Sự khác nhau giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi

Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân và năng lực hành vi dân sự của cá nhân là hai khái niệm quan trọng được quy định trong Bộ luật dân sự 2015.

>>> Xem thêm:

1. So sánh sự khác nhau giữa năng lực pháp luật dân sự của cá nhân và năng lực hành vi dân sự của cá nhân

Theo quy định tại Điều 16 Bộ luật Dân sự có quy định về Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân

“1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.

2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.

3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.”

Bên cạnh đó  tại Điều 17 Bộ luật Dân sự cũng đã quy định một cách cụ thể về Nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân

“1. Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản.

2. Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản.

3. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.”

Còn đối với Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được quy định tại Điều 19 Bộ luật Dân sự như sau:

“Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.”

Từ quy định của pháp luật trên, điểm “mấu chốt” mà để cho ta phân biệt được Năng lực hành vi dân sự của cá nhân và Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân như sau:

– Đối với Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân: tất cả chúng ta từ khi sinh ra cho đến khi chết đi đều có năng lực pháp luật dân sự giống nhau, điều giống nhau đó được thể hiện ở các nội dung sau đây:  Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản; Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản; Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được do pháp luật quy định và sẽ không bị mất đi hoặc hạn chế ở trong trường hợp nào.

– Đối với Năng lực hành vi dân sự của cá nhân: Khác với năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, đối với năng lực hành vi dân sự của cá nhân thì phải do cá nhân đó xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự đó.

Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp người đó bị mất năng lực hành vi dân sự (Điều 22 Bộ luật Dân sự); Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi (Điều 23 Bộ luật Dân sự) và Hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 24 Bộ luật Dân sự).

2. Mối quan hệ giữa Năng lực pháp luật và Năng lực hành vi

Giữa Năng lực pháp luật và Năng lực hành vi có mỗi quan hệ mật thiết với nhau, cụ thể như sau:

– Năng lực pháp luật là điều kiện cần, năng lực hành vi là điều kiện đủ để cá nhân, tổ chức có thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật.

– Nếu chủ thể có năng lực pháp luật mà không có hoặc mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi thì họ không thể tham gia một cách tích cực vào các quan hệ pháp luật. Trong một số trường hợp pháp luật cho phép, họ chỉ được tham gia vào quan hệ pháp luật một cách thụ động thông qua hành vi của người thứ ba.

– Năng lực pháp luật là tiền đề của năng lực chủ thể. Vì vậy cá nhân, tổ chức không thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật nếu không có năng lực pháp luật.

Năng lực hành vi dân sự là gì? Năng lực pháp luật dân sự là gì? Sự khác nhau giữa Năng lực hành vi dân sự và Năng lực pháp luật dân sự?

1. NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ

Năng lực hành vi dân sự (NLHVDS) của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.

Tư cách chủ thể của cá nhân chỉ đầy đủ, hoàn thiện, độc lập khi họ có đầy đủ NLHVDS, ngoài năng lực pháp luật dân sự vốn là thuộc tính được pháp luật ghi nhận cho mọi cá nhân.

Nếu năng lực pháp luật dân sự là tiền đề, là quyền dân sự khách quan của chủ thể thì năng lực hành vi là khả năng hành động của chính chủ thể để tạo ra các quyền, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Ngoài ra, NLHVDS còn bao hàm cả năng lực tự chịu trách nhiệm dân sự khi vi phạm nghĩa vụ dân sự.

Cùng với năng lực pháp luật, NLHVDS là thuộc tính của cá nhân, tạo thành tư cách chủ thể độc lập của cá nhân trong các quan hệ dân sự.

Mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân

Nếu pháp luật quy định năng lực pháp luật của mọi cá nhân là như nhau thì lại xác định năng lực hành vi của cá nhân không giống nhau. Những cá nhân khác nhau có nhận thức khác nhau về hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Việc nhận thức và làm chủ hành vi của cá nhân phụ thuộc vào ý chí và lí trí của cá nhân đó, phụ thuộc vào khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của chính họ.

Căn cứ vào khả năng của cá nhân về nhận thức và điều khiển được hành vi và hậu quả của hành vi, pháp luật phân biệt mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tuy nhiên khó có tiêu chí để xác định khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân, do đó độ tuổi của cá nhân được xem là tiêu chí chung nhất để phân biệt mức độ NLHVDS.

Năng lực hành vi dân sự đầy đủ

Người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên có NLHVDS đầy đủ, trừ trường hợp bị tuyên bố mất năng lực hành vi hoặc hạn chế NLHVDS. Pháp luật chỉ quy định độ tuổi tối thiểu mà không quy định độ tuổi tối đa của những người có năng lực pháp luật dân sự đầy đủ. Những người này có đầy đủ tư cách chủ thể, toàn quyền tham gia vào quan hệ dân sự với tư cách là chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về những hành vi do họ thực hiện.

Những người từ đủ 18 tuổi trở lên được suy đoán là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Họ chỉ bị mất năng lực hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi khi có quyết định của toà án về việc hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình thì nữ từ 18 tuổi (17 tuổi 1 ngày)  trở lên có quyền kết hôn nhưng theo quy định này thì nữ đủ tuổi kết hôn vẫn có thể chưa có đầy đủ năng lực hành vi.

Năng lực hành vi một phần

Người có năng lực hành vi một phần (không đầy đủ) là những người chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định.

Điều 21 BLDS quy định về Người chưa thành niên, theo đó, người thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.

– Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.

– Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.

– Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.

Như vậy, cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là những người có NLHVDS một phần. Họ có thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải chịu những nghĩa vụ khi tham gia các giao dịch để thoả mãn những nhu cầu thiết yếu hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.

Tuy pháp luật không quy định những giao dịch nào là giao dịch “phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày” và “phù hợp với lứa tuổi” nhưng có thể hiểu đó là những giao dịch có giá trị nhỏ, phục vụ những nhu cầu học tập, vui chơi trong cuộc sống được người đại diện của họ cho phép thực hiện mà không cần sự đồng ý trực tiếp của người đại diện (mua dụng cụ học tập, ăn quà, vui chơi giải trí…).

Người đại diện của những cá nhân ở lứa tuổi này có thể yêu cầu tuyên bố những giao dịch do người chưa thành niên thực hiện mà không có sự đồng ý của họ là vô hiệu và toà án xem xét trong những trường hợp cụ thể để chấp nhận yêu cầu đó theo quy định tại Điều 130 BLDS. Nếu những người đại diện không yêu cầu toà án xem xét tính hiệu lực của những giao dịch này thì những giao dịch đó mặc nhiên được coi là có hiệu lực.

Những người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch trong phạm vi tài sản riêng mà họ có và không cần sự đồng ý của người đại diện. Trong trường hợp pháp luật có quy định về sự đồng ý của người đại diện thì áp dụng tương tự như trường hợp vị thành niên nói chung (như di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, việc định đoạt tài sản là nhà ở và đất đai…).

Không có năng lực hành vi

Người chưa đủ 6 tuổi không có NLHVDS. Mọi giao dịch của những người này đều do người đại diện xác lập và thực hiện. Họ chưa bao giờ có năng lực hành vi bởi chưa đủ ý chí cũng như lí trí để hiểu được hành vi và hậu quả của những hành vi đó.

Mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự

Mất năng lực hành vi dân sự

Khái niệm “mất” thông thường được hiểu là đang tồn tại, đang có một hiện tượng, một sự vật nhưng sau đó không còn hiện tượng, sự vật đó nữa. NLHVDS của cá nhân cũng là thuộc tính nhân thân của cá nhân và đầy đủ khi cá nhân đến tuổi thành niên.

Thông thường, năng lực hành vi của cá nhân chấm dứt cùng với sự chấm dứt của năng lực pháp luật của cá nhân đó (chết hoặc toà án tuyên bố là đã chết). Tuy nhiên, người thành niên có thể bị tuyên bố mất năng lực hành vi khi có những điều kiện, với những trình tự, thủ tục nhất định.

Nếu cá nhân bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được các hành vi của mình thì bị coi là mất năng lực hành vi dân sự (Điều 22 BLDS).

Trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền, toà án có thể tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Mọi giao dịch dân sự của những người này do người đại diện của họ xác lập, thực hiện

Trong trường hợp vì những nguyên nhân mà do đó, họ bị tuyên bố là mất năng lực hành vi nhưng nay không còn tồn tại nữa thì họ hoặc những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu toà án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi. Tuy nhiên, giải quyết việc này theo chính yêu cầu của người đó sẽ bị vướng mắc về tố tụng. Theo quy định khi họ mất năng lực hành vi dân sự thì cũng sẽ mất năng lực hành vi tố tụng, họ không thể tự khởi kiện hoặc yêu cầu toà án mà phải thông qua hành vi của người có năng lực hành vi tố tụng dân sự, vì vậy, BLTTDS cần giải quyết vướng mắc này.

Hạn chế năng lực hành vi dân sự

Năng lực hành vi của người đã thành niên có thể bị hạn chế trên cơ sở những điều kiện và thủ tục được quy định tại Điều 24 BLDS. Năng lực hành vi của người thành niên bị hạn chế khác với năng lực hành vi một phần của người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi mặc dù về hình thức có vẻ giống nhau. Năng lực hành vi của người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi mặc nhiên được công nhận là năng lực hành vi đầy đủ khi đạt độ tuổi nhất định còn việc hạn chế năng lực hành vi phải thông qua toà án theo trình tự tố tụng dân sự và được áp dụng với những người nghiện ma túy và các chất kích thích dẫn đến hậu quả phá tán tài sản của gia đình.

Nghiện ma túy và các chất kích thích khác phải là nguyên nhân dẫn đến phá tán tài sản của gia đình và việc yêu cầu toà án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi không chỉ thuộc những người có quyền, lợi ích liên quan mà quan trọng hơn là các cơ quan hoặc tổ chức hữu quan cũng có quyền yêu cầu toà án, điều này tạo điều kiện tốt hơn để quy định này được thực thi về mặt thực tế mà không chỉ về pháp lí.

Căn cứ vào tình trạng thực tế và theo yêu cầu của những người có quyền, lợi ích liên quan, tổ chức hữu quan, toà án có thể ra quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế NLHVDS và phạm vi đại diện do toà án quyết định. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế NLHVDS phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế NLHVDS thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, toà án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế NLHVDS.

Việc tuyên bố một người mất NLHVDS, hạn chế năng lực hành vi dân sự dẫn đến những hậu quả pháp lí nhất định, tư cách chủ thể của những người này như những người có năng lực hành vi dân sự một phần.

Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

Đây là chủ thể mới được ghi nhận tại Điều 23 BLDS với các đặc điểm:

– Có các yếu tố về thể chất ( sự khuyết thiếu về cơ thể như cá nhân bị câm, mù, điếc hoặc bị tai nạn liệt người,…) hoặc các yếu tố về tinh thần (cú sốc tâm lí,.) mà không đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự

– Có yêu cầu của người này, người có quyền và lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan gửi đến tòa án

– Có kết luận giám định pháp y tâm thần

– Tòa án ra quyết định tuyên bố là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, chỉ định người giám hộ, xác định quyền và nghĩa vụ của người giám hộ.

Nếu sau đó không còn các căn cứ nêu tren và có kết luận giám định pháp lí tâm thần là họ có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi một cách bình thường thì tòa án sẽ ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.

2. NĂNG LỰC PHÁP LUẬT

Khái niệm năng lực pháp luật dân sự

Cá nhân là chủ thể đầu tiên của các quan hệ xã hội, là “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Cá nhân – con người là trung tâm của các chính sách kinh tế, xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện với mục đích phục vụ con người, vì con người.

Trong các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân mà luật dân sự điều chỉnh thì cá nhân là chủ thể nguyên sinh, đầu tiên và các chủ thể khác tham gia vào các quan hệ dân sự cũng thông qua hành vi của con người. Để tham gia vào quan hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng, cá nhân phải có tư cách chủ thể để tham gia vào các quan hệ dân sự. Đây là năng lực chủ thể được tạo thành bởi năng lực pháp luật và năng lực hành vi.

Điều 16 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định:

– Năng lực pháp luật dân sự (NLPLDS) của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự

– Mọi cá nhân đều có NLPLDS như nhau.

– NLPLDS của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.

Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng, là tiền đề, điều kiện cần thiết để công dân có quyền, có nghĩa vụ; là thành phần không thể thiếu được của cá nhân với tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, là một mặt của năng lực chủ thể.

Đặc điểm năng lực pháp luật dân sự

Năng lực pháp luật dân sự ghi nhận trong các văn bản pháp luật

NLPLDS của cá nhân được Nhà nước ghi nhận trong các văn bản pháp luật mà nội dung của nó phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội; vào hình thái kinh tế – xã hội tại thời điểm lịch sử nhất định.

Mặc dù được ghi nhận như là một bộ phận không thể thiếu được của cá nhân, như là một thực thể trong các quan hệ xã hội, NLPLDS của cá nhân không phải do tạo hóa ban cho như những nhà chính trị, triết học tư sản thường suy diễn và kết luận, mà do nhà nước ghi nhận và quy định cho công dân của nhà nước đó. Bởi vậy, NLPLDS của công dân mang bản chất giai cấp. Đã có thời kì một nhóm người sinh ra không phải là chủ thể của các quan hệ xã hội mà là khách thể của các quan hệ đó, là công cụ biết nói (một bộ phận trong xã hội chiếm hữu nô lệ – nô lệ).

Vì vậy, ở những hình thái kinh tế – xã hội khác nhau, NLPLDS cũng được quy định khác nhau. Trong cùng một hình thái kinh tế – xã hội nhưng ở những nước khác nhau thì năng lực pháp luật dân sự của công dân cũng khác nhau, thậm chí khái niệm về quyền dân sự cũng khác nhau

Ví dụ: năng lực pháp luật dân sự của công dân Cộng hòa Pháp khác với năng lực pháp luật dân sự của công dân vương quốc Anh…

Trong cùng một nước, cùng một hình thái kinh tế – xã hội, vào những thời điểm lịch sử khác nhau thì năng lực pháp luật dân sự của cá nhân cũng được quy định khác nhau. Điều này phụ thuộc vào đường lối, chính sách của giai cấp thống trị trong xã hội đó mà nội dung phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị tồn tại trong xã hội vào thời điểm lịch sử đó.

Mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật

Khoản 2 Điều 16 BLDS quy định: “Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau”. NLPLDS của cá nhân không bị hạn chế bởi bất cứ lí do nào (độ tuổi, địa vị xã hội, giới tính, tôn giáo, dân tộc…). Mọi cá nhân công dân đều có khả năng hưởng quyền như nhau và gánh chịu nghĩa vụ như nhau.

NLPLDS của cá nhân không đồng nghĩa với quyền dân sự chủ quan của cá nhân mà chỉ là tiền đề để cho công dân có các quyền dân sự cụ thể. Tuy nhiên, chủ thể không có khả năng hưởng quyền thì cũng không thể có quyền dân sự cụ thể được.

Có ý kiến cho rằng NLPLDS của công dân không thể bình đẳng với lí do năng lực pháp luật bao gồm cả quyền và nghĩa vụ. Cho nên, công dân chỉ bình đẳng về khả năng hưởng quyền mà không bình đẳng về việc gánh chịu nghĩa vụ (như người không có năng lực hành vi không phải bồi thường thiệt hại…).

Nhìn về hình thức có thể thấy được cơ sở của ý kiến trên nhưng như trên đã trình bày, năng lực pháp luật dân sự chỉ là khả năng hưởng quyền và nghĩa vụ. Những người không có năng lực hành vi dân sự không phải thực hiện nghĩa vụ nhưng nghĩa vụ về mặt pháp lí vẫn là của họ và người khác phải thực hiện các nghĩa vụ thay họ (cha, mẹ, người giám hộ). Mặt khác, theo lí luận của quan điểm này và với logic thông thường thì ngay cả các quyền cũng không bình đẳng.

Ví dụ: Người không có năng lực hành vi không có cả quyền tạo lập nghĩa vụ thông qua hợp đồng, không có quyền làm đại diện…

Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân do Nhà nước quy định cho tất cả cá nhân

Tuy nhiên Nhà nước không cho phép công dân tự hạn chế năng lực pháp luật của chính họ và của cá nhân khác.

NLPLDS của cá nhân là thuộc tính nhân thân của chủ thể và không thể dịch chuyển cho chủ thể khác. Điều 18 BLDS quy định: “NLPLDS của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”. Như vậy, NLPLDS của cá nhân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật. Có hai dạng bị hạn chế sau:

– Văn bản pháp luật chung quy định một loại người nào đó không được phép thực hiện các giao dịch dân sự cụ thể.

– Quyết định đơn hành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Tuy vậy, về bản chất, đây không phải là tước bỏ năng lực pháp luật dân sự mà chỉ là tạm đình chỉ khả năng này – khả năng biến quyền khách quan thành quyền chủ quan của chủ thể riêng biệt. Việc hạn chế này chỉ đối với một số quyền cụ thể mà không phải là năng lực pháp luật dân sự nói chung. Việc hạn chế NLPLDS không đồng nghĩa với việc tước bỏ một quyền dân sự cụ thể (kê biên tài sản, tịch thu tài sản…).

Tính bảo đảm của năng lực pháp luật dân sự

Khả năng có quyền và nghĩa vụ vẫn chỉ tồn tại là những quyền khách quan mà pháp luật quy định cho các chủ thể. Để biến những “khả năng” này thành các quyền dân sự cụ thể cần phải có những điều kiện khách quan cũng như chủ quan. Những điều kiện khách quan là những điều kiện kinh tế, xã hội, những chính sách của Đảng và Nhà nước thực hiện trong từng giai đoạn cụ thể. Thiếu những điều kiện kinh tế, pháp lí này, các quyền đó vẫn chỉ tồn tại dưới dạng “khả năng” mà không thể thành những quyền dân sự cụ thể được.

Nhà nước ta đang thực hiện đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa tạo những điều kiện thuận lợi để phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế nhằm đáp ứng ngày càng cao những nhu cầu của nhân dân. Đây là những cơ sở chính trị, kinh tế, pháp lí quan trọng nhằm phát huy hiệu quả của nền kinh tế thị trường đồng thời hạn chế những mặt trái của nó.Nhà nước tạo mọi điều kiện để bảo đảm năng lực pháp luật dân sự của công dân được thực hiện, biến những “khả năng” đó trở thành thực tế. Tạo ra hành lang pháp lí thông thoáng, mềm dẻo là tạo điều kiện cho khả năng biến năng lực pháp luật của cá nhân thành các quyền năng dân sự cụ thể.

Nội dung năng lực pháp luật dân sự

Pháp luật ghi nhận khả năng của cá nhân có quyền và nghĩa vụ dân sự. Tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho cá nhân gọi là nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân. Nội dung của năng lực pháp luật dân sự phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội trong những điều kiện lịch sử nhất định. Những quyền dân sự của cá nhân được ghi nhận ở rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau nhưng quan trọng nhất là Hiến pháp 2013 và được cụ thể hóa trong BLDS.

Điều 17 BLDS quy định nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân một cách vắn tắt, những quyền dân sự cụ thể của cá nhân được ghi nhận trong tất cả các phần của BLDS. Có thể chia quyền dân sự của cá nhân thành ba nhóm chính:

Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản

Các quyền nhân thân không gắn với tài sản gồm các quyền được quy định tại Điều 26 đến Điều 39 BLDS như: Quyền có họ, tên; Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình; Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình;…Bảo vệ, tôn trọng quyền nhân thân còn được ghi nhận là một nguyên tắc quan trọng của BLDS (Điều 11 BLDS).

Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản

Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 2013, BLDS quy định tài sản thuộc sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng và giá trị, bao gồm thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác. Cá nhân chỉ bị hạn chế quyền sở hữu đối với các tài sản mà pháp luật quy định không thuộc quyền sở hữu tư nhân.

Công dân có quyền hưởng di sản thừa kế, để lại di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật.

Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó

Tham gia vào các quan hệ dân sự thông qua các giao dịch dân sự (hành vi pháp lí đơn phương hoặc hợp đồng) là biện pháp quan trọng và thông dụng nhất làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự. Các quyền này được thể hiện trong các nguyên tắc của luật dân sự “tự do, tự nguyện cam kết” (Điều 3 BLDS) và được thể hiện cụ thể, chi tiết trong Phần thứ ba của BLDS. Ngoài ra, nghĩa vụ dân sự của các chủ thể còn phát sinh từ các căn cứ khác (bồi thường thiệt hại, thực hiện công việc không có ủy quyền…).

Bắt đầu và chấm dứt năng lực pháp luật dân sự

Khoản 3 Điều 16 BLDS thừa nhận năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là thuộc tính gắn liền với cá nhân suốt đời và không bị ảnh hưởng bởi trạng thái tinh thần, tuổi tác, hoàn cảnh, tài sản…

Một trường hợp ngoại lệ được pháp luật quy định là: “Người sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản thừa kế chết” vẫn được hưởng di sản thừa kế của người chết để lại. Như vậy, thai nhi đã được bảo lưu quyền thừa kế nếu còn sống sau khi sinh ra.