Sự khác biệt trong văn hóa giao tiếp Đông Tây
Cách chào hỏiCác nước phương Tây rất tôn trọng sự bình đẳng nên cách chào hỏi của họ khá thoải mái. Họ thường bắt tay nhau bình thường giữa nam và nữ, đối với người thân, bạn bè thì họ sẽ trao nhau nụ hôn lên má hoặc phớt qua trên môi. Show
Còn phương Đông thì khá quy tắc nề nếp trong việc chào hỏi, trước đây, đàn ông và phụ nữ gặp nhau thì vái chào, nghiêng mình, sau này thì bắt tay chứ không có ôm hôn, hành động ôm hôn chỉ dành cho những người đang yêu nhau hoặc vợ chồng. Người phương Đông chào hỏi theo quy tắcQuan niệm về ăn mặcNgười phương Tây ăn mặc khá thoải mái, thậm chí những hình ảnh khỏa thân vẽ tranh, tạc tượng là để mọi người cùng chiêm ngưỡng cái đẹp. Còn phương Đông thì ăn mặc kín đáo, những trang phục thiếu vải, hoặc khỏa thân được xem là xúc phạm đến thuần phong mỹ tục và giá trị con người, đặc biệt là phụ nữ. Quan niệm về ăn uốngỞ phương Tây khi rủ nhau đi ăn thì mỗi người sẽ tự động trả tiền cho phần ăn của mình, còn đối với các bữa tiệc thì sẽ được chia đều cho cả nhóm. Còn phương Đông thì khi mời người ta đi ăn thường sẽ trả tiền cho cả hai bên, mời qua mời lại. Phương Tây ăn uống thoải mái, tự trả cho bản thânQuan niệm về giáo dục con cáiNgười phương Tây luôn dạy con tính tự lập cao, khuyến khích việc chúng vừa học vừa làm để có tiền tiêu xài và biết quý trọng tiền bạc. Còn cha mẹ phương Đông thì không khuyến khích việc con cái đi làm thêm vì cho rằng nó ảnh hưởng đến việc học và khiến họ bị người ngoài sỉ nhục không thể lo cho con thật đầy đủ. Trách nhiệm đối với con cáiPhương Tây thì khi con cái đến độ tuổi trưởng thành thì cha mẹ sẽ hết trách nhiệm nuôi nấng và chu cấp. Ngược lại, người phương Đông thì lại luôn lo cho con cái, thậm chí là cháu chắt, trách nhiệm tự nguyện lâu dài. Giao tiếp ngôn ngữVăn hóa phương Tây thường giao tiếp thoải mái, khi nói họ nhìn vào mắt nhau để thể hiện sự bình đẳng, họ thẳng thắn đi vào vấn đề với những câu nói và nhận xét của mình. Còn người phương Đông lại có chút e dè, vòng vo, không trực tiếp đi vào vấn đề mà sẽ đi theo lối vòng quanh. Nét đặc trưng của văn hoá phương Đông là gì?Thế giới phương Đông đề cập đến các nước ở châu Á và Trung Đông. Người dân ở các nước phương Đông truyền thống hơn người phương Tây khi chúng ta xem xét các nghi lễ, phong tục, quần áo,… Ví dụ:
Ở các nước phương Đông, người lớn tuổi được coi là người đứng đầu nhà và trẻ em tôn trọng và tuân theo chúng trong mọi quyết định. Các quyết định quan trọng liên quan đến tương lai trẻ em thường được đưa ra bởi những người lớn tuổi. Khi cha mẹ già đi, những đứa trẻ được trông đợi sẽ chăm sóc chúng. Hôn nhân sắp đặt là một hiện tượng phổ biến ở các nước phương Đông. Chúng thường được sắp xếp bởi cha mẹ hoặc người lớn tuổi. Các yếu tố như giáo dục, địa vị xã hội và nền tảng gia đình được xem xét trong các cuộc hôn nhân này. Khái niệm tình yêu xuất hiện sau khi kết hôn cũng được thúc đẩy bởi những cuộc hôn nhân này. Hơn nữa, sự thể hiện tình cảm công khai thường được tán thành ở các nước phương Đông. Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo Jain, Thần giáo và Đạo giáo là một số tôn giáo phổ biến ở các quốc gia phương Đông. Các nghi lễ và phong tục của các cộng đồng khác nhau cũng có thể khác nhau theo các tôn giáo này. Văn hóa giao tiếp của phương tây và phương đôngVăn hóa giao tiếp của phương tây và phương đông .Mỗi đất nước sẽ có nền văn hóa khác nhau, sẽ có sự khác biệt về kinh tế, văn minh, triết lý, tôn giáo khác nhau. Một nền văn hóa có thể thích hợp cho nước này, nhưng không có gì đảm bảo tốt cho nước khác. » Xem thêm Lấy một ví dụ như ở các nước phương Tây, việc con cái lý luận với cha mẹ là một điều bình thường, nhưng đối với các nước phương đông thì đó được xem là hành động vô giáo dục, thiếu tôn trọng người... » Thu gọn Chủ đề:
Tóm tắt nội dung tài liệu
Khác biệt giữa văn hóa phương Tây và Việt Nam (hay phương Đông nói chung)Thứ năm, 22/05/2014 | 14:00 Khi Việt Nam ngày càng hội nhập vào văn hóa thế giới thì việc tìm hiểu về sự khác biệt càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, để trước tiên chúng ta tránh những cú sốc về văn hóa, và tiếp đến là để nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới. Bài viết liệt kê những sự khác biệt trong thói quen, tập quán, giao tiếp và ứng xử của người 1.Chào hỏi Người Phương Tây thường bắt tay, ôm hoặc hôn má. 2.Làm quen Người phương Tây: Nam, nữ thường rất bạo dạn và tư duy thoáng. 3.Cách thể hiện ý kiến cá nhân Bên trái(màu xanh)-phương Tây; bên phải(màu đỏ)-phương Đông. Người Phương Tây quan trọng sự thẳng thắn. Cách đặt vấn đề và cách giải quyết vấn đề Người Phương Tây luôn đi thẳng vào vấn đề. 4.Phong cách sống Người phương Tây đề cao cái Tôi, năng lực cá nhân, cá tính riêng… vì vậy phong cách sống của họ thiên về lối sống tự lập, cá nhân. Các mối quan hệ và sự kết nối trong xã hội Các mối quan hệ trong thế giới phương Tây thì rất là rõ ràng chứ không phức tạp và mang nặng tính “dắt dây” như trong xã hội phương Đông. Nhìn nhận về bản thân Người phương Tây rất quan trọng cái Tôi, đề cao tính cá nhân trong một số khía cạnh của đời sống. Họ đòi hỏi những người xung quanh phải tôn trọng những gì thuộc về vấn đề cá nhân. Cách nói chuyện: Việt Nam: khi nói chuyện thường khiêm tốn, hạ mình xuống một chút để thể hiện sự khiêm nhường. Người Việt thường chú trọng sự nhường nhịn, kính trên nhường dưới. Trong khi người Mỹ thì chú trọng sự cạnh tranh. Vì vậy, trong một tập thể, người Việt thường hay bị người Mỹ lấn át. Người Mỹ có tinh thần trọng luật rất cao, đôi khi trở nên máy móc. Cứ đúng luật là được, còn có tình nghĩa hay không thì không quan trọng. Người Việt thì thường chú tâm vào các khuôn mẫu đạo đức chung hơn là luật, để sao cho hợp tình hợp lý. Người Mỹ thích đặt câu hỏi, vì họ quan niệm rằng trong cuộc đối thoại nếu như người đối diện không đặt ra những câu hỏi thì có nghĩa là họ không quan tâm đến vấn đề mà người kia đề cập hay không quan tâm đến họ. Còn người Việt thì lại rất ngại hỏi. 5.Cấp trên/Sếp Phương Tây: sếp cũng là người đi làm kiếm sống như nhân viên và bao người khác, chỉ có điều cấp bậc, tầm nhìn và lương bổng của sếp thì cao hơn một chút. 6.Vấn đề đúng giờ Phương Tây: Đúng giờ là yếu tố rất được tôn trọng trong các cuộc hẹn ở phương Tây. Tính chính xác và đúng giờ đối với người phương Tây là cực kỳ quan trọng. Người ta không cần thiết phải đến sớm để thể hiện sự tôn trọng nhưng họ sẽ không đến muộn, vì họ quan niệm đó là hành động bất lịch sự.Việt Nam: Chúng ta có thể xê dịch giờ hẹn đôi chút và đôi khi điều đó không trở thành vấn đề lớn. Vì thế mà ở Việt Nam mới có danh từ “giờ cao su”. Ví dụ ở Mỹ khi bạn mua vé xem phim, vé kịch hoặc các hoạt động giải trí có giờ giấc quy định cụ thể như các tour tham quan … bạn phải đến sớm 5 phút hoặc đến đúng giờ. Nếu bạn đến trễ thì sẽ gây khó chịu cho những người xung quanh. Và đặc biệt, nhân viên gác cửa hoặc nhân viên phục vụ có quyền từ chối phục vụ hoặc không cho bạn vào. 7.Văn hóa xếp hàng Phương Tây: Chờ tính tiền ở siêu thị, vào rạp chiếu phim, cơ quan hành chính, các văn phòng của trường đại học, kể cả ra chợ trời... chỗ nào họ cũng xếp hàng, xếp hàng dài trên đường phố, xếp hàng khi lấy thức ăn ... Chỉ hai người cũng xếp hàng và không chen lấn, xô đẩy. 8.Văn hóa xin lỗi Phương Tây: Ở phương Tây thì việc nói “xin lỗi” là chuyện hết sức bình thường. Chẳng hạn khi họ vừa bước vào cửa một nhà hàng nào đó hay là trên xe buýt, vô tình chạm phải một người khác thì chưa cần biết lỗi thuộc về ai, có khi cả hai người đều cùng lên tiếng xin lỗi. Họ quan niệm xin lỗi là hành vi nhận lỗi về bản thân mình để tiến tới hòa giải, vui vẻ và không chạm tự ái người ta. Tại Mỹ, nhiều chính trị gia phạm lỗi gì đó, cứ biện minh mãi, cuối cùng phải xin lỗi, khi đó mới được dân chúng bỏ qua. Xin lỗi là hành vi can đảm. 9.Văn hóa cảm ơn Phương Tây: “Cám ơn” là câu nói rất phổ thông của xã hội Phương Tây. Khi vợ tặng chồng một món quà, chồng nói cám ơn. Khi con cái biếu quà cha mẹ, cha mẹ nói cám ơn. Vào nhà hàng, bồi bàn đưa đồ ăn ra, khách nói cám ơn. Vào siêu thị mua hàng, khách trả tiền xong, người tính tiền nói cám ơn. Lên thang máy hay trên xe buýt, khi người này đứng nhích qua 1 bên cho người kia đứng, người kia nói cám ơn. Họ quan niệm rằng chỗ nào, lúc nào cũng cần lời nói “cám ơn” để thể hiện sự hài hòa và vui vẻ. 10.Văn hóa đổ lỗi Phương Tây: Tinh thần trách nhiệm của họ rất cao. Khi họ lãnh đạo một đất nước, cộng đồng, cơ quan, đoàn thể…thành công thì họ hưởng, thất bại họ phải chịu trách nhiệm chứ không thể đổ lỗi cho ai hết. 11. Cách thể hiện cảm xúc của người phương Tây và người Việt Nam cũng khác nhau. Người phương Tây: vui buồn đều thể hiện khá rõ ràng. 12.Cách ứng xử nơi công cộng Phương Tây: Người phương Tây rất ngại gây ồn ào, nói chuyện quá to ở những nơi công cộng như nhà hàng, khách sạn, tiệm cà phê, cửa hàng, siêu thị… nhất là ở những nơi tham quan mang tính trang nghiêm như bảo tàng, nhà lưu niệm, đài tưởng niệm… Vì thế ở nhà hàng, quán ăn thì họ thường ăn nhẹ nói khẽ, nói sao chỉ đủ để những người đối diện nghe thấy mà thôi. Ngay cả trong việc gọi nhân viên phục vụ cũng được thể hiện bằng ánh mắt hay động tác tay một cách rất khéo léo và tinh tế. Tiệc tùng: Tại những bữa tiệc trang trọng, người phương Tây thích đứng thành nhóm nhỏ, rủ rỉ trò chuyện. Người Việt mình thì thích ngồi thành những nhóm lớn, trò chuyện ồn ào, và đó được coi là biểu hiện của sự hào hứng, vui vẻ. Vì thế mà ở Việt Nam tiệc nào càng ồn có nghĩa là tiệc đó tổ chức thành công. 13.Vai trò vợ chồng trong gia đình Ở Phương Tây sự bình đẳng thể hiện khá rõ nét. Người chồng và người vợ đều có trách nhiệm đối với gia đình như nhau. Đàn ông thường san sẻ với phụ nữ công việc nhà và việc nuôi dạy con cái. Ở Mỹ thì dù có là tổng thống, quan chức cấp cao hay là ai đi chăng nữa, thì khi về nhà họ vẫn vào bếp và chia sẻ công việc nhà với vợ. 14.Trẻ em trong gia đình Phương Tây: Trẻ em không được cả gia đình chăm lo, ưu ái như trẻ em ở Việt Nam. Trẻ em phương Tây có vị trí ngang bằng như những thành viên khác trong gia đình, có quyền lợi và nghĩa vụ riêng. Trẻ em ở phương Tây thường được dạy cách tự lập từ khi còn rất nhỏ, được khuyến khích đi làm thêm ngay trong lúc còn đi học để có tiền tiêu xài riêng. Khi trẻ em tới tuổi trưởng thành, cha mẹ hết trách nhiệm. Ở Mỹ thì trẻ em đến 16 tuổi là gia đình cho ra ở riêng, cho một số tiền nhất định, rồi muốn làm gì thì làm, muốn sống sao thì sống, phải tự bươn trải chứ không được dựa dẫm vào gia đình. 15.Cuộc sống của người già Phương Tây: Dạo chơi công viên ở phương Tây, bạn sẽ bắt gặp hình ảnh các cụ già dắt thú cưng đi dạo. Người Việt thường có truyền thống uống nước nhớ nguồn, nên thường cúng giỗ ông bà, cha mẹ để nhớ lại cội nguồn, và cũng là để anh chị em trong họ hàng có dịp quây quần, ôn lại những kỷ niệm xưa cũ rất thân thương đã qua. Đối với người Việt Nam, gia đình mà thiếu thốn, nghèo quá mà không làm giỗ cha mẹ mình, ngày 30 Tết không nhang khói rước ông bà về là nỗi bất hạnh lớn. Thờ cúng tổ tiên là văn hóa truyền thống rất đáng trân trọng của Việt Nam. 16.Các bữa ăn trong ngày Phương Tây: thường ăn sáng vội vàng, ăn tối qua loa, thường ăn đồ ăn nhanh, vì thế nên bữa trưa- bữa ăn thư thái nhất trong ngày, họ có thể mời bạn bè ra tiệm dùng bữa. Vì thế mà ở Việt Nam “bữa cơm gia đình” là rất quan trọng. Đó là dịp để các thành viên trong gia đình có thể quây quần bên nhau sau khi trở về nhà từ cơ quan, nơi làm việc hay trường học. Đó thật sự là những giây phút rất là ấm cúng. 17.Ẩm thực sành điệu (hình ảnh 14)Người phương Tây sành điệu sẽ tìm tới các món ăn Châu Á (món ăn Nhật, Trung Hoa hay Việt Nam..) 18.Đường phố ngày cuối tuần (hình ảnh 15) Những ngày cuối tuần, đường phố phương Tây thường vắng vẻ, họ không đổ ra đường mà thường có hai lựa chọn: một là ở nhà ngủ bù cho cả tuần lao động vất vả, hai là về miền quê vui chơi, hít thở không khí trong lành. Ở phương Đông, đặc biệt tại các thành phố lớn, người dân thường đổ ra đường, tới các khu vui chơi và trung tâm mua sắm để giải trí. 19.Phương tiện di chuyển Trước đây, khi người phương Tây coi ô tô là phương tiện di chuyển hiệu quả nhất, người phương Đông còn đi xe đạp. Giờ đây, người phương Tây lại coi xe đạp là phương tiện di chuyển “lành mạnh” nhất vì nó vừa giúp rèn luyện sức khỏe và vừa có thể bảo vệ môi trường, trong khi đó, người phương Đông đã chuyển sang đi ô tô (nếu có điều kiện) 20. Tắm táp Người phương Tây thích tắm sáng rồi mới đi làm để bắt đầu 1 ngày mới với tinh thần sảng khoái. Người phương Đông thì thích tắm tối trước khi đi ngủ để gột rửa những vết bẩn và những muộn phiền trong ngày sau khi đi làm về. 20.Vẻ đẹp lý tưởng Người phương Tây thích da nâu. 21.Đông Tây trong mắt nhau Trong mắt người phương Tây, người phương Đông đặc trưng với nón lá, thích uống trà và ăn cơm. Trong khi đó người phương Đông ấn tượng với người phương Tây bởi mũ nồi cao, xúc xích và bia. Kết luận: Mỗi đất nước có nền văn hóa khác nhau nên sẽ có sự khác biệt trong thói quen, phong tục tập quán, cách tư duy,vv... Một nền văn hóa có thể thích hợp với nước này, nhưng không có gì đảm bảo rằng nó sẽ thích hợp với nước khác. Bản thân mình nghĩ chúng ta nên gìn giữ những truyền thống tốt đẹp và đáng trân trọng từ ngàn đời xưa của ông cha ta, của những thế hệ đi trước. Nhưng… những gì chưa tốt, những gì cần thay đổi, thì chúng ta nên thay đổi chứ không nên bảo thủ. Và thay đổi ở đây là thay đổi theo chiều hướng tích cực và có chọn lọc. Hơn nữa chúng ta đã và vẫn đang hướng đến sự hội nhập với thế giới, nên cái sự cập nhật và thay đổi là điều hết sức cần thiết. *Trong bài viết có sử dụng một số hình ảnh trong bộ ảnh đồ họa có tên “East Meets West” (Đông Tây gặp gỡ) của nữ nghệ sĩ trẻ Yang Liu- người sinh ra và lớn lên tại Trung Quốc nhưng đã có thời gian sinh sống và học tập tại Đức. Nguyễn Hải Trường Sự khác biệt giữa văn hóa đông tây
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.67 KB, 7 trang ) SỰ KHÁC BIỆT GIỮA VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ Văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh của xã hội loài người. Ở phương Đông, từ văn hoá đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và từ hoá: Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hoá thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hoá thành thiên hạ). Người sử dụng từ văn hoá sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 77-6 TCN), thời Tây Hán với nghĩa như một phương thức giáo hoá con người- văn trị giáo hoá. Văn hoá ở đây được dùng đối lập với vũ lực (phàm dấy việc võ là vì không phục tùng, dùng văn hoá mà không sửa đổi, sau đó mới thêm chém giết). Ở phương Tây, để chỉ đối tượng mà chúng ta nghiên cứu, người Pháp, người Nga có từ kuitura. Những chữ này lại có chung gốc Latinh là chữ cultus animi là trồng trọt tinh thần. Vậy chữ cultus là văn hoá với hai khía cạnh: trồng trọt, thính ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và giáo dục đào tạo cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên, và họ có những phẩm chất tốt đẹp. Tuy vậy, việc xác định và sử dụng khái niệm văn hoá không đơn giản và thay đổi theo thời gian thuật ngữ văn hoá với nghĩa “canh tác tinh thần” được sử dụng vào thế kỉ XVII- XVIII bên cạnh nghĩa gốc là quản lí, canh tác nông nghiệp. Vào thế kỉ XIX thuật ngữ “văn hoá” được những nhà nhân loại học phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hoá (văn minh) thế giới có thể phân ra từ trình độ thấp nhất đến trình độ cao nhất, và văn hoá của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hoá hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B Taylo (E.B. Taylor) là đại diện của họ. Theo ông, văn hoá là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội. Ở thế kỉ XX, khái niệm “văn hoá” thay đổi theo F. Boa (F. Boas), ý nghĩa văn hoá được quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao siêu như “trí lực”, vì thế sự khác nhau về mặt văn hoá từng dân tộc cũng không phải theo tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là “tương đối luận của văn hoá”. Văn hoá không xét ở mức độ thấp cao mà ở góc độ khác biệt. A. L. Kroibơ (A.L. Kroeber) và C.L. Klúchôn (C. L. Kluckhohn) quan niệm văn hoá là loại hành vi rõ ràng và ám thị đã được đúc kết và truyền lại bằng biểu tượng, và nó hình thành quả độc đáo của nhân loại khác với các loại hình khác, trong đó bao gồm cả đồ tạo tác do con người làm ra. Cũng như các dân tộc ở phương Đông, trong quá khứ, người Việt tỏ ra thiếu khát vọng tìm kiếm cái mới, không thích lập kỷ lục... Họ không có hứng thú lặn xuống biển sâu, bay vào vũ trụ, không tự hỏi “hai vạn dặm dưới đáy biển” có gì. Họ không có hành động để chứng tỏ con người bình đẳng với tự nhiên, bởi chưa bao giờ trong ý thức xuất hiện ý niệm về điều đó. Họ dễ bằng lòng với “cái đã có”, họ thường đánh giá các quan hệ, đánh giá sự vật - hiện tượng theo những tiêu chí do thế hệ trước trao truyền lại. Không quan tâm trả lời câu hỏi tại sao trước thế giới tức là chưa có các tiền đề đầu tiên cho phát triển của khoa học, đó là căn nguyên lý giải tại sao phương Đông đi trước nhưng nhanh chóng tụt hậu so với phương Tây? Nếu thừa nhận với văn hóa, chỉ có sự khác nhau và không có sự hơn kém, thì cần khẳng định văn hoá phương Đông, trong đó có văn hóa Việt Nam, là một hệ thống khá hoàn chỉnh đã hình thành từ hàng nghìn năm trước và có sự khác nhau nhất định nếu so sánh với văn hóa phương Tây. Sự khác nhau này thể hiện trước hết ở hệ thống các quan niệm về thế giới, quan niệm về sự tồn tại của con người và ở các quan niệm, các quy ước văn hóa, các tiêu chí định danh và định tính sự vật hiện tượng... Bữa ăn gia đình của người Việt chủ yếu lấy cộng đồng làm đơn vị cơ bản, họ ăn cùng mâm, gắp cùng đĩa, và chấm cùng bát... Đặt sang một bên việc bữa ăn cộng đồng cho phép mọi người có thể nhường nhịn lúc đói kém, thì tới hôm nay, dù đời sống vật chất được cải thiện hơn trước thì người Việt vẫn khó thích nghi với kiểu ăn mỗi người một đĩa. Lối ăn theo định xuất chỉ được chấp nhận trong công việc “ca, kíp”, hoặc bữa trưa của viên chức. Còn về cơ bản trong một ngày, gia đình vẫn quần tụ quanh mâm cơm như là hành động biểu thị cho giá trị gia đình. Bữa ăn cuối ngày (bữa chiều) của đa số gia đình Việt Nam (kể cả ở đô thị) hiện tại, trở thành một “cuộc họp”. Ở đó, mọi người không chỉ ăn mà còn hỏi han, bàn soạn công việc, nhắc nhở việc học hành... Ngược lại, người phương Tây lại lấy cá nhân làm đơn vị cơ bản trong bữa ăn gia đình, mỗi người một đĩa, mỗi người tự cắt, xẻ thức ăn và người ta dễ thích nghi với fastfood - thức ăn nhanh. Sự cố kết lấy cộng đồng làm đơn vị cơ bản thường tạo ra cho cá thể sức mạnh của số đông đứng sau, đứng cạnh và thường làm cho cá thể khó tách ra khỏi cộng đồng để tự sinh tồn. Vài thập kỷ gần đây, trước ảnh hưởng của một số vấn nạn có nguồn gốc từ văn minh công nghiệp tác động không lành mạnh tới sự phát triển của xã hội con người, đã xuất hiện một xu hướng là tìm về với các thành tựu của văn minh phương Đông. Điều này là cần thiết, chỉ tiếc rằng, trong khi say sưa với quá khứ phương Đông, một số tác giả lại đề cao nó đến mức cực đoan, hy hữu có trường hợp còn tỏ ra quyết liệt đến mức phủ nhận thành tựu của văn minh phương Tây. Chuyện không đơn giản như vậy, nếu thừa nhận một thế giới thống nhất thì cần thừa nhận việc xem xét phương Đông và phương Tây chỉ là xem xét hai mặtcủa một chỉnh thể. Không thể bằng tuổi lịch sử của một nền văn hóa để đánh giá nó mạnh hay yếu, quan trọng hơn là nền văn hóa ấy đã đạt những thành tựu và đóng góp gì cho văn hóa nhân loại. Với kiểu tư duy khác nhau khi tiếp cận thế giới, đẩy tới các kiểu quan niệm, các phương thức sinh tồn, các phong cách sống, các tập quán và thói quen... khác nhau. Vì thế, đến thời hiện đại, để tổng kết một (các) lĩnh vực hoạt động của một dân tộc, không thể không xem xét một (các) lĩnh vực ấy theo chiều lịch đại, tức là phải xem xét trong tính lịch sử. Mấy chục thế kỷ trước, văn hóa Hy Lạp ra đời. Điểm độc đáo của nền văn hóa này là ở chỗ nó phối kết và phát triển lên một trình độ cao những thành tựu về tổ chức xã hội, về toán học, thiên văn học, kỹ thuật chế tạo kim loại, canh tác nông nghiệp, văn tự Phénicie,... đã tiếp thu từ văn minh Lưỡng Hà, Ai Cập, Ba Tư... Kinh tế thương nghiệp, sự ra đời của các thành bang, ngay từ đầu đã làm cho văn hóa Hy Lạp - cái nôi của văn hóa phương Tây, đi theo khuynh hướng khác hẳn phương Đông. Thật ra, xét về nguồn gốc thì phương Đông hay phương Tây đều có điểm xuất phát từ kinh tế - văn hóa nông nghiệp dưới hai hình thức chủ yếu là chăn nuôi và trồng trọt. Tới khi kinh tế thương nghiệp xuất hiện ở hai vùng đất này thì cũng đồng thời xuất hiện những xu hướng phát triển khác nhau. Nguyên nhân: Sâu xa : sự khác biệt về điều kiện tự nhiên địa lí khí hậu, xã hội lịch sử kinh tế văn hóa. Môi trường sống của cộng đồng dân cư phương Đông và phương Tây có sự khác biệt rõ nét. Trong khi phương Đông sống trong môi trường sống là xứ nóng, sinh ra nhiều mưa ẩm tạo nên những con sông lớn với những vùng đồng bằng trù phú nên cái gốc hoạt động kinh tế chủ yếu là trồng trọt, buộc người dân phải sống định cư tạo nên VĂN HÓA kiểu nông nghiệp là có cuộc sống lâu dài, ổn định, và điều đó sẽ tạo nên lối sống cộng đồng đoàn kết, lối sống tập thể và tình cảm, trọng cộng đồng… còn phương Tây sống trong môi trường xứ lạnh, với khí hậu khô hình thành nên các vùng đồng cỏ chăn nuôi nên có nền kinh tế gốc là du mục, sống theo lối di cư nên mang tính chất “động”trọng tính chất cá nhân, sống khép kín hơn , trọng nguyên tắc pháp luật. Trực tiếp: Bên cạnh đó còn xuất phát từ sự khác biệt về ngôn ngữ, tín ngưỡng phong tục tạp quán …những yếu tố đó đã dẫn đến sự khác biệt trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên và XH, và một khi những yếu tố đó gặp nhau, sẽ dẫn đến sự mâu thuẫn, phủ định, nếu k dung hợp dc các yếu tố đó sẽ làm mâu thuẫn giữa nền VĂN HÓA phương Đông và phương Tây trở nên căng thẳng, tới một mức nhất định thì sẽ xảy ra xung đột. Thực tế, các nền VĂN HÓA thường tồn tại những nguyên tắc, chuẩn mực nhất định, những nguyên tắc đó có thể là hữu ích đối với một thực thể VĂN HÓA nào đó, song có thể là có hại. Do vậy những nền VĂN HÓA sẽ có xu hướng chống lại các yếu tố VĂN HÓA trái ngược gây ra các mâu thuẫn, đặc biệt là mâu thuẫn sắc tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước có phần lớn có sự đa dạng và chủng tộc, VĂN HÓA. Một nguyên nhân khác không kém quan trọng là thái độ bá quyền VĂN HÓA của những nước lớn, góp phần “khác biệt” VĂN HÓA trở thành “xung đột”. Chủ nghĩa bá quyền VĂN HÓA luôn cho rằng VĂN HÓA của mình là có giá trị phổ biến, do đó đổi xử bất bình đẳng với VĂN HÓA của các quốc gia và các dân tộc khác. Chính điều đó đã dẫn đến phản ứng của những nền VĂN HÓA khác và làm nảy sinh các xung đột VĂN HÓA Hậu quả : xung đột văn hóa Trong VĂN HÓA xung đột được hiểu là sự mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau giữa các giá trị VĂN HÓA khác nhau , như : tín ngưỡng, phong tục, tạp quán, lối sống, lao động. Xung đột VĂN HÓA có nhiều hình thức biển hiện, song bản chất của nó là sự va đập gây gắt giữa các quan niệm khác nhau về giá trị một khi không đượcgiải quyết thì dẫn đến xung đột… Vậy xung đột VĂN HÓA giữa phương Đông và phương Tây chính là sự mâu thuẫn giữa các giá trị hoặc yếu tố như phong tục tạp quán , lối sống, tín ngưỡng … giữa phương Đông và phương Tây được đẩy đến mức cao trào và biểu hiện ra bên ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau. 3. Kết luận : Văn hóa phương Đông – Tây có sự khác biệt nhau rõ rệt và điều này ảnh hưởng khá lớn đến hành vi con người trong tổ chức. Phân tích sự khác nhau giữa văn hóa Đông – Tây để giúp nhà quản trị có thể hiểu được sự khác biệt trong hệ thống chuẩn mực, hệ thống giá trị các nhân, cũng như sự khác nhau trong hành vi, lối sống … Để họ có thể đưa ra những cách thức, chiến lược phù hợp để dung hòa, nhưng vẫn không làm mất đi bản chất riêng của mỗi nền văn hóa. Từ đó, tạo sự ổn định nội bộ, phát triển có lợi cho cá nhân và tổ chức. 1. Bảng phân công nhiệm vụ và tự đánh giá điểm theo nhóm: STT Họ và tên 1 Dương Thị Ngọc Ánh (NT) 2 Ngô Vương Trung Trực 3 Nguyễn Minh Ngọc 4 Nguyễn Thị Ánh Hồng 5 Nguyễn Thị Thanh Ngân 6 Nguyễn Thị Thu Liễu 7 Nguyễn Thị Thùy Trang 8 Trần Tấn Tài Mã số SV Nội dung phân công Thời gian thực Kết quả thực hiện hiện Điểm THANG ĐiỂM 10 17072241 Phần kết luận 7 ngày Hoàn thành tốt 9 17027141 Phần nội dung 7 ngày Hoàn thành tốt 9 17009561 Hùng biện 7 ngày Hoàn thành tốt 9 17016761 Phần nội dung 7 ngày Hoàn thành tốt 9 17012401 Phần nội dung 7 ngày Hoàn thành tốt 9 17077301 Hùng biện 7 ngày Hoàn thành tốt 9 17012871 Phần nội dung 7 ngày Hoàn thành tốt 9 17013851 Phần mở bài 7 ngày Hoàn thành tốt 9 Top 8 Sự khác nhau giữa văn hóa giao tiếp, ứng xử của người Việt với người Mỹ09-06-2021 8 4443 11 0 |