Phản biệt giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt

Tìm hiểu giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ nhặt

Nêu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của Vợ nhặt - Vợ nhặt là một truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn Kim Lân. Thông qua tác phẩm người đọc đã cảm nhận được bức tranh ảm đạm về cuộc sống khổ cực của người dân nghèo trong nạn đói năm 1945. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ giá trị hiện thực và nhân đạo của Vợ nhặt để bạn đọc hiểu rõ hơn về thông điệp nhân văn tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm.

  • 18 mẫu tóm tắt Vợ nhặt ngắn gọn và đầy đủ

1. Giá trị hiện thực của tác phẩm Vợ nhặt

Truyện ngắn “ Vợ nhặt” đã phản ánh chân thực và cảm động tình cảnh khốn cùng của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945.

Tố cáo tội ác của bọn thực dân phong kiến đã đẩy nhân dân ta vào bước đường cùng.

Con đường đi đến với cách mạng là con đường tất yếu của người dân lao động nghèo.

2. Giá trị nhân đạo của Vợ nhặt

Niềm cảm thương sâu sắc của nhà văn trước số phận của những người nghèo khổ.

Là tiếng nói khẳng định, đề cao những tình cảm cao đẹp của người lao động nghèo khổ : đó là tình yêu thương đùm bọc, tình mẫu tử, khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc.

Thể hiện niềm tin, niềm hi vọng vào cuộc sống vào tương lai dù ở trong tình cảnh khốn khó nhất.

3. Phân tích giá trị nhân đạo và hiện thực của Vợ nhặt

Vợ nhặt được rút ra từ tập Con chó xấu xí, xuất bản năm 1945. Đây là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông, đồng thời cũng là một những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người nông dân và thể hiện đầy đủ quan điểm sáng tác của tác giả. Tác phẩm thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo.

Trước hết giá trị hiện thực của tác phẩm được thể hiện trong việc Kim Lân đã tái hiện thành công nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm 1945 phần lớn người dân đã bị đẩy tới cái chết. Kim Lân đã tập trung tất cả bút lực của mình để tạo dựng bối cảnh, không khí nạn đói ấy. Trong văn ông cái đói, cái chết đã hiện hình, nổi cộm sắc nét tạo nên những ám ảnh ghê rợn. Ấn tượng về cái đói cái chết đã được Kim Lân tạo dựng từ nhiều yếu tố, nhưng ấn tượng nhất là thị giác, khứu giác và thính giác. Ở thị giác, ông đã hai lần sử dụng hình ảnh đầy sức ám ảnh: bên cạnh những người chết như ngả rạ, là những người còn sống vật vờ như những bóng ma. Ở đây cái đói đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực, giữa sự sống và cái chết là ranh giới vô cùng mong manh. Nạn đói đã vắt kiệt toàn bộ sự sống của con người để hiện hình thành những bóng ma dật dờ. Ở khứu giác, cái đói cái chết trong văn Kim Lân không chỉ nhìn thấy mà còn có thể ngửi thấy đó là mù gây của xác người và mùi khét lẹt của các nhà đốt đống dấm. Còn thính giác cũng là những ấn tượng ghê rợn. Âm thanh của những đàn quạ liên thanh cất lên, là tiếng hờn khóc tỉ tê của những gia đình có người chết.

Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị hiện thực còn được thể hiện trong thân phận rẻ rúng của những người nông dân nghèo. Người đàn bà chết đói, người gầy sọp đi, hai mắt trũng sâu vào, vì cái đói, vì miếng ăn đã đồng ý lấy Tràng một cách nhanh chóng. Chính cái đói đã khiến người đàn bà ấy mất đi danh dự, sự e thẹn vốn có của một người con gái, mà trở thành một kẻ chỏng lỏn, vì miếng ăn sẵn sàng đánh mất lòng tự trọng của mình. Chỉ với vài bát bánh đúc và một lời nói vu vơ, thị đã chạy đến híp mắt cười tình, đánh mất đi sự e lệ, kín đáo và chấp nhận về làm vợ của Tràng khi không hề biết đến tính cách, con người của Tràng ra sao. Trong hoàn cảnh bị cái đói, cái chết dồn đuổi, thị sẵn sàng bám víu vào bất cứ thứ gì đảm bảo sự sống cho thị. Những chi tiết mà Kim Lân miêu tả đã cho thấy, người vợ nhặt là một người nông dân khốn khổ, bị đẩy đến bước đường cùng nên nhân cách và lòng tự trọng đã bị tha hóa.

Đám cưới với mỗi người là một nghi thức quan trọng nhất trong cuộc đời, nhưng đám cưới của Tràng và người vợ nhặt lại diễn ra hết sức sơ sài, sơ sài đến mức đáng thương. Bữa cơm đầu tiên của nàng dâu mới là nồi cháo cám đắng ngắt mà mọi người ngồi ăn không ai nói với nhau một câu.

Nhưng bên cạnh những mảng màu xám ngắt của hiện thực, ta còn thấy tác phẩm ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Trong tăm tối, khi cái đói đeo đuổi tất cả mọi người, tưởng chừng như người ta chỉ quan tâm đến sự sống chết của mình, thì người nông dân Việt Nam vẫn sẵn sàng dang tay cứu vớt những con người có số phận bất hạnh hơn mình. Nó thể hiện rất rõ truyền thống yêu thương đùm bọc “lá lành đùm lá rách” của nhân dân ta.

Tấm lòng nhân đạo của nhà văn trước hết thể hiện trong sự bao dung, tình yêu thương mẹ con Tràng dành cho người vợ nhặt. Tràng mặc dù có ngoại hình xấu xí nhưng lại có tấm lòng nhân hậu, yêu thương con người. Dù chỉ làm công việc tạm thời, không có ruộng đất nhưng Tràng sẵn sàng mua đồ ăn cho người đàn bà không quen biết. Tràng thương cảm cho người đàn bà khi nhìn thấy hình dáng tiều tụy hẳn đi của thị. Và nhất là Tràng còn đồng ý đem người đàn bà ấy về nhà làm vợ của mình, dù trong Tràng lúc ấy cũng thoáng chút lo âu. Việc lấy vợ của Tràng không phải là một chuyện ngẫu nhiên mà đó là cả một mạch vận động hợp lí. Lần đầu gặp gỡ, Tràng lần đầu tiên nhận được sự quan tâm, đó là cái híp mắt cười tình của một người con gái. Đến lần thứ hai, Tràng xót xa khi người đàn bà phốp pháp lần trước đã biến mất, thay vào dó là một kẻ quần áo rách như tổ đả, gầy hẳn đi. Sự thay đổi bất ngờ nhanh chóng ấy đã dấy lên trong Tràng lòng thương cảm, với bản chất lương thiện và sự đồng cảm của những người đồng cảnh ngộ, Tràng đã nhanh chóng quyết định đưa người phụ nữ đó về nhà để làm vợ của mình. Quyết định nhanh chóng, bất ngờ đó vừa thể hiện khát khao hạnh phúc của Tràng, vừa là sự cứu mang, nghĩa cử cao đẹp mà Tràng dành cho người phụ nữ khốn khổ, bất hạnh hơn mình.

Lấy vợ là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tràng, bằng những cử chỉ hết sức đơn giản, nhưng cũng đủ cho thấy sự trân trọng của Tràng với người vợ nhặt. Anh cho chị ăn một bữa thật no, mua một cái thúng con và mua ít dầu về đốt cho sáng. Hành động mua hai hào dầu đó còn như thắp lên một tương lai, hi vọng mới cho hai vợ chồng. Đặc biệt, sáng hôm sau khi lấy vợ, Tràng đã có những sự thay đổi hoàn toàn. Tràng thấy trong người lửng lơ, một niềm vui khó tả, khi lần đầu tiên được sống và cảm nhận niềm hạnh phúc gia đình. Và niềm hạnh phúc đó đã dẫn đến những biến chuyển trong nhận thức của Tràng, Tràng dấy lên tinh thần trách nhiệm với gia đình. Ý thức được vai trò trụ cột của mình, cùng tham gia với vợ và mẹ để xây dựng cuộc sống mới.

Còn với bà mẹ của Tràng, có con dâu trong hoàn cảnh éo le này làm bà vô cùng ngỡ ngàng, nhưng sau giây phút bất ngờ, bà đã hiểu ra mọi chuyện. Bằng tình yêu thương với người con trai, sự cảm thông với người vợ nhặt bất hạnh, bà hiểu rằng người ta chỉ dựng vợ gả chồng khi ăn nên làm ra, chứ không ai lấy vợ trong cái đói. Nhưng cùng với tình yêu thương con bà còn tự trách mình, thân phận làm mẹ nhưng lại không lo nổi hạnh phúc cho con. Thương con, lo lắng cho con bao nhiêu bà lại càng ngậm ngùi, xót xa cho thân phận người đàn bà kia bấy nhiêu. Bà không nhìn người con dâu mới bằng ánh mắt cay nghiệt, phán xét mà là cái nhìn đầy cảm thông, bao dung: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy, bà cụ không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử cao cả thiêng liêng mà còn là hiện thân của tình người ấm áp, bao dung, bà đã đưa bàn tay yêu thương để nâng đỡ bao bọc cho những thân phận khốn khổ dù cuộc sống của mình còn muôn vàn khó khăn.

Không dừng lại ở đó, giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được nhìn nhận từ góc của người vợ nhặt. Người phụ nữ này bị cái đói dồn đuổi đến bước đường cùng, nhưng với lòng ham sống, cô đã cố bám víu đến cùng, cho dù phải biến thành thân phận vợ nhặt. Khát khao được sống đó cho thấy một trái tim khỏe mạnh, một nghị lực sống kiên cườing và bền bỉ ở người phụ nữ này. Như vậy, qua ba nhân vật Tràng, bà mẹ và cô vợ nhặt Kim Lân đã một lần nữa khẳng định lối sống nhân ái, giàu tình cảm và lòng vị tha của nhân dân ta. Không chỉ vậy, trong họ còn tồn tại sức sống mãnh liệt, sẵn sàng vượt qua mọi đói khổ, khó khăn.

Cuối cùng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở cuối bài với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong sự tiếc rẻ của nhân vật Tràng. Chắc chắn với tinh thần lành mạnh, lòng yêu cuộc sống Tràng và vợ sẽ tham gia hoạt động cách mạng. Hình ảnh lá cờ đó như một gợi mở về tươi lai tương sáng đang đón đợi họ ở phía trước.

Bằng nghệ thuật miêu tả bậc thầy, Kim Lân đã vẽ ra bức tranh hiện thực tàn khốc về nạn đói năm 1945, khi mạng người bị rẻ rúng đến cùng cực. Nhưng đằng sau bức tranh hiện thực đen tối ấy là ánh sáng của lòng nhân đạo, tình yêu thương, sự bao bọc, chở che lẫn nhau giữa những con người khốn khổ. Sự hòa quyện giữa hai giá trị hiện thực và nhân đạo đã tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn học 

A. Giá trị hiện thực.

I. Khái niệm về giá trị hiện thực.

Giá trị hiện thực của tác phẩm văn học là hàng loạt hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác phẩm văn học, tùy vào ý đồ phát minh sáng tạo mà hiện thực đó hoàn toàn có thể giống hệt với thực tại đời sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết hiện thực trong những tác phẩm văn chương đều là hiện thực được hư cấu. Nó có ý nghĩa phản ánh hiện thực của một thời kỳ trên nhiều phương diện khác nhau hơn là những hiện thực đơn cử .

Nói đến giá trị hiện thực trong một tác phẩm văn học người ta thường đề cập 3 nét chính:

+ Phản ánh trung thực đời sống xã hội lịch sử. + Khắc họa trung thực đời sống và nội tâm của con người.

+ Giá trị hiện thực có sức mạnh tố cáo [hay ca ngợi] xã hội, chế độ.

II. Biểu hiện của giá trị hiện thực trong văn học

1. Phản ảnh và phê phán hiện thực:

* Trong bộ phận văn học chữ Hán:

– Trong những tác phẩm văn xuôi viết theo thể kí, bộ mặt của xã hội, giai cấp thống trị được dựng lên khá đậm nét:

+ “ Hoàng Lê nhất thống chí ” là bức tranh sinh động về cảnh thối nát của triều đình phong kiến lúc bấy giờ. Vua thì ngồi làm vì, chúa Trịnh nắm quyền hành thì hôn mê, mù quáng, gây ra bè đảng trong phủ, quan lại bất tài, thời cơ, tùy thời, sẵn sàng chuẩn bị làm bất kể việc gì để trục lợi . + “ Thượng kinh kí sự ” của Lê Hữu Trác ghi lại tâm trạng của một con người cực kỳ bất mãn so với xã hội đương thời, cảm thấy mình “ chẳng khác gì một người tù ”. Dưới ngòi bút tinh xảo, tinh tế của tác giả, hình ảnh phủ chúa Trịnh hiện lên kín kẽ và rõ nét với những hoàng cung sang chảnh, cầu kỳ, với những con người từ chúa Trịnh Sâm, ông quan đầu triều Hoàng Đình Bảo, đến đám công khanh, quan lại, toàn bộ đều có cái gì như không có ý nghĩa, bệnh tật . + Trong “ Vũ trung tùy bút ”, Phạm Đình Hổ tả lại những lần ngự chơi cực kỳ xa hoa của Trịnh Sâm ở cung Thụy Liên trên bờ hồ Tây .

+ Nguyễn Án thì kể về những khoản xa xỉ của chúa Trịnh trong những dịp tết Trung thu cùng với hình ảnh vùng Thành Phố Hải Dương những năm giữa thế kỉ XVIII, cuộc chiến tranh liên miên, không cày cấy được, những người dân sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột đồng mà ăn trong “ Tang thương ngẫu lục ” .

– Trong thơ chữ Hán, nhiều nhà thơ như Cao Bá Quát, Phạm Nguyễn Du đã ghi lại những bức tranh sinh động về cuộc sống đói khổ của nhân dân. Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du thường xuất hiện những bức tranh đối lập: một bên là cuộc sống đói khổ của nhân dân và một bên là cuộc sống xa hoa của giai cấp thống trị [Thái Bình mại ca giả].

* Trong bộ phận văn học chữ Nôm.

– Chinh phụ ngâm tố cái chiến tranh phong kiến làm tan vỡ hạnh phúc, tình yêu của tuổi trẻ. Cung oán ngâm khúc tố cáo chế độ cung tần vô nhân đạo làm cho cuộc đời bao cô gái tài sắc héo hắt, tàn lụi trong cung vua, phủ chúa.

– Thơ Hồ Xuân Hương có khuynh hướng đi vào những nỗi đau đời thường nhưng không kém phần bi kịch của người phụ nữ bình dân và tố cáo toàn bộ nền đạo đức phong kiến đối với người phụ nữ.

“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”

– Truyện Kiều của Nguyễn Du đã tố cáo thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người thông qua cuộc đời nhân vật chính.

* Tóm lại: các tác giả đã đứng trên lập trường nhân sinh để tố cáo những gì phản nhân sinh, phản tiến hóa vì thế hiện thực tố cáo được mở rộng và nội dung tố cáo sâu sắc hơn.

2. Đề cao con người và cuộc sống trần tục:

* Đề cao con người:

– Phát triển trong toàn cảnh lịch sử dân tộc mà chính sách phong kiến bước vào thời kì khủng hoảng cục bộ, ý thức hệ phong kiến bị sụp đổ, văn học quá trình này có một đặc trưng mang tính lịch sử vẻ vang là tò mò ra con người, khẳng định chắc chắn những giá trị chân chính của con người, phản ánh những khát vọng giải phóng của con người . – Khám phá ra con người, văn học tiến trình này đã lấy người phụ nữ làm đối tượng người tiêu dùng phản ánh đa phần. Người phụ nữ hiện lên với số phận mang đặc thù thảm kịch và cũng rất tiêu biểu vượt trội cho những phẩm chất, những giá trị xinh xắn của con người : tài sắc, thủy chung, hiếu thảo, giàu ý thức và khát vọng sống niềm hạnh phúc . – Bên cạnh hình tượng người phụ nữ, văn học quá trình này còn tập trung chuyên sâu vào hình tượng anh hùng. Nếu ở những quá trình trước hình tượng anh hùng trong văn học là người anh hùng dân tộc bản địa thì đến quá trình này đã Open người anh hùng kiểu Từ Hải – hình tượng của khát vọng tự do và công lí . – Hàng loạt tác phẩm như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương, Sơ kính tân trang, Truyện Kiều rồi nhiều truyện thơ Nôm khác đều phản ảnh những khát vọng của con người : Khát vọng niềm hạnh phúc lứa đôi, khát vọng công lí, khát vọng tư do, Chống lại những chủ trương khắc kỷ của Nho giáo, diệt dục của Phật giáo, những ý niệm phủ định quyền sống của con người, chống lại những thế lực tàn khốc như cường quyền, đồng xu tiền chà đạp lên quyền sống của con người .

– Không phải đến quy trình tiến độ này con người mới trở thành đối tượng người tiêu dùng của văn học, nhưng phải đến tiến trình này con người với tổng thể sự đa dạng và phong phú của nó mới trở thành đối tượng người dùng đa phần, số 1 trong nhận thức của văn học .

* Đề cao cuộc sống trần tục:

– Nhiều tác thẩm đã đi sâu bộc lộ khát vọng được sống toàn vẹn cuộc sống trần gian của con người mà Chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều là những tác phẩm tiêu biểu vượt trội. Người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm đã lên tiếng đòi được sống niềm hạnh phúc ngay trên cuộc sống thế tục này chứ không phải ở kiếp sau nào :

“Đành muôn kiếp chữ tình là vậy
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau”.

B. Giá trị nhân đạo.

I. Khái niệm giá trị nhân đạo.

– Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính được tạo nên bởi niềm cảm thông thâm thúy của nhà văn với nỗi đau của những con người, những cảnh đời xấu số trong đời sống. Đồng thời, nhà văn còn biểu lộ sự nâng niu, trân trọng với những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin năng lực vươn dậy của con người dù trong bất kể thực trạng nào của cuộc sống .

– Nói đến giá trị nhân đạo trong một tác phẩm văn học người ta thường đề cập 4 nét chính:

+ Tố cáo xã hội: đây chính là cái hoàn cảnh chung mà ở đó nhân vật bị đẩy vào các hoàn cảnh bi đát, đau khổ. Thông thường ở phương diện tố cáo, các nhà văn thường thể hiện quan điểm lên án, phê phán v tầng lớp thống trị, những kẻ chà đạp cuộc sống con người và làm băng hoại các giá trị đạo lý.

+ Ca ngợi: có thể ca ngợi một truyền thống tốt đẹp nào đó hoặc ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của một con người hoặc một lớp người trong xã hội. Đây chính là những vẻ đẹp bị lấp vùi bởi sự thống trị, đàn áp.

+ Thương cảm, bênh vực: xuất phát từ việc phát hiện, khám phá được những nét đẹp tiềm tàng của nhân vật, hoặc nhận thức được hoàn cảnh đã đẩy những người tốt đẹp, lương thiện vào đường cùng, hoặc đẩy họ vào con đường tội lỗi nên các nhà văn bày tỏ niềm thương cảm với họ, tạo ra những tình huống, hoặc xây dựng những nhân vật phụ để làm chỗ dựa, bênh vực, che chở cho họ, giúp họ vượt qua những khó khăn, thách thức và vươn lên khẳng định bản thân, khẳng định niềm tin, ước mơ và khát vọng trong cuộc sống.

+ Chỉ ra con đường, lối thoát cho nhân vật: Đặc điểm này không hoàn toàn có trong tất cả các tác phẩm. Nó phụ thuộc vào nhận thức và khả năng dự đoán trước hiện thực của nhà văn, nhờ đó nhà văn chỉ ra được con đường giải quyết những bế tắc của số phận nhân vật, hoặc tạo ra những chi tiết viễn tưởng, kỳ ảo như một lối thoát cho nhân vật khi mà mọi nẻo đường ở thực tại hay ở chốn nhân gian đều không có khả năng thay đổi được hoàn cảnh.

II. Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong văn học

– Chủ nghĩa nhân đạo trong tiến trình này trở thành một trào lưu vì Open hàng loạt những tác phẩm có giá trị như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương … – Những nội dung bộc lộ trong văn học quy trình tiến độ này là sự thương cảm trước thảm kịch và đồng cảm với khát vọng của con người ; chứng minh và khẳng định, tôn vinh năng lực, nhân phẩm, lên án những thế lực tàn tệ chà đạp con người ; tôn vinh truyền thống lịch sử đạo lí, nhân nghĩa của dân tộc bản địa .

– Cảm hứng nhân đạo trong quá trình này cũng có những bộc lộ mới, hướng vào quyền sống của con người, nhất là con người trần gian [ Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương ] ; ý thức về cá thể đậm nét hơn, ý thức về quyền sống cá thể, niềm hạnh phúc cá thể, năng lực cá thể …. qua những tác phẩm như Tự tình [ Hồ Xuân Hương ], Bài ca ngất ngưởng [ Nguyễn Công Trứ ] .

* Dẫn chứng các tác giả, tác phẩm tiêu biểu:

+ Truyện Kiều [ Nguyễn Du ] tôn vinh vai trò của tình yêu, biểu lộ cao nhất của sự tôn vinh con người cá thể. Tình yêu không chỉ đem lại cho con người vẻ đẹp đời sống, qua tác phẩm, nhà thơ muốn đặt ra và chống lại định mệnh . + Trong Chinh phụ ngâm [ Đặng Trần Côn ], con người cá thể được gắn liền với nỗi sợ hãi tuổi trẻ, niềm hạnh phúc chóng phai tàn do cuộc chiến tranh . + Thơ Hồ Xuân Hương là con người cá nhân bản năng khao khát sống, khao khát niềm hạnh phúc, tình yêu đích thực, bày tỏ thẳng thắn những tham vọng của người phụ nữ với đậm cá tính can đảm và mạnh mẽ . + Truyện Lục Vân Tiên [ Nguyễn Đình Chiểu ] là con người cá nhân nghĩa hiệp và hành vi theo nho giáo . + Bài ca ngất ngưởng [ Nguyễn Công Trứ ] là con người cá thể sự nghiệp, hưởng lạc ngoài khuôn khổ .

+ Thơ Tú Xương là nụ cười giải thoát cá thể và sự khẳng định chắc chắn mình .

1. Cảm thông, thương xót cho số phận đau khổ của con người.

Chủ nghĩa nhân đạo trước hết mở màn tự sự yêu dấu con người, mà hạt nhân của nó chính là trái tim giàu lòng yêu thương của nhà văn. Balzac đã từng nói : “ nhà văn là thư kí trung thành với chủ của thời đại ”, Nam Cao thì nói : “ sống đã, rồi hãy viết, hãy hòa mình vào đời sống của quần chúng nhân dân ”, Enxa Triole : “ Nhà văn là người cho máu ” . Đúng như vậy, quy trình phát minh sáng tạo là một quy trình khó khăn và vẻ vang, yên cầu mỗi nhà văn phải dốc hàng loạt mồ hôi, nước mắt, thậm chí còn là máu của mình, dốc hết bầu máu nóng trong tim để giao cảm với đời, lan rộng ra tâm hồn để tiếp đón những vang vọng tha thiết của cuộc sống . Hơn ai hết họ đã khóc với những nỗi đau của thời đại, đã mỉm cười cùng nỗi hân hoan của thời đại, và hơn ai hết họ hiểu thấu những tham vọng tha thiết, những khát khao cháy bỏng của con người thời đại. Mỗi nhà văn, trong quy trình sáng tác, trước hết phải là “ nhà nhân đạo ” từ trong cốt tủy “ [ Sêkhov ] . Bởi nếu không phải nhà nhân đạo, nếu không có tấm lòng yêu thương con người và sẵn sàng chuẩn bị quyết tử cho con người, thì làm thế nào anh ta hoàn toàn có thể viết, làm thế nào anh ta hoàn toàn có thể, như loài phượng hoàng lửa trong thần thoại cổ xưa, trầm mình vào lửa đỏ để làm ra sự hồi sinh của đời sống – chính là những tác phẩm thẫm đẫm tính nhân đạo, thấm đẫm tình yêu thương con người, những tác phẩm như phập phồng hơi thở của thời đại, như đang chảy trong từng vân chữ những giọt máu của thời đại . Những tác phẩm mà, mỗi trang giấy là một số phận được trải ra trước mắt người đọc, từng số phận là những tiếng kêu khóc đau đớn cho những kiếp người, từng con chữ cất lên đều ám ảnh, day dứt khôn nguôi .

Như vậy tất cả chúng ta thấy rằng, bộc lộ thứ nhất của chủ nghĩa nhân đạo chính là sự thông cảm, đồng cảm cho số phận con người. Điều này có ý nghĩa giáo dục rất thâm thúy. Như nhà văn Nam Cao đã từng nhận xét, tác phẩm văn học chân chính là tác phẩm văn học làm cho con người “ gần người hơn ” .

Người đọc tìm đến tác phẩm văn học với nhiều mục đích, nhưng cao cả hơn cả vẫn là để thanh lọc tâm hồn, để tâm hồn mình phong phú hơn, trong sạch hơn. Đến với những số phận gửi gắm trong văn học, họ được sống nhiều hơn, được trải nghiệm nhiều hơn, nhưng hơn cả là, họ được xúc cảm nhiều hơn, suy tư nhiều hơn, họ được khóc với nỗi đau của đồng loại, được reo vui với niềm vui của đồng loại. Văn học giúp cho trái tim mỗi con người trở nên nhạy cảm hơn, bao dung hơn, nhân hậu hơn.

Xem thêm: Chủ nghĩa xã hội khoa học – Wikipedia tiếng Việt

Chủ nghĩa nhân đạo không chỉ là những tư tưởng, quan điểm tôn vinh cái đẹp của con người, mà hơn hết, chủ nghĩa nhân đạo chính là sự tạo dựng nên cái đẹp trong tâm hồn của con người, mà ở trong trường hợp này, chính là người đọc. Quá trình thanh lọc tâm hồn này của người đọc là quy trình tự ý thức, từ đồng cảm, thương xót cho đồng loại mà bồi đắp, luyện rèn lên những giá trị trong tâm hồn mình [ lòng nhân hậu, lòng nhân ái … ] .
Như vậy tất cả chúng ta thấy, nhờ có chủ nghĩa nhân đạo, văn học không chỉ phát hiện hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn người, mà còn giúp cho hạt ngọt ấy sáng hơn, đẹp hơn, và gieo vào từng tâm hồn những hạt ngọc lộng lẫy, sáng ngời .

2. Trân trọng, tôn vinh vẻ đẹp của con người.

Đối tượng phản ánh của văn học chính là con người, Maxim Gorki từng nói : “ Văn học là nhân học ”, còn với Nguyễn Minh Châu thì : “ cuộc sống và thẩm mỹ và nghệ thuật là hai vòng tròn đồng tâm mà điểm trung tâm chính là con người ”. Văn học không hề không phản ánh con người. Nhưng yếu tố là, phản ánh con người ở phương diện nào, và phản ánh con người như thế nào ? Văn học chăm sóc đến con người trên phương diện xã hội, văn học, trải qua những mối quan hệ xã hội để dựng nên hình tượng con người như những tính cách, đó là con người đạo đức, con người chính trị, con người tâm trạng, con người hành vi v.v. Nhưng quy trình phản ánh con người này cũng không hề giản đơn, khuôn mẫu, vô hiệu những chỉ tiết để khái quát thành những định lí, định đề, những quy tắc, chuẩn mực như lịch sử dân tộc, triết học, đạo đức học . Văn học phản ánh con người vừa trực quan vừa khách quan, một mặt miêu tả con người sôi động như chính nó trong đời sống, mặt khác lại nhìn nó với cái nhìn thấm đẫm sự cảm thông, yêu thương – cái nhìn đậm chất nhân đạo của người nghệ sĩ . Hình tượng con người trong văn học luôn là sự tổng hòa của cái chung và cái riêng, cái khái quát và cái đơn cử, cái chủ quan và cái khách quan, nó là hình ảnh chủ quan của quốc tế khách quan, là con người sôi động của hiện thực dưới cái nhìn giáu tình cảm, giàu sự đồng cảm của người nghệ sĩ . Nhưng điều độc lạ cơ bản nhất giữa văn học và những ngành khoa học xã hội khác đó chính là sự phản ánh con người trên phương diện cái đẹp. Dovtopxki từng nói : “ Cái đẹp cứu chuộc quốc tế ”. Đúng như vậy, muôn đời, văn học nghệ thuật và thẩm mỹ chân chính là văn học “ tôn vinh con người ” . Văn học là mẫu sản phẩm của quy trình phát minh sáng tạo theo quy luật của cái đẹp, con người trong văn học cũng chính là con người được phát minh sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Con người bước vào văn học với nhiều vẻ đẹp rất phong phú . Đó hoàn toàn có thể là nhan sắc tuyệt mỹ của nàng Kiều “ hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh ”, đó hoàn toàn có thể là cái đẹp năng lực như của người nghệ sĩ Vũ Như Tô khi xây Cửu Trùng Đài, hoàn toàn có thể “ tinh chỉnh và điều khiển gạch đã như người tướng khiến bỉnh ”, hoàn toàn có thể xây lên những khu công trình tranh tài cùng hóa công . Nhưng văn học, chăm sóc nhất vẫn là vẻ đẹp tâm hồn của con người, trách nhiệm số 1 của văn học vẫn là tìm kiếm hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người. Quá trình tìm kiếm vẻ đẹp ấy yên cầu rất nhiều công sức của con người, trí tuệ, tình cảm của người cầm bút . Người nghệ sĩ trước hết phải là những con người biết lao vào, biết đạp lên những định kiến cố hữu của con người và xã hội để nhìn con người một cách người nhát . Nam Cao, để tò mò được khao khát sống trong Chí Phèo, đã phải cùng nhân vật của mình quằn quại trong cuộc lột xác đầy đau đớn từ một con quỷ thành một con người, để làm ra từng trang văn kinh hoàng như lửa cháy, đồng thời, nhà văn tài ba ấy cũng phải đạp lên những định kiến của người đời, phải tách rời khỏi những kẻ nhìn Chí Phèo như quỷ dữ, để nhìn anh như một con người . Chỉ ở góc nhìn đó, nhà văn mới hoàn toàn có thể đau đớn đến tận cùng cùng với nỗi đau của nhân vật, mới hoàn toàn có thể từ cùng cực của thảm kịch gạn lọc nên viên ngọc tươi trong : khát khao sống, khát khao lương thiện của một con người . Có thể nói quy trình tìm kiếm hạt ngọc trong tâm hồn con người là quy trình khó khăn vất vả nhất. Bởi con người là một thực thể phức tạp, tâm hồn con người vốn là một mảnh đất hãy còn bị phủ bởi lớp sương mờ kín . Con người ta cũng chẳng thể hiểu được chính bản thân mình, thì làm thế nào người khác hoàn toàn có thể hiểu kín kẽ, cùng tận ? Để tò mò được những vẻ đẹp bên trong của con người, cần đến những năng lực thật sự . Mỗi nhà văn trong cuộc ngụp lặn vào quốc tế sâu kín của tâm hồn với những biến thái phức tạp, phức tạp, phải có một sự nhạy cảm thiên bẩm và một trái tim hừng hực yêu thương .

Đôi mắt của anh ta phải là đôi mắt tinh tường, đôi mắt xuyên thấu, đôi mắt đồng cảm, anh ta phải nhìn thấy được từ những bộc lộ bên ngoài nhỏ nhất của con người những dịch chuyển phức tạp của tâm hồn bên trong, và anh ta phải biết cách tạo cho những phát hiện của mình một hình hài sắc vóc tương ứng – lớp ngôn từ thẩm mỹ và nghệ thuật sinh động, mê hoặc .

3. Tố cáo, phê phán các thế lực tàn bạo đã chà đạp lên nhân cách, nhân phẩm và cuộc đời con người.

Văn học đồng cảm, xót xa cho số phận của con người, văn học trân trọng, tôn vinh vẻ đẹp của con người, thì văn học cũng tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người . Quá trình đồng cảm, quý trọng con người và quy trình tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người là hai mặt của một đồng xu, luôn đi liền với nhau, có mối quan hệ mang tính biện chứng . Càng đồng cảm, xót xa cho số phận con người, sẽ càng chán ghét, phẫn nộ với những thế lực đày đọa con người. Càng trân trọng, nâng niu vẻ đẹp của con người, sẽ càng khinh ghét, kinh tởm những thế lực chà đạp, làm vấy bẩn vẻ đẹp ấy . Chủ nghĩa nhân đạo, do vậy, không riêng gì là sự nâng niu trân trọng những vẻ đẹp của con người, mà còn muốn biến văn học thành một thứ vũ khí đấu tranh cho quyền sống của con người . Một góc nhìn không hề không nhắc đến của chủ nghĩa nhân đạo chính là tính chiến đấu rất cao của nó. quản trị Hồ Chí Minh đã từng nhắn nhủ với những nghệ sĩ : “ Văn hóa thẩm mỹ và nghệ thuật cũng là một mặt trận / Anh chị em là chiến sỹ trên mặt trận ấy. ” Phương thức chiến đấu của văn học là sự phản ánh, bóc trần, là sự tố cáo. Đỉnh cao của tính chiến đấu chính là bút pháp trào phúng. Nhưng văn học, ngay cả khi không sáng tác bằng bút pháp trào phúng, cũng có tính chiến đấu nhất định của nó . Bản thân sự phản ánh của văn học đã có ý nghĩa riêng của nó. Văn học phản ánh cái xấu xa, cái tàn khốc, cái vô nhân, cái giả dối, khi nào cũng đặt nó trong đối sánh tương quan với cái tốt đẹp, cái lương thiện, cái nhân hậu, cái chân thực. Nhà văn Nguyễn Khải từng nói : “ ” Văn chương có quyên nhưng không chỉ miêu tả cái xấu xa ghê tởm, hèn nhát . Thanh nam châm hút lôi cuốn mọi thế hệ văn là cái hùng vĩ, cái tốt đẹp, cái thủy chung ”. Văn học thẩm mỹ và nghệ thuật, dù là trong văn học dân gian hay văn học tân tiến, vẫn luôn sống sót sự phản ánh thiện – ác, tốt – xấu, thật – giả trong sự so sánh, so sánh này, cũng ví như thiện – ác, tốt – xấu, thật – giả trong đời sống luôn song hành, giao tranh kinh hoàng để loại trừ lẫn nhau vậy . Nhiệm vụ muôn đời của văn học chính là tô đậm cái xấu, phát hiện cái xấu để con người hoàn toàn có thể nhận ra nó, và từ từ hình thành trong con người sự chán ghét cái xấu xa, cái đê hèn, cái giả dối. Quá trình này luôn phải diễn ra song song với quy trình tôn vinh cái tốt, thù ghét cái xấu xa, cái đê hèn, cái giả dối cũng chính là nâng niu, quý trọng cái tốt đẹp, cái cao quý, cái chân thực . Để làm được điều này, người nghệ sĩ đồng thời cũng phải là người chiến sỹ, và yên cầu tiên phong của họ chính là sự quả cảm. Như nhà văn vĩ đại, người phản biện duy nhất của văn học Xô Viết, đồng thời cũng là người có số phận đầy đau đớn, Mikhail Bulgakhov đã từng tâm niệm, nhà văn là không có quyền yên lặng . Một nhà văn dốc bầu máu nóng để yêu thương con người, để lòng mình lắng lại với những nỗi đau đời đau người tha thiết, là nhà văn không hề câm lặng trước cường quyền, trước đấm đá bạo lực, trước tàn tệ, là nhà văn không hề thản nhiên khi nhìn thấy con người bị chà đạp, bị vùi dập, là nhà văn không hề câm lặng trước giọt nước mắt của con người !

Ngôn từ chính là vũ khí, trí tuệ chính là vũ khí, tình cảm chân chính chính là vũ khí – những nhà văn chân chính từ bao đời nay vẫn chiến đấu cho đời sống của con người như vậy. Họ chính là những nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, là những nghệ sĩ vĩ đại .

4. Thấu hiểu, nâng niu ước mơ khát vọng của con người.

Theo quy luật của quy trình phát minh sáng tạo, điểm đến sau cuối của văn học khi nào cũng là cuộc sống. Tố Hữu từng nói : “ Cuộc đời là điểm khởi đầu và là điểm đi tới của văn chương ”. Tác phẩm không kết thúc khi trang sáng đóng lại, mà đó là lúc tác phẩm mở ra, để bước vào cuộc sống, để tái tạo cuộc sống . Tác phẩm thẩm mỹ và nghệ thuật có sức sống vĩnh viễn phải là tác phẩm có ích cho xã hội. Thế nào là có ích ? Đó là tác phẩm phải làm con người trở nên tốt đẹp hơn, phải trải qua mỗi con người để “ dùng lực lượng vật chất đánh đổ lực lượng vật chất ”, để tái tạo và làm đời sống tươi đẹp hơn, đáng sống hơn . Để triển khai được trách nhiệm cao quý của văn chương, trước hết mỗi nhà văn phải là một nhà tư tưởng. Đỉnh cao nhất của mỗi tác phẩm chính là thông điệp tư tưởng của nó . Qua tác phẩm của mình, nhà văn phải bày tỏ quan điểm của mình về một yếu tố nào đó trong đời sống, góp phần một giải pháp, hoặc chí ít, phải gợi ra được những yếu tố cấp thiết của xã hội và khiến chúng ám ảnh người đọc, lôi kéo người đọc vào quy trình tâm lý trăn trở của nhà văn, đối thoại cùng nhà văn để kiến thiết xây dựng đời sống tốt đẹp hơn . Nhà văn Ý Claudio Magrid đã từng nói : “ Văn chương không cần những câu vấn đáp mà nhà văn đem lại, văn chương chỉ cần những câu hỏi mà nhà văn đặt ra, mà những câu hỏi này, luôn rộng hơn bất kỳ câu vấn đáp tường tận, cặn kẽ nào ” . Việc đưa ra giải pháp của mình cho những yếu tố của đời sống không gì trực quan hơn là trải qua tác phẩm, trải qua số phận nhân vật. Đó là lúc văn học có những nhân vật có tương lai tươi tắn, có những hành vi quả cảm đổi khác nghịch cảnh, để cứu chính bản thân mình . Văn học tất cả chúng ta đã có cả một thời kì sáng tác theo khuynh hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa với Mỵ, với Tràng … họ đề là những nhân vật nổi bật của giải pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, đều là những con người, hoặc có những hành vi táo bạo để đổi khác số phận, hoặc có sự thức tỉnh thiết yếu tất yếu sẽ dẫn đến những hành vi đổi khác số phận . Chúng ta cũng có cả một thời kì văn học khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cách mạng với cái nhìn sáng sủa hướng về tương lai tươi tắn mang âm hưởng anh hùng ca hào hùng của thời đại . Những hình tượng nhân vật có cái nhìn về tương lai tươi tắn, rộng mở, chính là những vật chứng đơn cử nhất cho cái nhìn của chủ nghĩa nhân đạo : cái nhìn sáng sủa hướng đến tương lai, hướng về một đời sống xán lan, đầy hứa hẹn . Tuy vậy, văn học không khi nào là loa phát ngôn tư tưởng của nhà văn, nhân vật khi nào cũng có những sự hoạt động nội tại riêng của nó, chịu sự chi phối của những quy luật khách quan của thời đại, chịu sự chi phối của sự hoạt động khách quan của lịch sử dân tộc . Hay nói cách khác, có những nhân vật, đặt trong thời đại sống của mình, không khi nào hoàn toàn có thể có được một cái kết có tương lai tươi tắn. Solokhov không mong ước Grigori trong “ Sông đông êm đềm ” có số phận thảm kịch đau khổ đến tận cùng, mất hết tổng thể, mái ấm gia đình, đời sống và trọn vẹn lạc lối, nhưng thời đại của nhân vật không cho phép nhân vật có cái két khác đi . Cái gọi là chủ nghĩa hiện thực nghiêm nhặt không nằm ở chỗ đẩy nhân vật vào tận cùng thảm kịch, tạo cho nhân vật cái kết đau đớn bi thảm cùng cực, mà nó nằm ở chỗ, vì nhà văn tôn trọng sự hoạt động của hiện thực khách quan nên không hề không phản ánh nó một cách chân xác [ dù nó dẫn đến những tấn thảm kịch đầy đâu đớn ] . Nhưng yếu tố đặt ra là, liệu rằng khi chịu sự chi phối của chủ nghĩa hiện thực nghiêm nhặt như vậy, liệu rằng nhà văn ấy hoàn toàn có thể trở thành nhà nhân đạo chủ nghĩa ? Khi thực trạng không hề cho nhân vật một tương lai tươi tắn, một cái nhìn sáng sủa vào tương lai, thì nhà văn vẫn phải có một cái nhìn vào tương lai, với một niềm mong mỏi vào một sự đổi khác . Đó chính là sự tò mò ra những tham vọng của con người và lôi kéo sự đổi khác để con người hoàn toàn có thể thực thi được tham vọng của mình, để hoàn toàn có thể sống người nhất. Bi kịch vỡ mộng và thảm kịch niềm tin của Hộ trong “ Đời thừa ” của Nam Cao là tấn thảm kịch không có lối thoát .

Dù nhân vật có thức tỉnh thế nào, một khi thực trạng không đổi khác, một khi anh ta còn là “ kiếp người bị cơm áo ghì sát đất ” thì tấn thảm kịch của anh ta sẽ còn tiếp nối, thậm chí còn sẽ tăng trưởng theo hình xoắn ốc, lặp lại và ngày một tồi tệ hơn, để rồi cái đỉnh của nó sẽ là cái chết của anh ta : sự tha hóa tận cùng của nhân cách .

Chủ nghĩa hiện thực phê phán không thể vượt qua những hạn chế nhận thức của chính thời đại mình, nó xem con người là nạn nhân của hoàn cảnh, chính vì vậy con người luôn bế tắc, bi kịch. Nhưng như vậy không có nghĩa Nam Cao không phải là nhà nhân đạo chủ nghĩa.

Xem thêm: Chủ nghĩa xã hội khoa học – Wikipedia tiếng Việt

Cái nhân đạo của nhà văn bộc lộ ở chỗ, nhà văn đã mày mò ra được những tham vọng tốt đẹp của văn sĩ Hộ, đó là ước vọng phát minh sáng tạo nghệ thuật và thẩm mỹ chân chính của một người nghệ sĩ đam mê, mong ước có một tác phẩm “ vượt qua mọi bờ cõi và số lượng giới hạn ” để trở thành tác phẩm chung cho loài người . Cái nhân đạo của Nam Cao còn ở bức thông điệp dội vào đời sống : Cuộc sống cần phải biến hóa, để mỗi con người có hoài bão, có tham vọng được sống đúng với tham vọng và tham vọng của mình, để được sống và góp sức, sống trở thành con người có ích cho xã hội, chứ không phải là những con người đau đớn, những kiếp sống mòn, ngày ngày nhìn tham vọng của mình đổ vỡ, và bản thân mình thì dẫn tha hóa, trở thành kẻ tồi tệ, giày vò hành hạ những người yêu thương của mình .

Như vậy, dù nhà văn có đứng ở điểm nhìn nào, dù anh ta chịu sự chi phối của thi pháp nào, dù anh ta hoàn toàn có thể mang đến tương lai tươi tắn cho nhân vật hay không, chỉ cần anh ta còn hiểu được những ước vọng hướng về tương lai của con người, chỉ cần bản thân anh ta cũng có cái nhìn hướng về tương lai và đấu tranh cho tương lai tốt đẹp, tươi đẹp của con người, thì anh ta chính là nhà nhân đạo chủ nghĩa .

Video liên quan

Chủ Đề