Giáo trình giáo dục học đại cương Hà THỊ dục

Just for sharing. Please send an email to , if you've trouble when download

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT ---***--- HÀ THỊ MAI [Biên soạn] GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG  [Lưu hành nội bộ] Đà Lạt, 12 - 2013 1
  2. MỤC LỤC Trang Mở đầu …………………………………………………………………………………03 Chương 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC ………….………….. 04 I. Giáo dục là một hiện tượng xã hội ………………………………………............04 II. Khái quát về lịch sử phát triển của giáo dục ………………….…………………04 III. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của Giáo dục học.…………..10 IV. Những khái niệm cơ bản của Giáo dục học………….………………………….11 Chương 2. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH ……………..14 I. Sự phát triển nhân cách của con người ………………………………. ………14 II. Các yếu tố tác động đến sự phát triển nhân cách ………………………. ………15 Chương 3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ GIÁO DỤC ……………………………20 I. Mục đích giáo dục ………………………………………………………………..20 II. Nhiệm vụ giáo dục của nhà trường ………………………………………………22 Chương 4. KHÁI QUÁT VỀ CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC……………..30 I. Khái niệm con đường giáo dục …………………………………………………..30 II. Các con đường giáo dục …………………………………………………………30 III. Các phương pháp giáo dục …………………………………………………… 33 Chương 5. LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC …………………………..37 I. Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam ………………………………………….37 II. Quản lý giáo dục ………………………………………………………………...40 Chương 6. NHÀ TRƯỜNG VÀ NGƯỜI GIÁO VIÊN ………………………45 A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ TRƯỜNG…………………. …………45 I. Nhà trường ……………………………………………………………………….45 II. Nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường …………………………………………46 III. Tổ chức và hoạt động của nhà trường …………………………………………46 B. NGƯỜI GIÁO VIÊN VÀ NGHỀ DẠY HỌC . ……………………………… 48 I. Nghề và nghề dạy học ………………………………………………………… 48 II. Vai trò, nhiệm vụ của nhà giáo Việt Nam ……..……………………………… 49 III. Đặc điểm lao động sư phạm của nhà giáo …………………………………….. 50 IV. Những yêu cầu đối với nhà giáo Việt Nam hiện nay ………………………….. 52 V. Nghệ thuật sư phạm …………………………………………………………… 54 C. NGƯỜI GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP …………………………………….. 55 I. Chức năng, nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp ……………………………. 55 II. Nội dung và phương pháp công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp ……..……… 58 Tài liệu tham khảo . …………………………………………………….62 2
  3. MỞ ĐẦU Ở mỗi thời đại, giáo dục luôn có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của xã hội. Trong giai đoạn hiện nay hơn bao giờ hết, giáo dục – đào tạo càng có ý nghĩa quyết định không chỉ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội mà cả đối với công cuộc bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước. Giáo dục có mục đích rất cụ thể, khoa học và thiết thực. Mục đích của giáo dục phù hợp với sự phát triển của cá nhân, vì sự tiến bộ của xã hội. Các cơ cấu xã hội như các cơ sở sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, các cơ quan nhà nước ở các cấp; các đoàn thể quần chúng đều có chức năng giáo dục các thành viên của mình theo phương hướng con người phát triển toàn diện, bởi ở đâu có con người thì ở đó đều cần có sự quản lý, tổ chức, giáo dục con người. Vấn đề đặt ra ở đây là việc giáo dục con người không thể hoàn toàn tiến hành theo kiểu kinh nghiệm chủ nghĩa, chủ quan, tuỳ tiện hoặc là những lời hô hào kêu gọi chung chung… mà nó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Do đó, việc nghiên cứu Giáo dục học sẽ giúp cho các nhà quản lý, các cơ quan nhà nước các cấp và các ngành tiến hành tổ chức, quản lý, giáo dục con người phù hợp với những quan điểm khoa học, phù hợp với mục tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội ở nước ta. Đặc biệt nghiên cứu giáo dục, nắm bắt các quy luật của giáo dục là một yêu cầu có tính tất yếu đối với tất cả những người làm công tác giáo dục [Giáo dục trong nhà trường, giáo dục xã hội, giáo dục gia đình…]. Hoạt động giáo dục là một bộ phận của đời sống xã hội. Từ khi xã hội loài người xuất hiện, các thế hệ loài người đã gắn bó, kết hợp với nhau trong tất cả các lĩnh vực hoạt động sáng tạo : trong kinh tế, văn hoá, chính trị và giáo dục…Hoạt động giáo dục [dạy học và giáo dục] luôn luôn phát triển và không ngừng đổi mới, nâng cao dần cùng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội loài người. Theo tổng kết của UNESCO, trong hơn 50 năm qua giáo dục “ đã có thể trở thành nhân tố then chốt của phát triển bằng cách thực hiện ba chức năng kinh tế, khoa học và văn hoá” mà cụ thể là đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, đội ngũ các nhà trí thức tham gia có hiệu quả vào cuộc “cách mạng trí tuệ” – động lực của các ngành kinh tế; đào tạo nên các thế hệ công dân “bắt rễ trong chính nền văn hoá của họ và có ý thức hội nhập với các nền văn hoá khác vì sự tiến bộ của xã hội nói chung”. Mặt khác, giáo dục luôn không ngừng thích nghi với những thay đổi của xã hội; đồng thời thực hiện sứ mệnh chuyển giao những thành tựu văn hoá của xã hội loài người từ thế hệ này đến thế hệ khác, từ thế hệ trước đến thế hệ sau. Từ nhận thức trên, học phần Giáo dục học đại cương nhằm : - Cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản nhất của Giáo dục học – với tư cách là một khoa học. - Phản ánh được những thành tựu khoa học giáo dục mới của thế giới cũng như Việt Nam, những xu hướng phát triển của giáo dục. - Bồi dưỡng cho học viên ý thức, lòng yêu nghề dạy học trên cơ sở tri thức, kỹ năng dạy học và giáo dục. THỜI GIAN VÀ KẾ HOẠCH HỌC TẬP GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG được xây dựng gồm 2 tín chỉ. Mỗi tín chỉ tương đương 15 tiết. Học phần bảo đảm sự cân đối giữa lý thuyết khoa học và thực hành nhằm nêu cao tính tự chủ trong học tập của học viên và tính linh hoạt trong giảng dạy của giảng viên. - Sau mỗi chương lý thuyết được giảng viên hướng dẫn trên lớp sẽ có câu hỏi để học viên ôn tập, thảo luận, đề xuất ý kiến và làm bài tập thực hành ở nhà. - Yêu cầu đặt ra với học viên : Ngoài việc nghe giảng, ghi chép nội dung cơ bản ở trên lớp, nhất thiết bắt buộc học viên phải đọc tài liệu tham khảo và thu lượm tư liệu qua thực tiễn giáo dục, qua hệ thống thông tin đại chúng để mở rộng, nâng cao kiến thức. Từ đó để tự trau dồi tri thức nghề nghiệp, lòng tin vào con người, vào sự nghiệp Giáo dục – Đào tạo của đất nước. 3
  4. CHƯƠNG 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC I. GIÁO DỤC LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI. 1. Nguồn gốc phát sinh của hiện tượng giáo dục. Ngay từ khi xuất hiện trên trái đất để tồn tại và phát triển con người phải lao động. Trong lao động và trong cuộc sống hàng ngày, con người một mặt vừa sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, mặt khác vừa nhận thức thế giới xung quanh. Trong quá trình nhận thức đó, con người dần dần tích luỹ được nhiều kinh nghiệm bao gồm kinh nghiệm sống, kinh nghiệm lao động, kinh nghiệm chinh phục tự nhiên. Kinh nghiệm càng ngày càng dồi dào, từ đó con người nảy sinh nhu cầu truyền đạt những hiểu biết, những kinh nghiệm ấy cho nhau. Đó chính là nguồn gốc phát sinh của hiện tượng giáo dục. Lúc đầu, giáo dục xuất hiện như một hiện tượng tự phát, diễn ra đơn giản theo lối quan sát – bắt chước. Về sau giáo dục trở thành một hoạt động có ý thức. Con người dần dần biết xác định mục đích, hoàn thiện về nội dung và tìm ra các phương thức để quản lý giáo dục có hiệu quả. Ngày nay, giáo dục đã trở thành một hoạt động được tổ chức đặc biệt, đạt tới trình độ cao, có chương trình kế hoạch, có nội dung phương pháp hiện đại, diễn ra theo một nhịp độ khẩn trương và đã trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của xã hội loài người. 2.Tính chất của giáo dục. Giáo dục có 5 tính chất sau đây : 2.1. Giáo dục là một hiện tượng đặc biệt chỉ có ở xã hội loài người. Giáo dục xuất hiện, phát triển gắn bó cùng loài người. Ở đâu có con người, ở đó có giáo dục – giáo dục mang tính phổ biến. Khi nào còn loài người lúc đó còn giáo dục – giáo dục mang tính vĩnh hằng. 2.2. Giáo dục là một hình thái ý thức xã hội, là hiện tượng văn minh của xã hội loài người. Về bản chất, giáo dục là sự truyền đạt và tiếp thu kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người; Về mục đích, giáo dục là sự định hướng của thế hệ trước cho thế hệ sau; Về phương thức, giáo dục là cơ hội giúp mỗi cá nhân đạt tới hạnh phúc và là cơ sở đảm bảo cho sự kế thừa, tiếp nối và phát triển những thành quả văn hoá của xã hội loài nguời. 2.3. Giáo dục là hiện tượng có tính lịch sử : Giáo dục ra đời theo nhu cầu của lịch sử xã hội, một mặt nó phản ánh trình độ phát triển của lịch sử, bị qui định bởi trình độ phát triển của lịch sử, mặt khác nó lại tác động tích cực vào sự phát triển của lịch sử. 2.4. Giáo dục có tính giai cấp: Trong xã hội có giai cấp, giáo dục được sử dụng như công cụ của giai cấp cầm quyền nhằm duy trì quyền lợi của mình thông qua mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục. 2.5. Giáo dục có tính dân tộc: Mỗi quốc gia đều có một truyền thống lịch sử, có nền văn hoá riêng, cho nên giáo dục ở mỗi nước cũng có những nét độc đáo, những sắc thái đặc trưng. Tính dân tộc của giáo dục được thể hiện trong mục đích nội dung, phương pháp và sản phẩm giáo dục của mình. Từ việc phân tích các tính chất cơ bản nêu trên, ta có thể rút ra kết luận : Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của giáo dục là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá nhân loại và dân tộc được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó mà xã hội loài người không ngừng tiến lên. II. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO DỤC Muốn phát triển một cách sáng tạo những tư tưởng giáo dục trong quá khứ, tiếp cận với các tư tưởng giáo dục hiện đại, chúng ta cần kế thừa các thành tựu và kinh nghiệm giáo dục trong lịch sử phát triển giáo dục của nhân loại. 4
  5. 1. Thời kỳ công xã nguyên thuỷ. Như trên đã trình bày, giáo dục là một hiện tượng xã hội đã nảy sinh chính trong cuộc sống của công xã nguyên thuỷ. Cuộc sống lao động và sinh hoạt của người nguyên thuỷ trong công xã để sản xuất nuôi sống mình và bảo vệ được con người trước sự đe doạ của tự nhiên và thú dữ đã nảy sinh tri thức và tri thức này được truyền từ thế hệ trước cho thế hệ sau bằng con đường giáo dục. Giáo dục thời kỳ này được gọi là giáo dục nguyên thuỷ hay giáo dục tự nhiên. Giáo dục thời kỳ Công xã nguyên thuỷ có những đặc điểm sau: Về nội dung giáo dục: Người nguyên thuỷ giáo dục cho thế hệ trẻ những gì cần thiết để họ sống, tồn tại và phát triển. Đó là những kinh nghiệm sản xuất, chống chọi với thiên nhiên, thú dữ để bảo vệ con người và những phong tục tập quán, lễ nghi tôn giáo, luật lệ công xã để cho mỗi người biết sống yên ổn trong công xã.. Về hình thức giáo dục: Giáo dục trong thời kỳ công xã nguyên thuỷ mang tính bình đẳng, tự nhiên, không phân biệt giới tính, vị trí xã hội. Người lớn truyền thụ những kinh nghiệm của mình cho trẻ em một cách trực tiếp ngay trong quá trình sống chung, trong lao động săn bắt hái lượm và sinh hoạt hàng ngày ngay trong cộng đồng thị tộc, bộ lạc. Về phương pháp giáo dục: Phương pháp giáo dục chủ yếu thời kỳ này là dùng lời nói, trực quan và hoạt động thực tiễn. 2. Thời kỳ cổ đại hay là thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Thời kỳ cổ đại giáo dục được xem là một trong những lĩnh vực hoạt động xã hội gắn liền với các quá trình kinh tế, văn hoá, xã hội. Ở phương Đông, ngay từ trước Công nguyên, giáo dục ở Trung Hoa cổ đại, Ấn Độ cổ đại đã rất phát triển. Ngay cả vùng ven Địa Trung hải, ở các thành bang Spactơ, Aten, từ các thế kỷ VI,V [trCN] giáo dục cũng đã phát triển mà các di sản văn hoá, giáo dục thời kỳ ấy đến nay vẫn được kế thừa một cách trân trọng. Xô-cơ-rát [ 469-339 trCN ]. Xô-cơ-rát là nhà triết học và đồng thời là nhà tư tưởng, nhà giáo dục kiệt xuất thời cổ đại ở thành bang Aten. Ông sống trong thời đại của Pêricơlít [Pêricơlít – một chính khách nổi tiếng cầm quyền ở Aten vào thế kỷ thứ V – trCN]. Xô-cơ-rát là nhà giáo dục thực hành. Mọi điều ông truyền thụ được lưu truyền lại là do các học trò của ông ghi chép như Xênôphông, Arixtôt, Platon… Trong lĩnh vực giáo dục, Xô-cơ-rát có quan niệm rất nổi tiếng : Giáo dục phải giúp con người tìm thấy sự khẳng định chính bản thân mình, vì thế mang giá trị nhân văn rất cao. Trong 40 năm hoạt động, ông đã nêu cao tấm gương đức hạnh của mình, tình yêu chân lý và sự can đảm trong việc bảo vệ chân lý. Platon [ 429 -347 trCN]. Là học trò của Xôcrat, Platon đã có công ghi chép và xuất bản phần lớn các tác phẩm mà trong đó trình bày lập trường quan điểm triết học, quan điểm giáo dục thông qua các cuộc đối thoại giữa Platon và Xôcrat, nhờ vậy mà các quan điểm này lưu truyền đến tận ngày nay. Platon là người đầu tiên xây dựng được một nền giáo dục có hệ thống dưới sự chỉ đạo của một tư tưởng triết học nhất quán và có ảnh hưởng tới nền giáo dục phương Tây trong suốt 24 thế kỷ qua và có lẽ còn ảnh hưởng tới nền giáo dục loài người trong nhiều thế kỷ tới. Để củng cố nhà nước nô lệ đang hết sức hỗn loạn thời đó, Pla ton đã đề nghị xây dựng một xã hội ổn định, có kỷ cương và thống nhất, trong đó những người có học vấn cao sẽ cầm quyền. Quan điểm giáo dục của Platon thể hiện tập trung trong các tác phẩm chính như “ Luật pháp” và “Nền Cộng hoà”. Platon cho rằng, xã hội gồm hai loại người: tự do và nô lệ. Những người tự do được đào tạo theo hệ thống giáo dục như sau: - Trước 7 tuổi giáo dục trong gia đình do người mẹ đảm nhận, gọi là “mẫu giáo”. - Từ 7 – 17 tuổi: học đọc, học viết, tính toán, thiên văn, địa lý, thể dục, âm nhạc. Những em học kém bị loại để đi lao động với giới công thương. 5
  6. - Từ 17 – 20 tuổi: tiếp tục học văn hoá, thể dục, quân sự, triết học. Những em học kém bị loại để rèn luyện trở thành quân nhân. - Từ 20 – 30 tuổi: tiếp tục học văn, toán, thiên văn, lý luận âm nhạc, luật pháp, triết học… để chuẩn bị lớp quan lại làm việc trong bộ máy chính quyền của nhà nước chủ nô. - Những người thông minh đặc biệt được đào tạo tiếp từ 30 – 35 tuổi bằng việc nghiên cứu sâu về triết học để đạt trình độ cao siêu về chân, thiện, mỹ. Trong số này sẽ chọn ra những người xuất sắc nhất để điều hành nhà nước chủ nô. Số người này chỉ làm việc lãnh đạo nhà nước từ 35 đến 50 tuổi; sau 50 tuổi sẽ thôi công việc quản lý để nghiên cứu khoa học và viết sách. Như vậy, Platon đã dùng một chương trình học tập đòi hỏi cao về trí tuệ để đào thải, sàng lọc, phân loại người học trong những giai đoạn khác nhau của quá trình học tập từ đó phân chia các nhóm dân cư trong xã hội một cách hợp pháp. Mô hình này được các nước phương Tây thừa nhận và áp dụng qua nhiều thế kỷ. Cũng trong hai tác phẩm nêu trên, Platon cũng nêu rõ việc giáo dục trước hết liên quan với đạo đức, tâm lý và xã hội. Đối với ông, sống có đạo đức trước hết là sống công bằng. Cá nhân được xem là công bằng khi nội tâm bảo đảm được sự cân bằng của 3 yếu tố : dục vọng, sự can đảm và lý trí. Theo ông, tất cả đều cần thiết cho cuộc sống nhưng “ hành động của con người chỉ hợp lý nếu cái bụng và trái tim chịu phục tùng cái đầu”. Nhờ vậy, tâm hồn con người sẽ giữ mãi được sự thăng bằng và sẽ sống với thái độ công bằng. Đặc biệt theo ông, con người và xã hội chỉ có thể đạt tới hạnh phúc bởi một nền giáo dục quốc gia. Qua quá trình giáo dục và phát triển sẽ sàng lọc những trẻ ít năng khiếu sẽ làm thợ, những trẻ học tốt sẽ tiếp tục học để trở thành nhà thông thái, nếu không phát triển được sẽ ra làm chiến sĩ, còn những trẻ tiếp tục học lên, sẽ học triết học từ những người xuất sắc để trở thành quan chức như đã nêu ở trên và họ hành xử theo quan điểm CHÂN, THIỆN, MỸ. Ngày nay, trong nhiều hệ thống giáo dục vẫn đang chọn lọc các yếu tố hợp lý của Platon để kế thừa và phát triển cao hơn cho phù hợp với xã hội hiện đại. Khổng Tử [551 – 479 trCN]. Từ thời cổ đại, phương Đông đã đóng góp cho loài người nhiều nhà triết học nổi tiếng như: Khổng tử, Phật thích Ca Mâu Ni, Mặc Tử, Mạnh Tử, Pháp Gia, Hàn Phi Tử, Đổng Trọng Thư … Khổng Tử [551 – 479 trCN] tên Khâu, tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, nay là tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Cha là Thúc Lương Ngột, một võ quan nước Lỗ, nổi tiếng về sức khoẻ và lòng dũng cảm. Năm Khổng Tử lên 3 tuổi thì mất bố, 19 tuổi lấy vợ. Khổng Tử nổi tiếng là người thông minh, siêng năng, liêm khiết. Ông được vua nước Lỗ trọng dụng. Năm 51 tuổi, vua mời ông ra làm quan, làm đến chức ngang với tể tướng. Sử sách Trung Quốc ghi chép lại: ông làm quan được 3 tháng thì việc chính trị trong nước được tốt đẹp, trai thì trung tín, gái thì trinh thuận; trật tự trên dưới đều phân minh, nước thì thái bình thịnh trị. Sau thấy vua chơi bời, bỏ trễ việc nước nên ông xin từ chức, bỏ sang nước Vệ, nước Tần, nước Thái, nước Diệp. Năm 68 tuổi, nước Lỗ mời ông trở về. Ông không ra làm quan mà ở nhà dạy học. Học trò của Khổng Tử có lúc đông đến ba ngàn người. Ông mất năm 479 trCN, thọ 71 tuổi. Khổng Tử là nhà giáo vĩ đại của Trung Hoa cổ đại và của nhân loại sống vào thời Xuân Thu Chiến Quốc. Khổng Tử đã mở trường tư khá quy mô để dạy học, để truyền cái “đạo” của mình. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng được đời sau kính trọng như Nhan Hồi, Trọng Cung, Tăng Sâm, Tử Lộ… Ông quan niệm giáo dục con người phải đào tạo nên những con người có nhân nghĩa, phẩm hạnh, là con người quân tử mà chữ NHÂN là phẩm chất cao nhất trong cái đức của đạo làm người. “ Cách dạy dỗ của Khổng Tử, trước hết là dùng thi, thư rồi lấy hiếu, để mà hướng dẫn, lấy nhân nghĩa để mà giảng, lấy lễ nhạc mà khiến người ta nhận xét, sau cùng mới lấy văn chương, đạo đức mà dựng nên người”. 6
  7. Mục đích dạy học của Khổng Tử: Đó là xây dựng một xã hội ổn định và hoà mục; con người phải có phẩm chất đẹp là: nhân, lễ và luôn tự rèn luyện. Phẩm chất này là cốt lõi của người quân tử. Nhân không chỉ có yêu mà còn có ghét. Lễ có thể hiểu là giữ đúng vị trí, tôn ti, phép tắc, kỷ cương… Nguyên lý giáo dục của Khổng Tử là tu thân, thể hiện ở cái đạo “trung, thứ”. - Trung là làm hết sức mình, theo mong muốn của mình. - Thứ là điều mình muốn cho mình thì làm điều ấy cho người khác, điều gì mình không muốn cho mình thì đừng làm cho người khác. Phương pháp tiếp cận nhận thức và cải tạo thế giới: Đó là “Cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” [Cách vật là tiếp cận sự vật, đến với sự vật bằng giác quan; trí tri là suy nghĩ]. Nội dung giáo dục của Khổng Tử được thể hiện trong 6 bộ sách gọi là lục kinh: Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Xuân Thu. Kinh Thư là bộ sách ghi chép những lời vua tôi dạy bảo, khuyên răn nhau. Kinh Thi là bộ sách ghi chép những bài ca, bài đồng dao từ thời thượng cổ, với ba trăm bài, bao trùm nội dung là “không nghĩ bậy”. Kinh Lễ là bộ sách chép những quy tắc, lễ nghi để nuôi dưỡng tình cảm tốt của con người, giữ cho trật tự xã hội được phân minh, hạn chế cái dục vọng bất chính. Kinh Nhạc: Nhạc và lòng người cảm hoá lẫn nhau, nhạc có khả năng giáo dục con người. Kinh Xuân Thu là bộ sách mà ở đó thể hiện quan điểm chính trị của Khổng Tử. Chẳng hạn như dùng đức để trị, cải thiện đời sống nhân dân, coi trọng giáo dục, giữ mối quan hệ hai chiều: vua – tôi; cha – con; người trên – người dưới; thuyết chính danh: danh và thực. Bộ sách luận ngữ: thể hiện cái đạo làm người quân tử. Khổng Tử còn là một nhân cách sư phạm vĩ đại, giữa lời nói và việc làm luôn luôn nhất quán, say mê với nghề nghiệp, một đời : “ Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Ngày nay, loại trừ những hạn chế lịch sử, ta vẫn thấy các quan điểm về giáo dục do ông đưa ra vẫn là những cống hiến vĩ đại vì giáo dục, nó vượt lên, nổi bật so với thời đại ông sống. Như vậy, điều quan tâm là ở thời kỳ cổ đại, nhiều nhà tư tưởng giáo dục cũng đồng thời là nhà khoa học, nhà triết học, do đó các tư tưởng giáo dục thường phát triển và trình bày trong các tác phẩm triết học, khoa học nói chung, thậm chí còn được lồng vào các tác phẩm thần học, tôn giáo, do đó, muốn tìm hiểu những quan điểm đó cần có sự am hiểu về văn hoá nói chung và tôn giáo nói riêng. 3. Thời kỳ phong kiến: Thời kỳ Trung cổ ở phương Tây, nhà thờ giữ vai trò độc tôn trong đời sống xã hội, có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của giáo dục và nhà trường. Thời kỳ này, giáo dục học nhìn chung vẫn tồn tại như một phần của triết học [giống như nhiều khoa học khác], nhà trường đều đặt dưới sự cai quản của tôn giáo. Các trường tôn giáo luôn luôn có sự dung hoà giữa sự phát triển niềm tin tôn giáo và phát triển trí tuệ, dùng triết học kinh viện để chứng minh, bao giờ niềm tin cũng định hướng và ở vị trí cao hơn trí tuệ, có trước trí tuệ và khoa học. Đến thế kỷ thứ XII –XIII ở Tây Âu đã hình thành 3 loại trường : trường tu viện, trường của nhà thờ và trường dòng. Bên cạnh trường tôn giáo có hệ thống giáo dục kỵ sĩ với nội dung là giáo dục 7 đức tính của kỵ sĩ : “ cưỡi ngựa, bơi, dùng giáo, đấu kiếm, đi săn, đánh cờ, làm thơ”. Thực chất giáo dục tôn giáo và giáo dục kỵ sĩ ở Tây Âu thời Trung cổ đều phục vụ cho chế độ phong kiến thần quyền đương thời. Đối với giáo dục phong kiến ở phương Đông chúng ta có thể kể đến nền giáo dục phong kiến Trung Hoa. Trung Hoa là một trong bốn trung tâm văn minh lớn của phương Đông cổ đại và cũng là một trong những quốc gia phong kiến điển hình với chiều dài phát triển lịch sử của mình. Trung Hoa cũng có một nền giáo dục phong kiến rất điển hình với tính giai cấp rất rõ rệt. Các triều đại phong kiến đều dựng ra các cơ sở dạy học riêng để giáo dục cho con cái của tầng lớp qúy tộc. “Nho giáo” được coi là nội dung giáo dục chủ yếu trong nền giáo dục phong kiến Trung Hoa. Chế độ khoa cử rất được đề cao: HỌC – THI – LÀM QUAN. 7
  8. 4. Thời kỳ văn hoá Phục hưng : Cuối thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XV, khi mầm mống của xã hội tư bản xuất hiện, nhân loại bước vào thời kỳ Phục hưng. Các nhà nhân văn tiên tiến xuất hiện làm dấy lên phong trào giải phóng tư tưởng con người khỏi thần học. Nền văn hoá nghệ thuật nhân văn chủ nghĩa phi tôn giáo phát triển mạnh. Tất cả tạo nên nhu cầu, động lực mới thúc đẩy giáo dục phát triển với tư tưởng tiến bộ vượt ra khỏi khuôn khổ giáo dục kinh viện tôn giáo, hướng về chủ nghĩa nhân văn. Các nhà nhân văn chủ nghĩa chủ trương đề cao giá trị con người, cho rằng, con người cần được phát triển toàn diện thông qua giáo dục. Tiêu biểu là Thomas More [1478 -1535], T. Campanenla [1568 -1639]; Vittôrinô [Ý]; Eraxmơ [Hà Lan]; Môngtenhơ [Pháp]; Rabơle [Pháp]… Theo các nhà lịch sử tư tưởng thì chính bước quá độ từ chế độ phong kiến qua chủ nghĩa tư bản đã làm xuất hiện hệ thống tri thức mới ra đời, trong đó có nhiều khoa học tách ra khỏi triết học. Sở dĩ có bước ngoặt vĩ đại này trong lịch sử tư tưởng loài người là nhờ vào phát minh khoa học của N.Côpecnich, phát minh của Côpecnich được đánh giá đó là một cuộc cách mạng – cuộc cách mạng trên trời. Với thuyết “ Nhật tâm” ông đã chứng minh rằng trung tâm của hệ thống hành tinh chúng ta đó là Mặt Trời, đánh đổ hoàn toàn thuyết “Địa tâm” của Ptôlêmê [nhà thần học] cho rằng trung tâm của hệ thống hành tinh là Trái Đất. Giáo dục học từ đây cũng phát triển và tồn tại như là một khoa học độc lập với tên tuổi của Comenxki vĩ đại [1592- 1670], ông là nhà lí luận và là nhà tư tưởng giáo dục đã đề cao giáo dục phổ cập, đề cao việc dạy tiếng mẹ đẻ trong các nhà trường và nêu ra luận chứng chặt chẽ trong tác phẩm nổi tiếng “ Phép giảng dạy vĩ đại”. Ông là người đề xướng hình thức dạy học lớp – bài; đề ra các nguyên tắc dạy học mà ngày nay vẫn được áp dụng : nguyên tắc trực quan, nguyên tắc nhất quán, nguyên tắc mang tính khoa học, tính hệ thống… Nhìn chung, giáo dục thời kỳ văn hoá Phục hưng thể hiện rõ tư tưởng nhân văn trong giáo dục: - Giáo dục bình đẳng cho mọi người. - Lao động là nghĩa vụ của mọi người, song mỗi ngày chỉ làm việc trong một số giờ nhất định, thời gian còn lại để học văn hoá và sinh hoạt xã hội. - Dạy học bằng tiếng mẹ đẻ. - Coi trọng khoa học tự nhiên. - Đề cao phương pháp quan sát, thí nghiệm, thực hành trong dạy học và giáo dục. - Tôn trọng nhân cách của trẻ em.. - Giáo dục nhằm phát triển nhiều mặt ở trẻ em: về thể chất, đạo đức, trí tuệ và kỹ năng lao động. Đây chính là tiếng nói, tư tưởng tiến bộ của loài người về lĩnh vực giáo dục trong thời kỳ văn hoá Phục hưng mà cho đến nay giá trị, ý nghĩa của nó vẫn được trân trọng lưu giữ, duy trì và phát triển. 5. Thế kỷ XVII - XIX : Cùng với sự phát triển chung của khoa học, giáo dục học cũng đã phát triển về nội dung, ngoài sự phản ánh các thành tựu chung… cũng thể hiện sự đấu tranh gay gắt giữa các quan điểm lý luận giáo dục của giai cấp tư sản thống trị và lợi ích giáo dục của nhân dân. Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, có thể chia sự phát triển giáo dục qua các thời kỳ sau đây: - Giáo dục trước cách mạng tư sản Pháp 1789. Thời kỳ này trong lĩnh vực giáo dục thể hiện cuộc đấu tranh gay gắt về mặt tư tưởng và đã để lại nhiều tư tưởng giáo dục tiến bộ với các khuynh hướng dân chủ: - Giáo dục bình đẳng cho mọi trẻ em. - Giáo dục xuất phát từ đặc điểm trẻ em. - Đề cao vai trò của môi trường. - Đánh giá cao vai trò của giáo dục, thậm chí dùng giáo dục để thay đổi cả xã hội. - Giáo dục con người phát triển nhiều mặt: Đức, trí, thể chất, kỹ năng lao động… 8
  9. Đây là những tiền đề quan trọng cho nền giáo dục tư sản mới, tiến bộ. Song rất tiếc là những tư tưởng tiến bộ này chỉ dừng ở tư tưởng, còn trên thực tế vẫn tồn tại nền giáo dục phong kiến và cuộc đấu tranh còn tiếp diễn cho một nền giáo dục tư sản tiến bộ. - Giáo dục từ 1789 đến những năm đầu thế kỷ XIX. - Tư tưởng tiến bộ xã hội đều hướng vào việc đấu tranh với nhà nước tư sản vì một nền giáo dục tiến bộ như Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 đề ra. - Giáo dục là nhu cầu chính đáng của mọi người lao động, nên xu thế chung là đấu tranh cho một nền giáo dục bình đẳng: giữa nam và nữ, giữa giàu và nghèo. - Đòi nhà nước phải mở trường cho trẻ em học với một nền giáo dục miễn phí, bắt buộc và không phụ thuộc vào tôn giáo. - Vai trò của thầy giáo được đề cao, lí luận sư phạm được coi trọng, khoa học sư phạm được chính thức đặt ra và đòi hỏi phải được coi trọng, nghiên cứu. - Nội dung giáo dục con người chú trọng đến việc giáo dục những phẩm chất và năng lực cần có cho người lao động ở thời kỳ sản xuất công nghiệp phát triển. - Nhân cách trẻ em được tôn trọng và trở thành một vấn đề quan tâm lớn của các nhà sư phạm. Những xu hướng và tư tưởng giáo dục tiến bộ trên đây từng bước được thực hiện và đã trở thành mục tiêu đấu tranh của lực lượng tiến bộ xã hội cho một nền giáo dục tiến bộ ở các nước tư bản chủ nghĩa, cùng với việc đấu tranh để giải phóng cho người lao động trong xã hội công nghiệp phát triển thế kỷ XIX. Tên tuổi các nhà giáo dục lớn thời kỳ này phải kể đến: Đixtecvec [1790 – 1866] người Đức; Usinxki [1824 – 1870] người Nga. - Vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Vào những năm 40 của thế kỷ XIX cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa Marx, giáo dục học tiếp tục phát triển với cơ sở phương pháp luận khoa học. Học thuyết Mác - Lênin về giáo dục đã chứng minh một cách khoa học các vấn đề có tính quy luật như : - Về sự hình thành của cá nhân con người; - Về tính quy luật của kinh tế - xã hội đối với giáo dục; - Tính lịch sử của giáo dục trong tiến trình phát triển xã hội; - Vai trò của giáo dục trong điền kiện xã hội có giai cấp; Những luận điểm này được xem là những luận điểm cơ bản, có vai trò định hướng cho việc nghiên cứu, ứng dụng các vấn đề lý luận vào thực tiễn giáo dục, giúp cho giáo dục ngày càng phong phú và phát triển sâu rộng như hiện nay. 6. Thế kỷ XX. Sự phát triển của giáo dục ở thế kỷ XX có thể nói được chia ra làm nhiều giai đoạn, nhiều khu vực, với những hệ thống tư tưởng quan điểm khác nhau. Đó là những giai đoạn: những năm đầu thế kỷ [thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ nhất]; những năm sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến 1945 [kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai]; giai đoạn từ những năm 50 đến hết thế kỷ XX. Cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội, giáo dục ở thế kỷ XX nổi lên những nền giáo dục tiêu biểu sau đây: - Nền giáo dục nước Nga Xô viết từ Cách mạng tháng Mười 1917 đến những năm 90 thế kỷ XX [trước khi Liên Xô tan rã]. - Nền giáo dục Nhật Bản. - Nền giáo dục Hoa Kỳ. - Nền giáo dục của các nước phát triển ở châu Âu: Đức, Pháp, Anh, Hà Lan, Bỉ, Italia. - Nền giáo dục của một số nước ở khu vực Châu Á: Singapo, Trung quốc, Hàn quốc, Malaixia, Hồng kông, Ấn độ, Thái Lan… Nhìn chung, thế kỷ XX, đặc biệt là những năm nửa cuối của thế kỷ, giáo dục ở tất cả các quốc gia trên thế giới đã trở thành một hoạt động được tổ chức đặc biệt, đạt tới trình độ cao, có chương trình kế hoạch, có nội dung, phương pháp hiện đại, diễn ra theo một nhịp độ khẩn trương. Hệ thống giáo dục quốc dân được xây dựng một cách khoa học, với nhiều cấp học, bậc học, nhiều loại hình trường, lớp, nhiều loại hình đào tạo đáp ứng nhu cầu học tập của mọi đối tượng, tạo cho 9
  10. xã hội trở thành một xã hội học tập và học tập suốt đời. Giáo dục đã trở thành động lực thực sự thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của xã hội loài người. III. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA GIÁO DỤC HỌC. 1.Đối tượng nghiên cứu của giáo dục học. Nghiên cứu một khoa học thường bắt đầu bằng việc xem xét đối tượng của nó. Bởi vì mỗi khoa học thường được phân biệt bởi 3 dấu hiệu đặc trưng đó là : đối tượng, phương pháp nghiên cứu và hệ thống các khái niệm, phạm trù của chuyên ngành khoa học. Đối tượng nghiên cứu của một khoa học là một phần của thế giới khách quan, mà lĩnh vực khoa học đó tập trung nghiên cứu khám phá, để tìm ra bản chất và quy luật hoạt động của nó. Mỗi khoa học nghiên cứu một khía cạnh của thế giới, tập hợp các khoa học sẽ nghiên cứu toàn bộ thế giới. Do đó, việc xác định đúng đối tượng của chuyên ngành khoa học giúp cho các nhà nghiên cứu đi đúng trọng tâm, không lệch hướng trong quá trình tìm tòi, sáng tạo. Khoa học hiện đại có trên hai nghìn bộ môn khác nhau, được phân thành các nhóm, các lĩnh vực chuyên ngành. Trong nhóm các khoa học xã hội có một bộ phận nghiên cứu về quá trình giáo dục con người. Đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học chính là quá trình giáo dục, một quá trình hoạt động đặc biệt trong các hoạt động của xã hội loài người. Khoa học giáo dục bao gồm hệ thống các bộ môn sau đây : - Lịch sử giáo dục. - Giáo dục học. - Giáo dục học chuyên biệt. - Lý luận dạy học bộ môn. Giáo dục học là một bộ môn của khoa học giáo dục nằm trong các khoa học xã hội. Giáo dục học có liên quan chặt chẽ với Tâm lý học, Tâm lý học lứa tuổi, Tâm lý học sư phạm, Sinh lý học lứa tuổi, Lôgic học, Phương pháp giảng dạy bộ môn… Giáo dục học đại cương bao gồm bốn phần : - Những vấn đề lý luận chung - Lý luận dạy học - Lý luận giáo dục - Lý luận quản lý nhà trường. Mỗi phần có nội dung nghiên cứu đặc trưng. 2. Nhiệm vụ của giáo dục học: Giáo dục học là một lý thuyết khoa học, bao gồm một hệ thống các luận điểm về quá trình giáo dục có các nhiệm vụ sau : 2.1 Giải thích nguồn gốc phát sinh và bản chất của hiện tượng giáo dục, tìm ra các quy luật chi phối quá trình giáo dục, chi phối sự phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân, nhằm tổ chức quá trình giáo dục đạt tới hiệu quả cao nhất. 2.2 Xây dựng chương trình giáo dục và đào tạo dựa trên cơ sở dự đoán xu hướng phát triển của xã hội hiện đại, khả năng phát triển của khoa học và công nghệ trong tương lai. 2.3 Nghiên cứu, tìm tòi các phương pháp và phương tiện giáo dục mới trên cơ sở các thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. 2.4 Nghiên cứu xây dựng các lý thuyết giáo dục mới và các khả năng ứng dụng các lý thuyết mới ấy vào thực tiễn giáo dục. Tóm lại, nhiệm vụ của giáo dục học là nghiên cứu bản chất và các quy luật của quá trình giáo dục để xây dựng các lý thuyết khoa học giáo dục và chỉ ra con đường ứng dụng chúng vào thực tiễn. Do đó, việc nắm vững lý thuyết giáo dục học giúp cho các nhà giáo dục nâng cao văn hóa sư phạm, giúp cho các bậc phụ huynh có những hiểu biết chung để giáo dục các thành viên trong gia đình. 10
  11. 3. Phương pháp nghiên cứu của giáo dục học. Bất kỳ một ngành khoa học nào muốn phát triển cũng phải được nghiên cứu cho nên đòi hỏi phải có phương pháp. Phương pháp nghiên cứu nói chung là con đường, là cách thức tác động vào đối tượng để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu nhằm đạt được mục đích đã đặt ra, đồng thời phương pháp được coi như là công cụ để nhận thức khoa học. Cơ sở phương pháp luận của Giáo dục học đó là chủ nghĩa Marx – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với tất cả các bộ phận hợp thành của nó : Triết học [Duy vật biện chứng + Duy vật lịch sử], Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa Xã hội khoa học… Phương pháp nghiên cứu giáo dục học là cách thức mà nhà khoa học sử dụng để khám phá bản chất và quy luật của quá trình giáo dục nhằm vận dụng chúng vào việc cải tạo thực tiễn giáo dục. Các phương pháp nghiên cứu giáo dục học có thể chia thành 3 nhóm sau đây: 3.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nhóm này bao gồm các phương pháp cụ thể sau : - Phương pháp phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá thông tin tư liệu. - Đề xuất và chứng minh một giả thuyết. - Xây dựng các mô hình giả định. 3.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn giáo dục: Gồm : - Quan sát [theo chương trình chủ động để tìm ra quy luật vận động]. - Điều tra toàn diện để xác định đặc điểm, quy luật phát triển. Có thể điều tra quan điểm, tâm trạng, nguyện vọng bằng hệ thống câu hỏi. - Nghiên cứu sản phẩm hoạt động của nhà giáo và học sinh để phát hiện trình độ nhận thức, phương pháp và chất lượng hoạt động của họ để tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng quá trình đào tạo. - Thực nghiệm giáo dục : đây là phương pháp tổ chức các hoạt động giáo dục theo một giả thuyết giáo dục bằng cách đưa vào đó những yếu tố mới, những điều kiện khác thường. Nếu giả thuyết được khẳng định nghĩa là lý thuyết được xác lập và có thể ứng dụng vào thực tiễn. - Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm giáo dục. - Phương pháp chuyên gia : đây là phương pháp sử dụng trí tuệ của đội ngũ chuyên gia có trình độ cao để đánh giá một công trình khoa học giáo dục hoặc tìm ra những giải pháp tối ưu cho sự kiện giáo dục nào đó. 3.3. Nhóm phương pháp toán học. Trong nghiên cứu khoa học giáo dục, Toán học được sử dụng rộng rãi với 2 mục đích : Một là, sử dụng các lý thuyết toán học, các phương pháp logic toán học để xây dựng các lý thuyết giáo dục hoặc xác định các thông số liên quan đến đối tượng nghiên cứu một cách nhất quán. Hai là, dùng toán thống kê để xử lý các tài liệu, số liệu thu thập được từ các phương pháp khác nhau để từ đó cho ta những số liệu khái quát chính xác đáng tin cậy về đối tượng. Tóm lại, trong khoa học nói chung, giáo dục học nói riêng đối với một đề tài nghiên cứu người ta thường sử dụng phối hợp các phương pháp với nhau, nhằm mục đích bổ khuyết cho nhau, kiểm tra lẫn nhau để tìm ra các kết quả khách quan và chân thực. Các phương pháp nghiên cứu được lựa chọn, sử dụng tuỳ theo mục đích, nội dung, đặc điểm của đối tượng nghiên cứu; không có phương pháp nào là vạn năng. IV.NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA GIÁO DỤC HỌC Giáo dục học có một hệ thống các khái niệm có mối liên hệ với nhau tạo thành lý thuyết chặt chẽ, ta có thể liệt kê đến và làm rõ các khái niệm cơ bản sau đây : 11
  12. 1.Giáo dục. Giáo dục là khái niệm cơ bản, quan trọng nhất của giáo dục học. Về bản chất, giáo dục là quá trình truyền đạt và tiếp thu những kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người. Về hoạt động, giáo dục là quá trình tác động đến các đối tượng giáo dục để hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách. Về mặt phạm vi, khái niệm giáo dục bao hàm nhiều cấp độ khác nhau: + Ở cấp độ rộng nhất, giáo dục được hiểu đó là quá trình xã hội hoá con người. Quá trình xã hội hoá con người là quá trình hình thành nhân cách dưới ảnh hưởng của tác động chủ quan và khách quan, có ý thức và không có ý thức của cuộc sống, của hoàn cảnh xã hội đối với các cá nhân. + Ở cấp độ thứ hai, giáo dục có thể hiểu là giáo dục xã hội. Đó là hoạt động có mục đích của xã hội, với nhiều lực lượng giáo dục, tác động có hệ thống, có kế hoạch đến con người để hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách. + Ở cấp độ thứ ba, giáo dục được hiểu là quá trình sư phạm. Quá trình sư phạm là quá trình tác động có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của các nhà sư phạm trong nhà trường tới học sinh nhằm giúp học sinh nhận thức, phát triển trí tuệ và hình thành những phẩm chất nhân cách. Ở cấp độ này, giáo dục bao gồm : Quá trình dạy học và quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp. + Ở cấp độ thứ tư, Giáo dục được hiểu là quá trình bồi dưỡng để hình thành những phẩm chất đạo đức cụ thể, thông qua việc tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu. 2. Giáo dưỡng. Giáo dưỡng là quá trình cung cấp kiến thức khoa học, hình thành phương pháp nhận thức và kỹ năng thực hành sáng tạo cho học sinh thông qua con đường dạy học. Như vậy, giáo dưỡng là quá trình bồi dưỡng học vấn cho học sinh. 3. Dạy học. Dạy học là khái niệm chỉ hoạt động chung của người dạy và người học, hai hoạt động này song song tồn tại và phát triển trong cùng một quá trình thống nhất. Quá trình này là một bộ phận hữu cơ của quá trình sư phạm tổng thể, trong đó : - Vai trò của nhà sư phạm là định hướng tổ chức, thực hiện việc truyền thụ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo hình thành năng lực và thái độ đúng đắn, tạo ra động lực cho việc học với tư cách là chủ thể sáng tạo, hình thành nhân cách bản thân. Theo quan điểm tiếp cận hệ thống thì vai trò chủ đạo của giáo viên luôn có ý nghĩa đặc biệt với việc đảm bảo chất lượng của học sinh trong học tập. - Vai trò chủ động, tích cực, năng động của học sinh trong học tập có ý nghĩa là chủ thể sáng tạo, không thể thay thế, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển trí tuệ, lĩnh hội kiến thức và hoàn thiện nhân cách của bản thân.  “ Kết quả trực tiếp của quá trình dạy học là học vấn bao gồm cả phương pháp [phương pháp nhận thức và phương pháp hành động] và năng lực chuyên biệt của người học”. 4. Giáo dục hướng nghiệp. Giáo dục hướng nghiệp cũng là một yêu cầu và cũng là một nội dung giáo dục chủ yếu đối với học sinh phổ thông. Đó là hệ thống những tác động giúp cá nhân lựa chọn các công việc hoặc nghề thích hợp, phù hợp với nguyện vọng và năng lực cá nhân nhằm đáp ứng các nhu cầu về kinh tế và lao động của xã hội. 12
  13. 5. Giáo dục cộng đồng. Giáo dục cộng đồng được xem như là một tư tưởng, một cách làm mới mẻ nhằm xây dựng mối quan hệ bền vững, gắn bó giữa giáo dục với các quá trình xã hội, với lợi ích và đời sống của cộng đồng. Giáo dục cộng đồng được xem là cách thức tốt và có hiệu quả nhằm tạo ra những điều kiện, cơ hội để thực hiện sự công bằng xã hội, tạo lập nền tảng cho sự phát triển và sự ổn định của xã hội. Giáo dục cộng đồng được tổ chức một cách hệ thống mang tính phổ biến [toàn cầu] nhưng cũng đậm nét bản sắc dân tộc, truyền thống, tinh hoa văn hoá của từng dân tộc, từng cộng đồng và lợi ích thiết thân của mọi thành viên trong cộng đồng. 6. Công nghệ giáo dục. Đây là khái niệm được dùng trong các tài liệu giáo dục ở nước ta vài ba chục năm gần đây. Theo nguồn gốc, khái niệm công nghệ chỉ dùng trong lĩnh vực công nghệ và kỹ thuật, trong quá trình sản xuất vật chất nói chung với ý nghĩa chỉ một quy trình chặt chẽ trong hoạt động khoa học kỹ thuật, trong quá trình sản xuất hay còn gọi là quy trình vận hành hoạt động. Từ khi các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ xâm nhập tức là được áp dụng vào tất cả các quá trình xã hội thì người ta đã tìm cách áp dụng nó vào quá trình dạy học nhằm giảm bớt lao động nặng nhọc của lao động sư phạm để nâng cao hiệu quả giáo dục, dạy học. Công nghệ giáo dục hàm nghĩa là việc thiết kế quá trình dạy học và lĩnh hội tri thức có tính đến cách sử dụng các phương tiện kỹ thuật và nguồn nhân lực trong sự tương tác giữa chúng với nhau nhằm tối ưu hoá quá trình dạy học và đào tạo. Công nghệ giáo dục tạo ra những cải tiến rõ rệt, nổi bật nhất là trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch giảng dạy, học tập, việc tổ chức quá trình học tập, thi, kiểm tra và đánh giá. Tuy nhiên, nếu đưa toàn bộ quá trình sư phạm trở thành hoạt động manh tính chất một quy trình công nghệ thì lại rơi vào một sai lầm đáng tiếc, bởi sẽ dẫn tới “vi phạm mục đích nhân văn của giáo dục”. Thực tiễn giáo dục từ xưa đến nay cho thấy rằng trong hoạt động giáo dục không có phương pháp, hình thức hay phương tiện giáo dục nào dù là hiện đại có tác dụng vạn năng, có thể thay thế cho hoạt động sáng tạo của mỗi người. Trên đây là một số khái niệm cơ bản của Giáo dục học. Trong quá trình học tập, nghiên cứu về giáo dục, người nghiên cứu cần tìm hiểu các khái niệm khác liên quan đến đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu của đề tài. Các khái niệm cơ bản đó được nêu cụ thể trong Từ điển Giáo dục học. CÂU HỎI ÔN TẬP, THẢO LUẬN 1. Hãy giải thích nguồn gốc phát sinh của hiện tượng giáo dục? 2. Nêu và phân tích các tính chất của giáo dục? 3. Phân biệt giáo dục và giáo dục học? 4. Hãy trình bày đối tượng nghiên cứu của giáo dục học? 5. Nhiệm vụ giáo dục học? 6. Phân tích làm sáng tỏ các khái niệm cơ bản của giáo dục học? 7. Trình bày hệ thống các phương pháp nghiên cứu của giáo dục học? 8. Hiểu biết của anh, chị về lịch sử giáo dục ? 13
  14. CHƯƠNG 2 GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH I. SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CỦA CON NGƯỜI. 1.Khái niệm con người. Từ trước đến nay có rất nhiều ngành khoa học nghiên cứu con người và người ta đã gọi con người bằng những từ ngữ chứa đựng những nội dung khác nhau dựa trên mục đích và phương tiện nghiên cứu của từng ngành khoa học. - Có quan niệm cho rằng : Con người như là một sự tồn tại “thần bí” – đó là con người mà mắt ta không trông thấy được. Con người này điều khiển con người thể xác. Đây là quan điểm phản khoa học; chính quan điểm sai lầm này làm cho người thiếu hiểu biết, đi vào con đường mê tín dị đoan, tin vào bói toán, số mệnh. - Một quan niệm khác cho rằng có “con người bản năng” coi con người là một tồn tại sinh vật, mọi sự sống của con người cũng như mọi thứ con người làm ra đều hoàn toàn bắt nguồn từ bản năng. Đây cũng là một lý thuyết sai lầm mà hậu quả của nó là dẫn đến lối sống tự do, tuỳ tiện và tha hoá. Trên thực tế, con người có bản năng sinh tồn nhưng bản năng của con người khác hẳn về chất so với bản năng động vật. Con người sống có ý thức, có trí tuệ và ngày càng văn minh. - Khi nhận ra vai trò to lớn của công cụ lao động đối với sự phát triển của xã hội loài người, để chỉ một tồn tại sống biết sử dụng công cụ lao động, người ta đã đưa ra khái niệm “con người kỹ thuật”. - Khi xã hội có sự phân chia giai cấp, hình thành thể chế xã hội với hệ thống chính trị của mình, lúc ấy xuất hiện lý thuyết “con người chính trị”. Gần gũi với quan niệm này, có người cho rằng có “con người xã hội” nhằm chỉ rõ mặt tồn tại xã hội của con người nói chung… - Khác với các lý thuyết, các quan điểm trên, K.Marx đã đưa ra một quan điểm rất khoa học về con người : “ Bản chất con người không phải là cái gì trừu tượng, vốn có của mỗi cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Quan điểm của K.Marx nêu rõ : + Trong con người tồn tại rất nhiều mối quan hệ. + Bản chất của con người không phải là cái gì chung chung hoặc không thể thay đổi được mà nó được thể hiện trong đời sống thực tiễn. + Vừa nhấn mạnh tính xã hội trong con người và vừa thấy được sức sống tự nhiên của con người. + Con người là chủ thể của lịch sử, của mọi giá trị, của mọi nền văn minh. - Hiện nay, ở Việt Nam, trong chiến lược phát triển đất nước con người được xem là mục tiêu, là vị trí trung tâm, là động lực của sự phát triển đất nước. 2. Khái niệm nhân cách. Một con người, khi đại diện cho loài người là một cá thể, khi là thành viên của xã hội thì con người là một cá nhân, khi là chủ thể hoạt động thì con người trở thành một nhân cách. Khi nói đến nhân cách, người ta thường nhấn mạnh đến một trong những yếu tố quan trọng nhất là định hướng giá trị. Đó cũng chính là cái lõi của nhân cách, bao gồm : - Các giá trị tư tưởng : lý tưởng, niềm tin, dân chủ, độc lập tự do… - Các giá trị đạo đức : lương tâm, lòng nhân ái, nghĩa vụ, trách nhiệm, lòng trung thực, tính kỷ luật… - Các giá trị nhân văn : học vấn, nghề nghiệp, tình yêu, thời trang, tài năng, thái độ, sở thích đối với một giá trị nào đó… Định hướng giá trị bao giờ cũng được hình thành và củng cố bởi năng lực nhận thức, bởi kinh nghiệm sống của cá nhân qua quá trình thể nghiệm lâu dài. Người Việt Nam khi nói đến nhân cách thường quan niệm đó là sự thống nhất giữa phẩm chất và năng lực tức là giữa đức và tài của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Có tài 14
  15. mà không có đức chỉ là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Bởi vậy, tu dưỡng và rèn luyện bản thân để trở thành nhân cách vừa có đức vừa có tài là hết sức quan trọng đối với mỗi người, là nhiệm vụ hàng đầu của thanh niên, học sinh, sinh viên. Tóm lại, nhân cách là bộ mặt tâm lý đặc trưng của một cá nhân, với tổ hợp những phẩm chất phù hợp với những giá trị và chuẩn mực xã hội, được xã hội thừa nhận. 3. Sự phát triển nhân cách Các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng, con người vốn sinh ra chưa có nhân cách. Chính trong quá trình sống, học tập, lao động, giao lưu, vui chơi, giải trí… con người đã tự hình thành và phát triển nhân cách của mình chủ yếu theo quy luật lĩnh hội các di sản văn hoá vật chất và tinh thần do các thế hệ trước để lại trong các công cụ lao động, các công trình kiến trúc, các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật, chính trị, quân sự… Chính bằng các hoạt động xã hội, con người ngay từ khi còn nhỏ đã dần dần lĩnh hội nội dung văn hoá của nhân loại chứa đựng trong các mối quan hệ xã hội có liên quan tới mọi hoạt động của con người. V.I. Lênin đã nói một cách rất hình ảnh rằng: “Cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lý, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên”. Sự phát triển nhân cách thường bao gồm các mặt phát triển sau đây: + Sự phát triển về mặt thể chất: Biểu hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, cân nặng, cơ bắp và sự hoàn thiện của các giác quan… Đó là những biểu hiện dễ thấy nhất ở mỗi con người; + Sự phát triển về mặt tâm lý: Biểu hiện ở những biến đổi cơ bản trong quá trình nhận thức, tình cảm, ý chí, nhu cầu, nếp sống, thói quen… nhất là ở sự hình thành và phát triển các thuộc tính tâm lý mới của nhân cách; + Sự phát triển về mặt xã hội: Biểu hiện ở tính tích cực, tự giác tham gia vào các mặt khác nhau của đời sống xã hội cũng như những thay đổi trong việc ứng xử, giao tiếp với mọi người xung quanh. Như vậy, sự phát triển nhân cách cần được hiểu là một quá trình cải biến toàn bộ sức mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần của con người. Đó là sức mạnh mang tính bản chất của con người. Đó không chỉ là những biến đổi về lượng mà điều quan trọng là những sự biến đổi về chất trong mỗi con người và sự chuyển hoá giữa chúng cho nhau, là bước nhảy vọt của từng cá nhân về năng lực và phẩm hạnh phù hợp với sự phát triển và yêu cầu đặt ra của xã hội và thời đại. Đồng thời sự phát triển nhân cách của con người chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có các yếu tố tự nhiên và các yếu tố xã hội. II. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH Sự phát triển của mỗi con người để trở thành một nhân cách là một quá trình diễn biến phức tạp và nó bị chi phối bởi các yếu tố : yếu tố sinh học, yếu tố môi trường, yếu tố hoạt động, yếu tố giáo dục. 1.Yếu tố sinh học [ Yếu tố di truyền]. Di truyền là sự tái tạo hay là sự kế thừa những phẩm chất sinh vật của thế hệ con cháu từ thế hệ cha ông, mang dấu ấn đặc trưng nòi giống. Những đặc điểm sinh học được truyền lại từ cha mẹ đến con cái được ghi lại thành một chương trình độc đáo gọi là mã di truyền hay là hệ thống gien. Ví dụ như màu mắt, màu da, màu tóc, vóc dáng, thể trạng, các đặc điểm hệ thần kinh, dáng đi thẳng đứng… Một số thuộc tính sinh học có được khi đứa trẻ mới sinh gọi là thuộc tính bẩm sinh. Vậy di truyền có vai trò như thế nào đối với sự phát triển nhân cách? -Nhờ có đặc điểm di truyền mà đặc điểm loài được giữ lại, được phát triển và hoàn thiện. - Di truyền đặc biệt là di truyền lại những đặc điểm về cấu tạo cơ thể, loại hình thần kinh, về chức năng hoạt động của chúng sẽ tạo thành sức sống tự nhiên của con người. Sức sống tự nhiên là những tiền đề vật chất có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách. 15
  16. - Mỗi con người ít nhiều có một khả năng bẩm sinh nào đó tức là những tư chất có sẵn trong cấu tạo của não, các cơ quan vận động hoặc ngôn ngữ… đây là điều kiện để có thể thực hiện có kết quả một hoạt động cụ thể nếu được phát hiện và bồi dưỡng. Ví dụ : Hiện nay một số gia đình liên tục xuất hiện nhiều người có tài qua nhiều thế hệ. Có được điều này, một mặt do sự di truyền những tư chất nhất định, một mặt do sự giáo dục đến nơi đến chốn. - Tuy nhiên trong quá trình phát triển của con người, các thuộc tính tâm lý phức tạp hay sự phát triển về mặt xã hội [ý thức, thế giới quan, niềm tin, đạo đức…] thì không có trong một chương trình di truyền nào cả mà nó được hình thành và phát triển bởi hoàn cảnh sống, hoạt động, giao tiếp và giáo dục của mỗi người. Nói tóm lại, chúng ta cần đánh giá đúng vai trò của yếu tố sinh học để vừa thấy được vị trí quan trọng của nó, vừa không tuyệt đối hoá vai trò của di truyền trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Nếu tuyệt đối hoá hoặc đánh giá quá cao ảnh hưởng của nhân tố này sẽ dẫn đến sai lầm về nhận thức luận, về những chính sách giáo dục không phù hợp, sai trái hoặc phủ nhận, hạ thấp vai trò của các yếu tố khác. 2. Yếu tố môi trường. Bên cạnh yếu tố sinh học, con người trong quá trình phát triển để trở thành nhân cách còn chịu tác động của môi trường sống. Môi trường là hệ thống phức tạp những hoàn cảnh bên ngoài, kể cả các điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người. Có hai loại môi trường : môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. - Môi trường tự nhiên là điều kiện địa lý – hệ sinh thái xung quanh con người. - Môi trường xã hội : là điều kiện sống trong xã hội bao gồm môi trường chính trị, môi trường sản xuất – kinh tế, môi trường sinh hoạt xã hội và môi trường văn hoá với các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau, giữa các cá nhân với tập thể, với xã hội và ngược lại. Cả hai loại môi trường có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, hoạt động và phát triển nhân cách. Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển thể chất. Vị trí địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống và hoạt động của con người. Môi trường xã hội góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và điều kiện cho hoạt động giao lưu của cá nhân, trong đó : + Gia đình là môi trường sống đầu tiên của con người. Mức sống, trình độ văn hoá, thói quen, nếp sống của gia đình, mối quan hệ tình cảm giữa các thành viên, tính mẫu mực của người lớn, phương pháp giáo dục của gia đình có ảnh hưởng hàng ngày, hàng giờ đến đứa trẻ. + Tập thể nhóm bạn bè, đoàn thể… vừa là môi trường vừa là phương tiện để con người hoạt động và giao lưu. Ở đó, con người sẽ chọn được những gì phù hợp với sở trường, xu hướng, năng lực của mình để hoạt động và lớn lên, loại bỏ những gì không phù hợp đối với bản thân. Tác động này vừa có ý thức vừa không ý thức [mang tính tự nhiên, ngẫu nhiên]. + Rộng lớn hơn là thể chế chính trị, luật pháp, hệ tư tưởng, trình độ dân trí, truyền thống văn hoá dân tộc, trình độ phát triển kinh tế, sản xuất vừa ảnh hưởng vừa quy định chiều hướng nội dung của nền giáo dục xã hội cũng như chiều hướng phát triển của từng cá nhân. + Các mối quan hệ phức tạp ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực, đó chính là quá trình xã hội hoá con người. Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân cách còn tuỳ thuộc vào lập trường, quan điểm, xu hướng, thái độ, năng lực của cá nhân đối với ảnh hưởng đó, bởi vì, trong chừng mực nhất định con người còn tham gia vào cải tạo môi trường. Hai mặt nói trên có mối liên quan ảnh hưởng lẫn nhau. Về mối quan hệ này, K.Marx đã chỉ ra rằng : “ Hoàn cảnh đã sáng tạo ra con người, trong chừng mực nhất định con người đã sáng tạo ra hoàn cảnh”. 16
  17. 3. Yếu tố hoạt động. Con người sống luôn luôn hoạt động, hoạt động là phương thức tồn tại và cũng là con đường hình thành và phát triển nhân cách. Con người hoạt động như thế nào thì nhân cách phát triển như thế ấy. Nội dung, phương thức, mục đích và ý thức của mỗi cá nhân trong hoạt động tạo nên những nét tính cách riêng của từng người. Do đó, hoạt động tích cực là con đường để tiến thân, để thành đạt để vươn tới hạnh phúc cá nhân. Mỗi con người là sản phẩm của chính bản thân mình. Trong cuộc sống của con người, hoạt động và giao lưu là hai mặt cơ bản, thống nhất với nhau. Trong bất cứ hoạt động nào, con người cũng tham gia vào những quan hệ xã hội nhất định. Tính đa dạng của hoạt động tạo nên tính đa dạng của giao lưu. Chính trong tính đa dạng của hoạt động và giao lưu đó sẽ giúp con người chiếm lĩnh những giá trị đích thực của cuộc sống. Trong giao lưu, con người tìm ra lẽ phải, chân lý, rút được kinh nghiệm sống từ đó tạo nên lối sống, hành vi sống có văn hoá, hình thành những nét tính cách điển hình. Liên quan chặt chẽ tới hoạt động của con người là nhu cầu. Nhu cầu giữ vai trò động lực bên trong của hoạt động, nhưng hoạt động lại là điều kiện nảy sinh nhu cầu. Đó là quan hệ hai chiều khăng khít thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh và phát triển hàng loạt các yếu tố tâm lý phức tạp trong mỗi cá nhân. Tóm lại, hoạt động của cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Hoạt động chính là cơ sở, là nhân tố trực tiếp tạo nên sự phát triển nhân cách. Do đó, trong việc giáo dục học sinh cần coi trọng việc xây dựng nhu cầu, động cơ, mục đích hoạt động cho các em. Với nội dung và hình thức hoạt động đa dạng, phong phú cùng với những phương pháp khéo léo đối xử sư phạm, nhà giáo hoàn toàn có thể thực hiện được các yêu cầu giáo dục đặt ra đối với học sinh. Đó cũng chính là cơ sở hình thành và phát triển nhân cách học sinh. 4. Yếu tố giáo dục. Giáo dục là sự dẫn dắt của thế hệ trước đối với thế hệ sau, một sự dẫn dắt theo mục đích, có kế hoạch, có phương pháp. Giáo dục là con đường ngắn nhất giúp thế hệ trẻ phát triển bỏ qua những mò mẫm, vấp váp không cần thiết trong cuộc đời của một con người. - Đối với sự tiến bộ kinh tế - xã hội, sự phát triển con người và giáo dục được coi là yếu tố quan trọng to lớn. Trên thực tế giáo dục là nhân tố rất cơ bản để biến đổi lực lượng sản xuất. Không phát triển giáo dục thì không thể thực hiện được cách mạng khoa học kỹ thuật. Giáo dục là yếu tố rất quan trọng để góp phần nâng cao năng suất lao động. Đồng thời, giáo dục cũng là nhân tố tích cực trong việc cải tạo, xây dựng, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất mới. - Giáo dục có các loại : giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội và tự giáo dục. Trong các loại giáo dục đó thì giáo dục nhà trường có vai trò quan trọng nhất đối với sự hình thành và phát triển nhân cách : + Nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, có đội ngũ các nhà sư phạm được đào tạo, nội dung chương trình được chọn lọc, phương pháp giáo dục phù hợp với mọi lứa tuổi, có phương tiện kỹ thuật phục vụ cho giáo dục. Mục đích giáo dục của nhà trường phù hợp với xu thế phát triển xã hội và thời đại. Bằng kiến thức và phương pháp khoa học, bằng hình thức tổ chức hợp lý sư phạm trong các hoạt động và giao lưu, giáo dục nhà trường tạo nên bộ mặt tâm lý cá nhân phù hợp với những chuẩn mực giá trị xã hội và thời đại. + Giáo dục gia đình được tiến hành trong cả cuộc đời một con người. Với đặc điểm chủ yếu là quan hệ tình yêu, pháp lý, huyết thống, giáo dục gia đình được xây dựng trên cơ sở tình cảm bền chặt có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nhân cách. Đây là loại giáo dục cực kỳ quan trọng không thể coi thường. + Giáo dục xã hội với thể chế chính trị, pháp luật, truyền thống văn hoá, đạo đức… được thực hiện qua hệ thống tổ chức nhà nước, hệ thống truyền thông đại chúng, qua dư luận xã hội, giáo dục đoàn thể quần chúng… góp phần quan trọng cho sự phát triển nhân cách. + Tự giáo dục là bước tiếp theo nhưng quyết định kết quả của toàn bộ quá trình giáo dục. Tự giáo dục, tự tu dưỡng là hoạt động có ý thức, là giai đoạn phát triển cao của nhân cách. 17
  18. Như vậy, trong sự hình thành và phát triển nhân cách, giáo dục là yếu tố giữ vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo của giáo dục được thể hiện ở những điểm sau: + Giáo dục không chỉ vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách mà còn tổ chức, dẫn dắt quá trình đó theo chiều hướng, mục đích xác định. + Giáo dục có thể mang lại những tiến bộ mà những nhân tố khác như bẩm sinh – di truyền hoặc môi trường hoàn cảnh khó có thể có được. + Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt với người bị khuyết tật. Giáo dục có thể giúp họ khắc phục, bù đắp lại những thiếu hụt do khuyết tật của cơ thể, tinh thần hoặc rủi ro, bệnh tật, giúp con người hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng. Hơn thế nữa có thể giúp họ phát triển trí tuệ như những người bình thường [thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký, nhạc sĩ chơi ghita nổi tiếng - Văn Vượng…]. - Môi trường xã hội ngoài những ảnh hưởng tích cực còn gây ra những ảnh hưởng tiêu cực, tự phát có tác động xấu đến con người. Giáo dục có thể lựa chọn môi trường tốt, uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu của con người làm cho nó phát triển một cách lành mạnh hơn. Đó chính là hiệu quả của công tác giáo dục lại đối với trẻ em hư hoặc những người phạm pháp. - Khác với các nhân tố khác, giáo dục không chỉ thích ứng mà còn có thể đi trước hiện thực và thúc đẩy nó phát triển. Điều đó có giá trị định hướng cho việc xây dựng mô hình nhân cách con người Việt Nam mới với tư cách là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. - Giáo dục là giải pháp hữu hiệu nhằm từng bước khắc phục vấn đề “Bùng nổ dân số”. Bởi : + Giáo dục làm cho người phụ nữ dễ kiếm được việc làm ngoài công việc ở gia đình do đó họ không muốn sinh đẻ nhiều lần. + Giáo dục làm tăng ước vọng cho con người được học hành, công ăn việc làm tốt hơn. Ước vọng đó dễ dàng thực hiện ở gia đình ít con. + Giáo dục và việc làm làm thay đổi địa vị kinh tế - xã hội của phụ nữ làm cho họ ít bị phụ thuộc vào con cái khi tuổi già. + Giáo dục làm cho tuổi kết hôn muộn đi, làm giảm bớt khoảng thời gian sinh đẻ của phụ nữ. Tóm lại, Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách nhưng giáo dục không phải là yếu tố “vạn năng”, giáo dục không thể thay thế được cách mạng xã hội. Để cho giáo dục giữ vai trò chủ đạo, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục và tự giáo dục; giáo dục phải phù hợp với phương thức sản xuất tiên tiến của xã hội; nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của đối tượng giáo dục và đồng thời phải đưa học sinh vào những hoạt động giao lưu phong phú, đa dạng để từ đó hình thành và phát triển nhân cách. KẾT LUẬN: Sự phát triển nhân cách của con người là toàn bộ sự phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, nó bị chi phối bởi hàng loạt những yếu tố chủ quan và khách quan. Nhân cách con người là tổ hợp những phẩm chất tâm lý của cá nhân. Sự phát triển nhân cách được thực hiện dưới ảnh hưởng của hệ thống các quan hệ xã hội mà con người sống, hoạt động và giao lưu. Giáo dục với tư cách là một hoạt động đặc biệt có vai trò chủ đạo, có ảnh hưởng quyết định đối với sự phát triển nhân cách. Một nhân cách tốt đẹp không thể phát triển ngoài giáo dục và một nền giáo dục tiên tiến không thể tạo ra những con người hư hỏng. 18
  19. CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 1. Trình bày khái niệm con người, nhân cách? 2. Anh, chị hiểu thế nào về sự phát triển nhân cách? 3. Di truyền và vai trò của di truyền đối với sự hình thành và phát triển nhân cách? 4. Vai trò của môi trường đối với sự hình thành và phát triển nhân cách? 5. Yếu tố hoạt động cá nhân có vai trò gì đối với sự hình thành và phát triển nhân cách? 6. Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách? 7. Tại sao nói, giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách? 8. Có những quan điểm khác nhau về sự phát triển nhân cách : - Nhân cách được hình thành bởi xã hội; những đặc điểm sinh học của con người thì hoàn toàn không có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình đó. - Nhân cách được hình thành là do nhân tố di truyền quyết định, không xã hội nào có thể thay đổi cái mà tự nhiên đã đặt sẵn trong con người. - Giáo dục là yếu tố “vạn năng” quyết định sự phát triển nhân cách. Ý kiến của anh, chị về các quan điểm nêu trên? Hãy xác định quan điểm đúng về sự phát triển nhân cách và các yếu tố tác động đến sự phát triển nhân cách? 19
  20. CHUƠNG 3 MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ GIÁO DỤC I. MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC. 1. Khái niệm về mục đích giáo dục. Mục đích giáo dục là một phạm trù cơ bản của giáo dục học, có vị trí quan trọng trong lí luận và thực tiễn giáo dục. Theo nghĩa thông thường, mục đích giáo dục là cái đích cần đạt tới của sự nghiệp giáo dục, được xây dựng trước khi tiến hành các hoạt động giáo dục cụ thể. Và đó là dự kiến về sản phẩm giáo dục. Mục đích giáo dục khi đã được xây dựng một cách chính xác, khoa học, trở thành chính thống có hai chức năng : - Một là, mục đích giáo dục sẽ trở thành phương hướng chỉ đạo toàn bộ quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động giáo dục. - Hai là, mục đích giáo dục trở thành tiêu chuẩn để đánh giá sản phẩm giáo dục sẽ đạt được trong tương lai. Là hình ảnh lý tưởng về chất lượng của sản phẩm giáo dục mới, do đó, mục đích giáo dục thường cao hơn thực tế, nó đòi hỏi sự phấn đấu liên tục của toàn xã hội, của nhà trường, của các nhà sư phạm. Tuy nhiên, mục đích giáo dục sẽ là cái hiện thực trong tương lai, cho nên nó được xây dựng trên cơ sở thực tiễn, và phải tính toán đến điều kiện, khả năng thực hiện. Như vậy, mục đích giáo dục là sự thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực, giữa hiện tại và tương lai của giáo dục. 2. Cơ sở để xây dựng mục đích giáo dục. Mục đích giáo dục được xây dựng dựa trên những cơ sở sau đây : a. Dựa theo chiến lược phát triển xã hội, phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ quốc gia. b. Dựa theo yêu cầu của đất nước của thời đại đối với nhân cách thế hệ trẻ, theo nhu cầu phát triển nhân lực xã hội và đặc điểm của các loại nhân lực đó. c. Dựa theo xu hướng phát triển của nền giáo dục quốc gia và quốc tế; dựa vào trình độ và khả năng thực hiện của hệ thống giáo dục quốc dân. d. Tính toán đến những điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội, những kinh nghiệm và truyền thống giáo dục, khả năng của xã hội để thực hiện mục đích giáo dục. 3. Mục đích giáo dục Việt Nam. Mục đích được xem xét ở các cấp độ khác nhau, các cấp độ này hình thành hệ thống có thứ bậc, có phân nhánh tạo thành “cây mục tiêu”. 3.1. Ở cấp độ xã hội. Mục đích giáo dục là cái đích chung của toàn bộ sự nghiệp giáo dục. Mục đích giáo dục xã hội hướng tới phát triển tối đa năng lực của từng cá nhân, giúp họ hoà nhập vào cuộc sống xã hội, đóng góp nhiều nhất sức lực và trí tuệ của mình thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Thứ nhất, Đối với toàn xã hội, mục đích của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. + Về nâng cao dân trí : Giáo dục là quá trình truyền đạt kinh nghiệm và lịch sử xã hội của các thế hệ loài người. Quá trình này giúp cho mỗi cá nhân tích lũy kiến thức, mở mang trí tuệ, hiểu biết, hình thành văn hoá, đạo đức, giúp xã hội được bảo tồn và phát triển. 20

Page 2

YOMEDIA

[NB] Phần 1 Giáo trình Giáo dục học đại cương trình bày các nội dung: Giáo dục học là một khoa học, giáo dục và sự phát triển nhân cách, mục đích, nhiệm vụ giáo dục. Mời bạn đọc tham khảo để hiểu rõ hơn về nội dung phần 1 tài liệu.

02-06-2014 1689 337

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Video liên quan

Chủ Đề