Tại sao Việt Nam không làm điện hạt nhân

Nhà máy điện hạt nhân Bushehr của Iran hoạt động trở lại

Đầu tư lớn, nhiều rủi ro

Ủy ban Kinh tế của Quốc hội mới đây vừa đề xuất xem xét phát triển điện hạt nhân để giảm phát thải ròng về 0 vào năm 2050, ở giai đoạn phát triển năng lượng tiếp theo. Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận đã được dừng theo quyết định tại Nghị quyết 31 năm 2016 của Quốc hội.

Trong báo cáo giám sát về việc thực hiện nghị quyết này, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đánh giá điện hạt nhân được các quốc gia công nhận là điện sạch, phát thải khí nhà kính rất thấp sau Hội nghị COP 26. 

Việt Nam xem xét phát triển điện hạt nhân trong giai đoạn tiếp theo sẽ góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, phát triển kinh tế độc lập, tự chủ và bảo đảm an ninh hệ thống điện với nhu cầu đa dạng nguồn phát.

Năm 2016, Quốc hội thống nhất dừng dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận.

TS. Ngô Đức Lâm, chuyên gia về năng lượng, nguyên cán bộ Bộ Công thương cho rằng, để đưa ra chủ trương về điện hạt nhân, cần trả lời thấu đáo 2 câu hỏi: Nếu làm, chúng ta có gì? Nếu không làm, chúng ta còn lựa chọn khác không? Điện hạt nhân được coi là sạch, không phát thải CO2. Phát triển điện hạt nhân sẽ tránh phụ thuộc vào nguồn cung cấp dầu và khí, cung cấp điện năng ổn định công suất lớn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tuy vậy, nhược điểm của điện hạt nhân vẫn là chủ đạo. Trước hết, chi phí rất đắt. Đó không chỉ là chi phí đầu tư [nếu làm, chúng ta hoàn toàn phải nhập khẩu công nghệ], mà sau đó chi phí xử lý môi trường đối với chất thải và đối với nhà máy đã hết hạn cũng cực lớn, không thua kém gì việc xây dựng nhà máy mới. Có ý kiến cho rằng, trong trường hợp nhà máy hết hạn, chúng ta có thể chở thanh nhiên liệu cho bên sản xuất [bên bán] để họ xử lý, tuy nhiên, kể cả có vậy thì chi phí, cách thức vận chuyển cũng không đơn giản và rất tốn kém. 

Những điều này, nếu làm điện hạt nhân, cần phải tính đến ngay từ đầu, tức cộng cả chi phí xử lý môi trường vào chi phí đầu tư nhà máy, để tính toán giá điện hạt nhân có hợp lý không, có rẻ hơn so với các nguồn năng lượng sơ cấp khác không?

Về tính an toàn của nhà máy điện hạt nhân, dù công nghệ hiện nay bảo đảm an toàn cao song vẫn có rủi ro sự cố. Nếu sự cố xảy ra, không chỉ ảnh hưởng trong phạm vi nhà máy mà là cả một vùng rộng lớn và tác động trong nhiều năm, lên nhiều thế hệ.

"Xét tổng thể, tôi cho rằng, chúng ta không nên tính đến phát triển điện hạt nhân, ít nhất là từ nay đến năm 2035. Điều này dựa trên xu thế thời đại và tiềm năng sẵn có của Việt Nam. Về xu thế thời đại, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, xu thế của thời đại là phát triển năng lượng mới - năng lượng tái tạo", TS Ngô Đức Lâm nói.

Tận dụng tiềm năng sẵn có về gió và nắng

Theo TS. Ngô Đức Lâm, nước ta có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo. Cụ thể, với điện mặt trời, tiềm năng khai thác ở Việt Nam khá lớn, nhất là ở khu vực duyên hải miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long với năng lượng bức xạ mặt trời trong năm tương đối ổn định là 4 - 5kWh/m2/ngày. 

Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có đường bờ biển trải dài hơn 3.200km với 28 tỉnh, thành phố ven biển, vì vậy tiềm năng phát triển năng lượng gió tại Việt Nam cũng vô cùng lớn.

Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển năng lượng sạch như điện gió và điện mặt trời.

Theo ông Lâm, sở dĩ nhiều nước chọn làm điện hạt nhân còn bởi họ không có tiềm năng để phát triển các nguồn năng lượng khác. Trong khi đó, Việt Nam có nhiều loại tài nguyên để phát điện hơn hẳn nhiều nước. 

Theo tính toán, đến năm 2050, nếu như hoàn toàn không dùng năng lượng khác, thì riêng tiềm năng gió, mặt trời đã đủ phát điện cho toàn quốc. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta sẽ phát triển một loại các nhà máy điện gió, điện mặt trời, mà nên phát triển đa dạng, hài hòa giữa các nguồn năng lượng sơ cấp, bao gồm cả năng lượng gió, mặt trời, thủy điện, khí, dầu, than…

Cùng quan điểm, GS. Phạm Duy Hiển, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam cho biết, Việt Nam nên phát triển năng lượng khác dựa trên tiềm năng và lợi thế của mình. Nhờ dừng dự án điện hạt nhân, tỉnh Ninh Thuận đã bứt phá lên trở thành một trung tâm năng lượng tái tạo hàng đầu của cả nước. Đến nay, nhờ lợi thế có nguồn ánh sáng mặt trời rất ưu việt, Ninh Thuận đã đưa vào vận hành nhiều trang trại điện mặt trời với tổng công suất hàng nghìn MW, và con số này còn lớn hơn nữa trong những năm tới. Những trang trại năng lượng gió cũng đang tiến đến công suất nghìn MW. Như vây, chỉ vài năm sau khi dừng dự án điện hạt nhân, năng lượng tái tạo của Ninh Thuận đang tiến rất gần đến mục tiêu 4000 MW điện hạt nhân vốn được dự kiến cho năm 2030.

GS. Phạm Duy Hiển cho hay, trước 2016, Việt Nam đã có một kế hoạch xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận với bốn lò phản ứng công suất 4000MW và đưa vào vận hành trước năm 2030.

"Tôi đã nhiều lần nêu quan điểm không đồng tình với việc làm quá vội vàng này, lại không lường hết những rủi ro có thể xảy ra do trình độ phát triển của ta còn quá thấp so với yêu cầu của một công nghệ rất phức tạp như điện hạt nhân. Bảo đảm an toàn cho các lò phản ứng công suất lớn là việc không hề dễ dàng đối với các nước chưa phát triển. Về lâu dài, phóng xạ rất cao trong bã thải hạt nhân vẫn luôn là mối đe dọa", GS Hiển nói.

Điện hạt nhân với mức phát thải cacbon rất thấp, có thể xem là một trong số các giải pháp cho mục tiêu này, như một số nước tiên tiến đang xem xét. Nhưng mỗi nước một khác. Đối với Việt Nam, điện hạt nhân chưa thể xem là giải pháp cấp bách.

PGS.TS Vương Hữu Tấn, Chủ tịch Hội Năng lượng nguyên tử Việt Nam cho rằng xu thế phát triển điện hạt nhân là tất yếu, quan trọng là cân nhắc thời điểm hợp lý. Vấn đề hiện nay là phải xem xét các cơ sở hạ tầng cần thiết, trong đó có hạ tầng về an toàn, an ninh và bồi thường hạt nhân của chúng ta như thế nào và kế hoạch hoàn thiện ra sao thì mới biết khi nào mới nên tái khởi động dự án điện hạt nhân. Đặc biệt, phải có nhóm chuyên gia giỏi trong và ngoài nước để phân tích, đánh giá đầy đủ.

Theo các chuyên gia, nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng điện năng, chí ít ngang bằng với các nước ASEAN, chẳng những là giải pháp cắt giảm phát thải khí nhà kính cơ bản nhất, mà còn góp phần làm lành mạnh nền công nghiệp theo hướng hiện đại.

Tại phiên thảo luận hội trường ngày 30/5 về việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật quy hoạch có hiệu lực thi hành, nhiều đại biểu Quốc hội nêu quan điểm liên quan đến triển khai dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương, Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Ninh Thuận, nhắc lại năm 2016, Quốc hội khóa XIV đã có chủ trương dừng đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Việc kéo dài dự án đã gây nên những bất cập ảnh hưởng tới đời sống, kinh tế, gây bức xúc cho người dân, ảnh hưởng tới thu hút đầu tư và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.

Đại biểu Trương Trọng Nghĩa [TP.HCM] cho rằng Quốc hội cần giải quyết dứt điểm việc này, xóa bỏ quy hoạch dự án phát triển nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận. Theo ông, Quốc hội nhiệm kỳ trước, Đảng, Nhà nước đã cân nhắc rất kỹ việc dừng dự án này. Vì vậy, bước tiếp theo phải tập trung giải quyết quyền lợi của người dân, cán bộ, kỹ sư đã được đào tạo, tạo quy hoạch mới cho Ninh Thuận, giúp chuyển động kinh tế địa phương.

Giải trình những vấn đề đại biểu nêu, Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên khẳng định đây là dự án tạm dừng chứ không phải là hủy bỏ, nên sẽ không có cơ sở bỏ địa điểm xây dựng điện hạt nhân.

Xã biên giới có trường, trạm khang trang nhưng chưa có điện lưới

Xem thêm video đang được quan tâm:

Hà Nội tiếp tục mưa lớn, cảnh báo 11 điểm đen ngập lụt


Khởi đầu mới của nền công nghiệp điện hạt nhân
Quan điểm của Trung Quốc về điện hạt nhân

1. Điện hạt nhân: Đảm bảo an ninh năng lượng, phát triển bền vững đất nước

Nhu cầu năng lượng nói chung và điện năng nói riêng trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước ngày càng gia tăng. Các nguồn năng lượng truyền thống ở Việt Nam không phải là vô tận đã và sẽ tiến dần đến cạn kiệt. Dự án thủy điện Lai Châu [1200 MW] là dự án thủy điện lớn cuối cùng đã hòa lưới điện quốc gia và sẽ phát điện tổ máy cuối cùng vào tháng 11 năm 2016.

Mặc dù các nguồn năng lượng tái tạo khác như: Năng lượng gió, mặt trời… đã được ưu tiên, quan tâm phát triển nhưng không thể bù đắp vào thiếu hụt điện năng. Dự kiến đến năm 2030 năng lượng gió đạt 6.000 MW chiếm tỷ trọng 2,1% sản lượng điện sản xuất và năng lượng mặt trời đạt 12.000 MW chiếm tỷ trọng 3,3% sản lượng điện sản xuất. Vì vậy Việt Nam sẽ không tránh khỏi phụ thuộc dần vào nguồn năng lượng nhập khẩu và các nhà làm chính sách đã chọn giải pháp tổng hòa tận dụng tối đa nguồn năng lượng trong nước, phát triển năng lượng tái tạo kết hợp nhập khẩu điện, nhập khẩu than, khí đốt ở tỷ trọng thích hợp cùng với việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân [ĐHN] là giải pháp tối ưu nhằm đảm bảo an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.  

So với các năng lượng truyền thống, điện hạt nhân [ĐHN] là nguồn công suất lớn và ổn định duy nhất không phát thải khí nhà kính. Cũng như bất cứ công nghệ nào khác, muốn phát triển ĐHN nghĩa là phải phát huy ưu điểm và từng bước khắc phục những nhược điểm của nó, đó là phải lựa chọn cộng nghệ hiện đại để nâng cao độ an toàn hạt nhân, loại trừ tai nạn gây rò rỉ phóng xạ vào môi trường, nâng cao hiệu quả kinh tế và làm chủ việc bảo quản xử lý nhiên liệu phóng xạ đã qua sử dụng.

Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu xây dựng nhà máy ĐHN dựa trên các ưu điểm sau:

- Đa dạng hóa nguồn năng lượng cung cấp, đảm bảo an ninh năng lượng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu điện năng của đất nước, giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch nhất là khi đã khai thác hầu hết các tiềm năng về thủy điện và nhiên liệu hóa thạch; đảm bảo tính kinh tế khi cạnh tranh với các loại nhiên liệu nhập khẩu.

- Góp phần giảm thiểu biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí gây ô nhiễm môi trường từ các nhiên liệu hóa thạch và có thể tạo tiềm năng thu tài chính từ việc giảm phát thải khí CO2.

- Đẩy mạnh phát triển tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng không chỉ trong ngành năng lượng nguyên tử, ngành điện mà còn thúc đẩy nhiều ngành công nhiệp và kinh tế khác.

- Góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam khi từng bước làm chủ được công nghệ ĐHN.

Tuy nhiên cũng có nhứng khó khăn thách thức đối với quốc gia lần đầu tiên xây dựng nhà máy ĐHN:

- Rào cản tâm lý lo ngại về tính an toàn của nhà máy ĐHN, nên cần có sự đồng thuận của công chúng và các quyết sách mạnh mẽ của Chính phủ.

- Tiềm ẩn rủi ro về an toàn hạt nhân nên cần phải thận trọng lựa chọn công nghệ tiên tiến, an toàn cao nhất và có tính kiểm chứng.

- Cần đảm bảo đầy đủ cơ sở hạ tầng đặc biệt là văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng phát triển đội ngũ chuyên gia về điện hạt nhân cũng như văn hóa an toàn ĐHN.

- Cần nhiều thời gian chuẩn bị dự án do công nghệ phức tạp; vốn đầu tư lớn mặc dù chi phí nhiên liệu thấp, dẫn đến gặp khó khăn trong thu xếp vốn đầu tư.

Cân nhắc so sánh các mặt lợi - hại của từng loại nguồn phát sẽ đưa đến quyết sách cho từng quốc gia có nên phát triển ĐHN hay không. Trên thế giới đa số các nước lớn, có trình độ khoa học kỹ thuật phát triển, nền kinh tế tăng trưởng cao đều sử dụng ĐHN. Có nhiều nước chưa cần đến ĐHN trong nhiều thập niên tới, nhưng trên bình diện chung toàn thế giới, chắc chắn trong 50 năm nữa sẽ chưa có nguồn năng lượng nào khác có thể thay thế hoàn toàn ĐHN trong một chiến lược phát triển bền vững. 

Thực hiện xây dựng nhà máy ĐHN được đánh dấu bằng Nghị quyết Quốc hội số 41 ngày 25/11/2009 “Cho phép xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên tại Ninh Thuận, dự kiến vận hành tổ máy số 1 vào năm 2020”.

2. Tóm tắt các tiêu chí cơ bản theo Nghị quyết Quốc hội

Cùng với một số yêu cầu khác tương đối phổ biến đối với tất cả các dự án trọng điểm quốc gia cần phải thông qua chủ trương đầu tư tại Quốc Hội, có thể trích lược từ Nghị quyết 41 để nhấn mạnh những tiêu chí đặc thù sau đây:

- Công nghệ chính là công nghệ lò nước nhẹ cải tiến, thế hệ lò hiện đại nhất, đã được kiểm chứng, bảo đảm tuyệt đối an toàn và hiệu quả kinh tế tại thời điểm lập dự án đầu tư.

- Thiết kế công trình theo tiêu chuẩn cấp đặc biệt, bảo đảm an ninh, an toàn cao nhất. Nghiên cứu, đánh giá đầy đủ về các tác động của các đứt gãy kiến tạo địa chất, các hiện tượng biến đổi khí hậu, nước biển dâng ở khu vực triển khai dự án.

- Nhà thầu có kinh nghiệm lâu năm trong việc thiết kế, chế tạo, xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, thuộc quốc gia có tiềm lực cao về khoa học và công nghệ trong lĩnh vực này, đã thực hiện nhiều dự án nhà máy ĐHN, có khả năng thu xếp tài chính và suất đầu tư hợp lý.

- Từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hoá trong xây dựng và chế tạo thiết bị.

3. Xây dựng điện hạt nhân -  đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững của đất nước

3.1. Tình hình phát triển điện hạt nhân trên thế giới

Toàn thế giới có 33 Quốc gia và vùng lãnh thổ xây dựng nhà máy ĐHN với 450 lò phản ứng ĐHN đang vận hành với tổng công suất lắp đặt 392.082 MW, trong đó nước Mỹ đứng đầu trên thế giới với 100 lò phản ứng với tổng công suất 100.350MW, tiếp theo là Pháp, Nhật, Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Canada... và 60 lò phản ứng đang xây dựng, Trung Quốc đứng đầu trên thế giới về số lượng lò phản ứng ĐHN đang xây dựng với 20 lò phản ứng với tổng công suất 20.500MW, xếp thứ hai là Nga với 7 lò phản ứng, Ấn Độ với 6 lò phản ứng, Mỹ và Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất cùng đứng thứ 4 đang xây dựng thêm 4 lò phản ứng ….

Mặc dù nước Đức đưa ra kế hoạch từ bỏ ĐHN, tuy nhiên chỉ đóng cửa các lò cũ đã hết hạn vận hành. Tiếp tục duy trì 8 lò phản ứng còn lại [đứng thứ 12/33 nước phát triển ĐHN, tỷ lệ ĐHN chiếm 14,09 % năm 2015], chấp thuận kéo dài thời gian hoạt động của các lò phản ứng này và vẫn tiếp tục vận hành khai thác cho đến hết tuổi thọ được quy định. Để bù đắp thiếu hụt năng lượng hiện tại và trong tương lai, Đức đã, đang và sẽ phải tăng cường nhập khẩu điện năng từ Pháp [chủ yếu được sản xuất từ nhà máy ĐHN].

Năm 2015 có 10 lò phản ứng ĐHN được hòa vào lưới điện [Trung Quốc: 8; Nga: 1; Hàn Quốc: 1] và Trung Quốc bắt đầu xây dựng thêm 6 tổ máy trong năm này. Từ đầu năm 2016 đến nay có thêm 9 lò phản ứng ĐHN được hòa vào lưới điện [Trung Quốc: 5; Nga, Mỹ, Hàn Quốc và Ấn Độ đều có thêm 1 lò phản ứng hòa lưới điện].

Loại công nghệ đang được sử dụng chiếm chủ yếu trong các Nhà máy ĐHN trên thế giới là lò áp lực [PWR]. Lò áp lực chiếm 64,5% về số lượng và 69,5% về công suất điện. Tiếp theo là lò nước sôi [BWR] chiếm 17,4% về số lượng và 19,3% về công suất điện.

ĐHN đóng góp quan trọng vào tổng sản lượng điện trong từng quốc gia. Đứng đầu là Pháp, năm 2015 ĐHN chiếm tới 76,34 %; thứ hai là Ukraina: 56,49%, Slovakia: 55,9%; Hungary: 52,67%...  Mỹ tuy đứng đầu thế giới về số lượng nhà máy ĐHN nhưng sản lượng ĐHN chỉ đóng góp 19,5% cho sản lượng điện quốc gia, đứng thứ 15 trong số 33 quốc gia.

THỐNG KÊ  CÁC LÒ PHẢN ỨNG  ĐIỆN HẠT NHÂN TRÊN THẾ GIỚI  

[Tính đến 7/9/2016]

TT

Quốc gia

Đang xây dựng

Đang hoạt động

 Tổng sản lượng ĐHN năm 2015 GW.h

 Tổng sản lượng điện năm 2015 GW.h

Chiếm tỷ lệ %

1

Mỹ

4

100

        797.178,00

    4.087.381,00

   19,50

2

Pháp

1

58

        416.800,00

       546.000,00

   76,34

3

Nhật Bản

2

43

 4.346,49

829.020

0,52

4

Nga

7

36

        195.213,58

    1.049.900,00

   18,59

5

Trung Quốc

20

36

        170.355,00

    5.618.400,00

     3,03

6

Hàn Quốc

3

25

        157.196,00

       495.389,00

   31,73

7

Ấn Độ

5

22

          34.644,45

       980.325,95

     3,53

8

Canada

0

19

          98.374,97

       592.755,75

   16,60

9

Anh

0

15

          63.894,54

       338.690,00

   18,87

10

Ukraina

2

15

          82.300,00

       145.700,00

   56,49

11

Thụy Điển

0

10

          54.347,00

       158.308,00

   34,33

12

Đức

0

8

          86.810,32

       616.199,00

   14,09

13

Bỉ

0

7

          24.571,70

         65.473,95

   37,53

14

Tây Ban Nha

0

7

          54.740,00

       269.143,00

   20,34

15

Cộng hòa Séc

0

6

          25.337,32

         77.880,20

   32,53

16

Đài Loan, TQ

2

6

          35.143,03

       215.378,37

   16,32

17

Thụy sỹ

0

5

          22.100,00

         66.000,00

   33,48

18

Phần Lan

1

4

          22.323,00

         66.160,00

   33,74

19

Slovakia

2

4

          14.083,68

         25.196,00

   55,90

20

Hungary

0

4

          14.955,71

         28.394,17

   52,67

21

Argentina

1

3

            6.519,00

       135.072,00

     4,83

22

Pakistan

3

3

            4.332,70

         98.424,94

     4,40

23

Mexico

0

2

          11.176,54

       164.523,25

     6,79

24

Romania

0

2

          10.695,00

         61.701,00

   17,33

25

Nam Phi

0

2

          10.965,14

       231.665,65

     4,73

26

Brazil

1

2

          14.809,16

       537.467,49

     2,76

27

Bulgaria

0

2

          15.379,00

         49.097,00

   31,32

28

Armenia

0

1

            2.576,00

           7.465,00

   34,51

29

Iran, CH Hồi giáo

0

1

            3.547,00

       279.480,00

     1,27

30

Hà Lan

0

1

            3.861,63

       105.147,00

     3,67

31

Slovenia

0

1

5.371,66

14.133,00

   38,01

32

Belarus

2

0

33

Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất [UAE]

4

0

Tổng cộng

60

450

     2.463.947,62

  17.955.870,72

2. Vấn đề đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững của đất nước

Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại. Biến đổi khí hậu sẽ tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi trường trên phạm vi toàn thế giới. Vấn đề biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn diện và sâu sắc quá trình phát triển và an ninh toàn cầu như năng lượng, nước, lương thực, xã hội, việc làm, ngoại giao, văn hóa, kinh tế, thương mại.

Việt Nam là một trong những nước chịu tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu gây ra những thảm họa như: Nước biển dâng, thay đổi lượng mưa giữa các vùng miền, nhiệt độ trung bình gia tăng, lũ lụt tăng cao, thay đổi hình thế bão, xâm nhập mặn và thiếu nước ngọt… Cùng với nhiều ngành kinh tế khác bị ảnh hưởng thì vấn đề an ninh năng lượng trong giai đoạn tới được coi là vấn đề cấp thiết và đặc biệt quan trọng.

Trong điều kiện có những biến động chính trị, quân sự, an ninh năng lượng lại càng cần được đặc biệt chú ý, chuẩn bị các giải pháp độc lập, đa đạng hóa các nguồn đầu tư, cung cấp năng lượng, tránh lệ thuộc vào một vài quốc gia.

Trong những năm gần đây, ở Việt Nam hiện tượng thời tiết bất thường, cực đoan diễn ra thường xuyên và không theo quy luật, mưa trái mùa, lượng mưa thay đổi, hạn hán, lũ lụt, nắng nóng kéo dài, xâm nhập mặt tại đồng bằng sông Cửu Long… đã gây ra những thiệt hại lớn về kinh tế và đời sống nhân dân.

Trong vòng 10 năm trở lại đây các loại thiên tai đã làm thiệt hại đáng kể về người và tài sản, đã làm chết và mất tích hơn 9.500 người, giá trị thiệt hại về tài sản ước tính chiếm khoảng 1,5% GDP/năm. Những hiện tượng này đã, đang và sẽ tác động mạnh, tàn khốc hơn nữa đến cung cầu năng lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc cung cấp năng lượng của ngành than, sản xuất điện, dầu khí và đe dọa mất an ninh năng lượng của đất nước.

Với mong muốn đa dạng hóa nguồn năng lượng và đảm bảo an ninh năng lượng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu, ngay trong phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển Điện lực Quốc gia giai đoạn 2011- 2020 có xét đến năm 2030 tại Quyết định 428/QĐ-TTg ngày 18/3/2016 [điều chỉnh Quy hoạch VII] đã có sự định hướng giữa các nguồn năng lượng. Theo đó, đẩy nhanh phát triển nguồn điện từ năng lượng tái tạo [thủy điện, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, v.v…], từng bước gia tăng tỷ trọng của điện năng sản xuất từ nguồn năng lượng tái tạo trong cơ cấu nguồn điện.

Cụ thể: Tổng công suất các nguồn thủy điện [bao gồm cả thủy điện vừa và nhỏ, thủy điện tích năng] từ gần 17.000 MW hiện nay lên khoảng 27.800 MW vào năm 2030 [thủy điện tích năng 2.400MW]. Điện năng sản xuất từ nguồn thủy điện chiếm tỷ trọng khoảng khoảng 15,5% vào năm 2030.

Đưa tổng công suất nguồn điện gió từ mức 140 MW hiện nay lên khoảng khoảng 6.000 MW vào năm 2030.

Đẩy nhanh phát triển nguồn điện sử dụng năng lượng mặt trời, đưa tổng công suất nguồn điện mặt trời từ mức không đáng kể hiện nay lên khoảng 12.000 MW vào năm 2030.  Điện năng sản xuất từ nguồn điện mặt trời chiếm tỷ trọng khoảng 3,3% vào năm 2030.

Phát triển các nhà máy nhiệt điện với tỷ lệ thích hợp, phù hợp với khả năng cung cấp và phân bố của các nguồn nhiên liệu, đến năm 2025, tổng công suất khoảng 45.800 MW, sản xuất khoảng 220 tỷ kWh điện, chiếm khoảng 55% điện sản xuất, tiêu thụ khoảng 95 triệu tấn than.

Phát triển các nhà máy ĐHN nhằm bảo đảm ổn định cung cấp điện trong tương lai khi nguồn năng lượng sơ cấp trong nước bị cạn kiệt. Cụ thể, đưa tổ máy ĐHN đầu tiên vào vận hành năm 2028; đến năm 2030 nguồn ĐHN có công suất 4.600 MW, sản xuất khoảng 32,5 tỷ kWh chiếm 5,7% sản lượng điện sản xuất.  

Khủng hoảng hạt nhân Fukushima trong thảm họa sóng thần ngày 11/3/2011 đã gây ra nhiều biến động lớn, đòi hỏi ngành công nghiệp ĐHN thế giới phải rút ra các bài học và đề xuất những giải pháp bổ sung thích ứng với yêu cầu mới đặt ra.

Trước tình hình mới rất phức tạp sau vụ Fukushima, Chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo rà soát các yêu cầu nâng cao an toàn hạt nhân, coi đó là ưu tiên cao nhất cho các dự án điện hạt nhân đầu tiên. Các yếu tố hiệu quả kinh tế, tiến độ dự án, vv... đều quan trọng, nhưng không được phép đặt trên an toàn hạt nhân.

Chính vì vậy công tác thực hiện dự án tại Ninh Thuận, chương trình đào tạo nhân lực, soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật, vv... đều được triển khai đồng bộ và khẩn trương, nhưng với sự đề cao thái độ thận trọng, đảm bảo tối đa yêu cầu an toàn hạt nhân.

Đến nay, Việt Nam đã khẳng định sẽ lựa chọn công nghệ hiện đại nhất thế hệ 3+ của Nga là loại lò AES-2006 [VVER-1200/V491] cho Nhà máy ĐHN Ninh Thuận 1 và lựa chọn hai loại công nghệ là ATMEA1 và AP1000 được để xem xét tiếp cho nhà máy ĐHN Ninh Thuận 2.

Có nhiều ý kiến lo lắng hoặc phản đối ĐHN, chúng ta thấy rằng nếu chỉ thuần túy phê phán hoặc ủng hộ thì không khó, nhưng phân tích khách quan và xác định đúng nguyên nhân bản chất sự việc thì không dễ. Hơn nữa tham gia trực diện vào một tình huống cụ thể và đưa ra các biện pháp khả thi cho tiến trình giải quyết sự việc thì mới là điều khó hơn và có ý nghĩa nhất.

Để có cách tiếp cận hợp lý, trước hết phải dựa trên cơ sở khoa học và khách quan. Người bình thường có thể không tự đặt ra yêu cầu đó, nhưng nếu là một chuyên gia nhà khoa học hoặc là nhà hoạch định chính sách, và kể cả những người tự nghĩ mình có trách nhiệm với quốc gia, dân tộc và rộng hơn là với thế giới, thì trước hết phải cố gắng loại bỏ mọi định kiến, mọi bản năng thuần cảm tính. Cơ sở khoa học không phải chỉ liên quan đến phạm trù công nghệ, mà nó phải bao gồm bài toán tối ưu về hiệu quả kinh tế xã hội. Sau đó mới đến các lý do chính trị khác.

Theo Quy hoạch VII điều chỉnh, nếu không đưa được ĐHN vào theo kế hoạch, lúc đó ta sẽ phải tăng cường nguồn than, dầu, khí để chạy nền thay thế nguồn ĐHN vào năm 2030 [4.600 MWe + 2.400 MW thủy điện tích năng sẽ mất đi khi không đạt hiệu quả kinh tế do chưa có ĐHN]. Còn các nguồn năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió và điện mặt trời mặc dù đã nằm trong quy hoạch nhưng là các nguồn điện gián đoạn khó dự báo, rất phụ thuộc vào thời tiết nên không thể thay thế ĐHN được mà chỉ góp phần giảm việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch để phát điện. Việc phát triển nguồn năng lượng tái tạo sẽ vẫn phải đầu tư các nguồn điện dự phòng, làm tăng giá thành sản xuất điện chung của toàn hệ thống.

Ngoài ra, một số hạn chế của điện gió và mặt trời là chiếm diện tích đất lớn và trong điều kiện thời tiết của Việt Nam, các dạng nguồn này sẽ có hệ số công suất thấp, giá thành sản xuất cao [khoảng 11,2  US Cent/kWh cho dự án điện mặt trời nối lưới và khoảng 13,44 US Cent/kWh cho dự án điện mặt trời lắp trên mái nhà; giá điện gió hiện tại 7,8 US Cent/kWh, dự kiến tăng lên 10,4 US Cent/kW/h], kỹ thuật khai thác phức tạp, đòi hỏi công nghệ cao, chi phí vận hành bảo dưỡng cao và không thể phát để ổn định công suất nền được.

Để đảm bảo an ninh cung ứng điện vào năm 2030 cần phải nhập khẩu thêm 15 triệu tấn than cho phát điện, nâng tổng số than nhập khẩu lên 100 triệu tấn/năm. Lượng than, LNG nhập khẩu sẽ càng tăng cao vào những giai đoạn sau, đây là áp lực lớn đến khả năng tìm nguồn cung ứng, đè nặng lên hệ thống hạ tầng và bảo vệ môi trường.

Thực chất xu hướng tăng nhiệt điện than là đi ngược lại với mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam. Tỷ trọng phát triển nhiệt điện than quá lớn sẽ vi phạm công ước chung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu [UNFCCC], không thực hiện được lộ trình giảm phát thải khí nhà kính 8% vào năm 2030 mà trong đó các dự án năng lượng chiếm 87,6% .

Tùy theo khả năng của từng vùng, từng quốc gia, họ có thể quy hoạch một tỉ lệ phối hợp hài hòa các nguồn năng lượng khác nhau. Việt Nam đã tính đến mọi nguồn năng lượng có thể, nhưng mỗi loại đều có mặt trái và đều đã từng bị các dư luận khác nhau phê phán, bao gồm cả thủy điện, than và dầu khí.

Nếu loại bỏ một nguồn nào trong số đó cũng đều phạm một sai lầm nhất định.

Tương tự như vậy, không thể không đưa ĐHN vào một cuộc đọ sức công bằng. Bất kỳ sự áp đặt nào không đủ khách quan hợp lý sẽ chỉ đưa nền kinh tế năng lượng của đất nước đến chỗ mất cân bằng.

Dù phải vượt qua những chặng đường có lúc quanh co, khúc khuỷu, xu hướng phát triển tối ưu sẽ được thực tế làm sáng tỏ và công nhận. Tuy nhiên, sẽ tốt hơn khi các chuyên gia và các nhà hoạch định chính sách không chờ đợi sự việc bị đưa đẩy một cách tự phát, mà chủ động tham mưu, hướng dẫn cho quá trình phát triển tích cực và hiệu quả.

Ngày 05/8/2016 lò phản ứng số 6 nhà máy ĐHN Novovoronezh của Nga đã đấu nối, hòa lưới điện quốc gia Liên bang Nga; tổ máy có công suất 1.114 MWe sử dụng công nghệ AES-2006 [VVER-1200], đây là thế hệ lò 3+ do Liên bang Nga thiết kế, chế tạo và được IAEA cũng như các chuyên gia ĐHN quốc tế đánh giá cao. Công nghệ này cũng đã được Việt Nam lựa chọn cho nhà máy ĐHN Ninh Thuận 1 và sự kiện trên đã minh chứng về tính kiểm chứng, đáp ứng mọi yêu cầu Quốc hội đề ra tại Nghị quyết 41.

Các chuyên gia về năng lượng nói chung và ĐHN nói riêng luôn mong muốn được bàn bạc, đóng góp các ý kiến cho ngành năng lượng quốc gia. Chỉ mong là một khi đã rõ con đường đi rồi, thì chúng ta cần có quyết tâm, lãnh đạo có quyết đoán, huy động trí tuệ của các nhà khoa học, các nhà quản lý và sự ủng hộ của toàn dân, chúng ta sẽ thành công trong việc xây dựng nhà máy ĐHN, tiến tới mục tiêu làm chủ công nghệ - yếu tố góp phần góp đảm bảo an ninh năng lượng, giảm nhẹ biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế - xã hội bền vững. 

TS. NGUYỄN MẠNH HIẾN - HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. www.iaea.org/ PRIS.

2. Quyết định số 428/QĐ-TTg ngày 18/3/2016  Quyết định phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến 2030.

3. Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 05/12/2011  Quyết định phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu.

4. Các bài viết phổ biến trên Nangluongvietnam Online của TS. Võ Văn Thuận, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học và Kỹ thuật Hạt nhân - Chuyên gia điện hạt nhân.

Video liên quan

Chủ Đề