”

→ Nhấn mạnh cảm giác hoang vắng, trống trải nơi người lính đi qua chưa một dấu chân người. Đây là cách nói tinh nghịch, súng trở nên có hồn.

Nghệ thuật tương phản, điệp từ "ngàn thước”: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

→ Câu thơ như bẻ gãy làm đôi giúp người đọc thấy được chiều cao của núi, độ cao chót vót của dốc, sâu hun hút của vực. Con đường gấp khúc đột ngột, hiểm trở, hun hút.

→ Sử dụng từ láy giàu chất gợi hình, gợi tả, gợi cảm; những câu thơ toàn thanh trắc đã phác hoạ một bức tranh hoành tráng với tất cả sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây [thi trung hữu hoạ].

+ Núi rừng qua nét vẽ ấn tượng:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

\> NT nhân hoá : "Thác gầm", "cọp trêu”

→ Gợi tả dữ dội, hoang sơ, bí hiểm và đầy đe dọa của núi rừng miền Tây.

Thanh: 2 thanh trắc âm vực cao "thác", "thét”; 2 thanh nặng âm vực thấp "hịch", "cọp”.

→ Sự de doạ nặng nề của thú dữ ở vùng thấp tối.

Từ láy "chiều chiều", "đêm đêm”

→ Tuần hoàn, lặp lại, vĩnh hằng của thời gian.

→ Núi rừng miền Tây là nơi ngự trị muôn đời của sức mạnh thiên nhiên dữ dội, bí hiểm.

- Bức tranh thiên nhiên thơ mộng, trữ tình

+ Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” là hoa của thiên nhiên hay con người? Chỉ biết rằng nó gợi một cảm giác nhẹ nhàng, êm ả, đẩy lùi nỗi nhọc nhằn của người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân.

+ Mưa rừng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Nghệ thuật: Tất cả âm tiết là thanh bằng, thanh không, âm mở [chữ cái tận cùng là nguyên âm]; ẩn dụ "khơi” – biển mưa.

→ Không gian mênh mông chìm trong mưa nguồn suối lũ.

+ "Cơm lên khói", "mùa em thơm nếp xôi"

+ "Mùa em": mùa lúa chín; liên tưởng xao xuyến nồng nàn trước nụ cười rạng rỡ, ánh mát sóng sánh từ tình người miền Tây.

+ “Nhà ai”: vừa phiếm chỉ, vừa nghi vấn.

→ Người lính dừng chân nghỉ ngơi ở thung lũng mưa, đưa mắt nhìn và thấy ngôi nhà thấp thoáng. Hình ảnh mang cảm giác chạnh lòng nhớ về gia đình, người thân; ấm áp, yên bình như được an ủi trên đường hành quân của chàng lính xa nhà.

* Hình ảnh người lính Tây Tiến đi hành quân:

- Hồn nhiên, tinh nghịch: "súng ngửi trời", "cọp trêu người" [chất lính].

- Kí ức về người lính trên đường hành quân:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

+ "Anh bạn": cách gọi đồng đội với tình cảm thân thiết, gắn bó.

+ Từ láy "dãi dầu": vất vả, khó khăn, nhọc nhằn mà người lính phải đối mặt, vượt qua trên đường hành quân.

+ "Không bước nữa", "bỏ quên đời": Có thể hiểu là nghỉ ngơi buông mình vào giấc ngủ vô tư lự trẻ trung/ có thể hiểu là kiệt sức – xót xa/ có thể hiểu là cái chết nhẹ nhõm quên đời.

→ Nổi bật chất bi tráng, thể hiện vẻ đẹp ngang tàng, anh dũng, ngạo nghễ, bi mà không luỵ, tinh nghịch bông đùa với cái chết, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.

  1. Đoạn 2: Tình quân dân gắn bó thiên nhiên con người miền Tây với vẻ đẹp mỹ lệ

* Thiên nhiên và con người miền Tây hiện ra với vẻ đẹp mỹ lệ, thơ mộng, trữ tình:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

- Không gian: ánh sáng lung linh của lửa đuốc, âm thanh réo rắt của tiếng đàn, cảnh vật và con người như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực.

→ Huyền ảo, rực rỡ, tưng bừng, sôi nổi.

- Nhân vật trung tâm: "em" với áo xiêm lộng lẫy [xiêm áo tự bao giờ], vừa e thẹn vừa tình tứ [e ấp], vừa duyên dáng trong điệu vũ xứ lạ [man điệu].

→ Làm say đắm lòng người chiến sĩ xa nhà.

- Hai chữ "kìa em": cái nhìn vừa ngạc nhiên vừa mê say, ngây ngất của các chàng trai Tây Tiến.

→ Vẻ đẹp lung linh, hoang dại, trữ tình đến mê hoặc.

* Cảnh sông nước miền Tây:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

- Không gian: Dòng sông trong một buổi chiều mưa giăng mắc một màu sương; sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử → mênh mông, nhoè mờ, ảo mộng.

- Con người:

+ "Dáng người trên độc mộc": dáng hình mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái trên những chiếc thuyền độc mộc.

+ Vẻ đẹp của con người hoà hợp với vẻ đẹp của thiên nhiên: những bông hoa rừng cũng “đong đưa”, làm duyên trên dòng nước lũ.

→ Những nét vẽ mềm mại, duyên dáng khác hẳn với những nét khoẻ khoắn, gân guốc khi đặc tả cảnh dốc đèo.

→ Ngôn ngữ tạo hình, giàu tính nhạc, chất thơ và chất nhạc hoà quyện: thể hiện vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của thiên nhiên và con người.

  1. Đoạn 3: Hình tượng người lính Tây Tiến

* Chân dung hiện thực của người lính:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

- Vừa bi: Ngoại hình khác thường do hiện thực nghiệt ngã:

+ “không mọc tóc”: người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi giáp lá cà, người thì bị sốt rét đến rụng tóc.

+ “Quân xanh màu lá”: nước da xanh xao do ăn uống thiếu thốn, sốt rét, bệnh tật hành hạ.

- Vừa hùng: không né tránh hiện thực khốc liệt của chiến tranh nhưng qua cái nhìn lãng mạn:

+ “Đoàn binh không mọc tóc”: “đoàn binh” chứ không phải “đoàn quân”.

→ Hào hùng, hình ảnh những anh “vệ trọc” nổi tiếng một thời.

+ “Quân xanh màu lá” nhưng vẫn “dữ oai hùm”.

→ Tính cách anh hùng, nét oai phong, dữ dằn như chúa tể chốn rừng thiêng.

* Tâm hồn lãng mạn của người lính.

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

- “Mắt trừng”: cái nhìn nảy lửa đối với kẻ thù. Đôi mắt như thiêu đốt quân thù.

→ Thể hiện nét oai phong, lòng quyết tâm đánh giặc đến cùng.

- “Gửi mộng qua biên giới”: chiến đấu dũng cảm nhưng cũng rất nhớ quê hương, gửi "mộng" cũng tức là gửi gắm hoài bão, lý tưởng, tâm hồn mình qua biên giới vì nhiệm vụ của người lính là bảo vệ biên giới nên họ luôn đề cao tinh thần trách nhiệm của mình.

- Nỗi nhớ trong giấc mơ: "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

+ Nhớ người yêu, những cô gái Hà Thành duyên dáng, xinh đẹp.

→ Đằng sau vẻ ngoài dữ dằn, oai nghiêm là trái tim khao khát yêu thương đầy chất nghệ sĩ [mang trong mình một bóng hình lãng mạn vì họ vốn là những chàng trai trẻ Hà Nội thanh lịch, hào hoa].

+ Diễn tả đúng thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.

→ Cảm hứng có bi mà không luỵ: ta thấy cái gian khổ của chiến tranh nhưng cũng cảm nhận được vẻ oai hùng, lãng mạn của người lính. Cái lãng mạn đậm chất lính của họ làm dịu mát tâm hồn, tiếp cho họ thêm sức mạnh, động lực để bước tiếp trên con đường hành quân trường kì.

* Cái chết bi tráng và sự bất tử:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

- Miêu tả cái chết nhưng không bi luỵ:

+ Những từ Hán Việt cổ kính: "Rải rác", "biên cương", "mồ viễn xứ"

→ Tạo không khí trang trọng, thiêng liêng, làm giảm nhẹ cái bi thương của hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi.

+ Phủ định từ "chẳng" [khác với "không" - sắc thái trung tính] và cách nói hoán dụ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".

→ Thái độ kiên quyết hi sinh vì Tổ quốc, lý tưởng quên mình thật cao đẹp làm vơi đi cái đau thương.

- Hai câu thơ tiếp theo thấm đẫm tinh thần bi tráng:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

+ "Áo bào thay chiếu": sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, phải mai táng bằng chính chiếc áo các anh mặc hàng ngày.

+ Gọi áo các anh là "áo bào": nghe trang trọng, thiêng liêng, thể hiện tình cảm yêu thương đồng đội.

+ Cách nói giảm nói tránh "anh về đất" → làm vơi đi cảm giác đau thương, ẩn chứa hàm nghĩa: chết là về với đất mẹ, là hoá thân với non sông đất nước.

→ Cái chết trở thành bất tử.

+ Biện pháp nhân hoá + động từ "gầm": dữ dội, hào hùng→ âm thanh làm át đi cảm xúc bi thương: gợi sự ra đi của những anh hùng nghĩa sĩ thuở xưa=> đưa tiễn người là khúc nhạc bi tráng của núi sông.

→ Cái chết thấm đẫm tinh thần bi tráng.

→ Giọng thơ trang trọng: thể hiện tình cảm tiếc thương, sự trân trọng và kính cẩn trước sự hi sinh của đồng đội. Hai cảm hứng lãng mạn và bi tráng đan cài dựng nên tượng đài bất tử trong thơ.

  1. Đoạn 4: Lời thề gắn bó với đoàn quân Tây Tiến và miền Tây Bắc

Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

- Cách nói khẳng định: “Tây Tiến người đi không hẹn ước”.

→ Tô đậm bầu không khí chung của một thời Tây Tiến với lời thề kim cổ: ra đi không hẹn ngày về, một đi không trở lại [nhất khứ bất phục hoàn].

- Đường lên Tây Tiến: "thăm thẳm", "chia phôi": nỗi xót xa khi đã xa đồng đội, khi nghĩ đến đường lên Tây Tiến xa xôi, vời vợi.

- Lời thề cùng Tây Tiến:

+ "Mùa xuân ấy": thời điểm lịch sử không bao giờ trở lại.

→ Mốc thương nhớ vĩnh viễn trong trái tim những người lính Tây Tiến một thời.

+ Cách nói đối lập: "Sầm Nứa" >< "về xuôi"

[tâm hồn] [thể xác]

→ Sự gắn bó sâu nặng với đoàn quân Tây Tiến: dù đã rời xa nhưng tâm hồn, tình cảm vẫn đi cùng đồng đội, vẫn gắn bó máu thịt với những ngày tháng, những địa điểm đã đi qua.

→ Nhịp thơ chậm, giọng thơ trầm buồn nhưng tinh thần "chẳng về xuôi" làm toát lên vẻ hào hùng của cả đoạn thơ.

  1. Giá trị nội dung

- Bài thơ đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc với vẻ đẹp vừa hùng vĩ, hoang sơ, vừa tráng lệ và thơ mộng.

- Bài thơ xây dựng thành công hình tượng bi tráng về người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa.

  1. Giá trị nghệ thuật

- Bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn.

- Hình ảnh thơ phong phú, gần gũi, chân thực.

- Ngôn ngữ thơ linh hoạt, đa dạng.

- Sử dụng nhiều biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa.

Sơ đồ tư duy - Tây Tiến

Nhận định

Một số nhận định về tác giả, tác phẩm

1. Nhận xét về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến, có ý kiến cho rằng: Một ngọn bút đầy tài hoa vừa khắc họa được cái dữ dội, hào hùng lại vừa diễn tả được cái tươi mát, sâu lắng, đau thương mà không hề bi lụy.

2. Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Điệp, Phó Viện trưởng Viện Văn học cũng từng nhận xét: Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng… Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn, "Tây Tiến" cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó.

3. Nhà thơ Vân Long nhận xét: Nhà thơ Quang Dũng độc đáo một cách hồn nhiên, ông cứ sống tự nhiên như chim trên trời, cá dưới nước mà thành độc đáo. Bài thơ “Tây Tiến” hội tụ được cả cái bi, cái tráng của thời đại. Cái buồn lãng mạn của người tiểu tư sản, tiểu trí thức do biết mình được đón nhận một chân lý lớn nhưng cũng đồng thời đón nhận một gian nan lớn.

4. Nhà thơ Phan Quế đã từng bình: Câu thơ như một tuyệt bút thiên nhiên về sông Mã. Tôi chưa đọc câu thơ nào viết về sông Mã hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí tiết của con sông chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ của tứ thơ.

5. … Tây Tiến… nơi mà con người Tây Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài những cảm quan ban đầu của hồn thơ Quang Dũng để đến với đại ngàn thi hứng. Nơi ấy, cuồn cuộn dòng chảy lạnh lùng và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và tráng. Một Tây Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong nỗi niềm nhớ… Tất cả đều gợi ấn tượng của sự “lạ hóa”, của những vẻ đẹp kì ảo khó gọi tên…

[Đinh Minh Hằng, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng]

6. … Tây Tiến là sự tiếp tục của một dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào hồn thơ rất trẻ, rất mới, khác hẳn những tiếng thơ bi lụy não nùng. Cũng khơi nguồn cảm hứng từ một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng Tây Tiến đã được thể hiện một cách đặc sắc qua ngòi bút Quang Dũng, với một tâm trạng cụ thể - nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ da diết và lòng tự hào chân thành của tác giả về những người đồng đội của mình đã khiến người đọc của nhiều thế hệ rung cảm sâu xa và đó cũng chính là âm hưởng chủ đạo của bài thơ này…

[Vũ Thu Hương, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng].

7. Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét và bài thơ Tây Tiến: Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ "Tây Tiến", ông không có điểm gì chung với những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến.

bài thơ Tây Tiến được sáng tác vào năm bao nhiêu?

Tây Tiến là một bài thơ của nhà thơ Việt Nam Quang Dũng, được sáng tác vào năm 1948 và được phát hành lần đầu ở Tạp chí Văn nghệ số 11 và 12, năm 1949.

Tại sao lại đổi từ nhỏ Tây Tiến sang Tây Tiến?

- Bài thơ này ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến” nhưng sau khi in lại đã được tác giả đổi tên thành “Tây Tiến”. Vì theo ông, hai chữ Tây Tiến đã đủ để gợi nhớ, tức là tạo một nhan đề cô đọng và không bị lộ mạch cảm xúc ngay từ đầu.

Tại sao gọi là Tây Tiến?

Tây Tiến có thể hiểu là tên của một binh đoàn, nơi Quang Dũng từng công tác, cũng có thể hiểu là tiến về phía tây, hướng hành quân của binh đoàn Tây Tiến trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới.

Người lính Tây Tiến là ai?

Chiến sĩ Tây Tiến phần lớn là thanh niên, học sinh sinh viên Hà Nội. Họ là những người biết đến chiến trường khắc nghiệt, nguy hiểm và thiếu thốn kể từ khi đi lính. Bài thơ Tây Tiến là kỉ niệm, hoài niệm của tác giả thay cho lời muốn nói của những người chiến sĩ kiên cường và đồng thời là lời của đồng bào dân tộc ta.

Chủ Đề