Gan chai phổi đá nghĩa là gì

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ CK II Phan Phi Tuấn, Trưởng khoa Ngoại tổng hợp, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Phú Quốc.

Tràn dịch màng bụng là sự tích tụ bất thường của các chất lỏng bên trong ổ bụng. Ở giai đoạn đầu, bệnh nhân không có những biểu hiện rõ rệt nên rất khó phát hiện bệnh. Đến khi tình trạng tràn dịch nặng, khiến da bụng căng lên kèm theo các triệu chứng căng tức, khó chịu bệnh nhân mới đi khám và tiến hành các xét nghiệm chẩn đoán bệnh.

1. Tràn dịch trong ổ bụng có nguy hiểm không?

Tràn dịch màng bụng nặng sẽ khiến da bụng căng lên, cảm giác nặng bụng và các triệu chứng như: khó thở, đau bụng, đầy hơi, nôn mửa, ợ nóng, rốn lồi ra... Mức độ nguy hiểm chủ yếu phụ thuốc nguyên nhân sinh ra nó.

Trường hợp tăng áp lực tĩnh mạch cửa do xơ gan, bệnh nhân bị tràn dịch màng bụng có thể bị phù chân, nam giới có hiện tượng vú lớn, nôn ra máu, mắc các bệnh lý não hoặc rối loạn thần kinh.

Trường hợp tràn dịch màng bụng do ung thư hoặc do các yếu tố từ nơi khác di căn đến có thể khiến bệnh nhân bị suy nhược kéo dài, sụt cân nghiêm trọng.

Trường hợp tràn dịch màng bụng do suy tim, bệnh nhân có thể thấy khó thở hoặc thở khò khè.

Trong chẩn đoán tràn dịch màng bụng có 3 cấp độ:

  • Cấp độ 1: tràn dịch màng bụng nhẹ, chỉ nhìn thấy trên CT Scanner và siêu âm.
  • Cấp độ 2: có thể phát hiện thông qua khám bằng cách sờ và gõ.
  • Cấp độ 3: tràn dịch màng bụng nặng, có thể nhìn thấy trực tiếp, có tiếng sóng võ khi dịch thay đổi di chuyển.

Màu sắc của dịch cũng cho thấy mức độ nguy hiểm của bệnh:

  • Nếu dịch trong suốt, không có màu: Bệnh nhân mắc bệnh tim.
  • Nếu dịch màu hồng: Bệnh nhân bị lao màng bụng hoặc ung thư.
  • Nếu dịch màu vàng chanh: Bệnh nhân bị lao màng bụng hoặc xơ gan.
  • Nếu dịch có màu đục như có mủ: Bệnh nhân bị viêm màng bụng có mủ.
  • Nếu dịch có màu trắng như sữa và đông lại như thạch: Bệnh nhân có dịch dưỡng chấp, có thể bị giun chỉ hoặc có khối u trong ổ bụng.

2.1. Chẩn đoán triệu chứng

Nhìn:

Quan sát bệnh nhân ở tư thế đứng và tư thế nằm:

  • Ở tư thế đứng: bụng chảy xệ, nhìn thấy rõ tuần hoàn bàng hệ nếu do xơ gan.
  • Ở tư thế nằm ngửa: có thể quan sát thấy bụng to bè ra hai bên, dù nằm nhưng rốn vẫn lồi lên, có tuần hoàn bàng hệ nếu do xơ gan, bụng bệnh nhân không chuyển động theo nhịp thở. Dịch thường đọng vùng thấp.

Sờ:

  • Trường hợp tình trạng bệnh nhẹ, dịch ít, khi sờ sẽ không cảm nhận thấy gì khác thường.
  • Trường hợp dịch trung bình hoặc nhiều: sờ vào bụng thấy bụng mềm. Nếu dịch nhiều sẽ có cảm giác căng như quả bóng.
  • Dấu hiệu sóng vỗ: một người lấy rìa bàn tay chắn nhẹ lên đường giữa bụng. Trong khi đó, bác sĩ sẽ lấy một bàn tay áp vào một bên thành bụng, tay còn lại búng hoặc vỗ nhẹ vào bên thành bụng đối diện sẽ thấy cảm giác có sóng vỗ vào lòng bàn tay đối diện. Đây được gọi là dấu hiệu sóng vỗ.
  • Dấu hiệu cục đá nổi: trường hợp trong bụng có một khối u hoặc gan, lá lách to sẽ thấy có dấu hiệu này. Khi lấy ngón tay ấn nhanh và bất ngờ vào thành bụng ở vị trí phía trên khối u sẽ thấy có cảm giác bị đụng trở lại ngón tay giống như một cục đá đang nổi trong nước.

Bụng to bất thường là dấu hiệu của tràn dịch màng bụng

Gõ:

Đây là phương pháp rất quan trọng trong chẩn đoán tràn dịch màng bụng.

  • Để bệnh nhân nằm ngửa: gõ từ rốn ra các vị trí xung quanh theo hình nan hoa, sẽ thấy vùng gần rốn và vùng cao có tiếng trong, vùng thấp có tiếng đục. Trường hợp cổ chướng ít thì vùng có tiếng đục chỉ ở hai bên mạn sườn. Nếu cổ chướng nhiều thì giữa hai vùng trong và vùng đục có một đường cong lõm.
  • Để bệnh nhân ở tư thế nằm nghiêng: làm tương tự như trên sẽ thấy vùng đục nhiều hơn ở bên thấp.

Kết hợp 3 phương pháp nhìn, sờ và gõ có thể nghĩ ngay đến cổ chướng nếu có các dấu hiệu nêu trên. Để xác định chính xác cần tiến hành chọc dò màng bụng.

2.2. Xét nghiệm dịch màng bụng

Nếu bệnh nhân bị tràn dịch màng bụng không rõ nguyên nhân thì cần lấy dịch màng bụng để xét nghiệm đếm tế bào, cấy vi sinh, đo lượng albumin, đo lượng protein toàn phần, kiểm tra tế bào học, nhuộm Gram. Quy trình xét nghiệm dịch màng bụng như sau:

  • Quan sát

Hầu hết dịch báng sẽ có màu trong và hơi ngả vàng. Phải có ít nhất 10.000 hồng cầu/μL thì dịch báng mới ngả sang màu hồng. Có ít nhất 20.000 hồng cầu/μL thì dịch báng se có màu đỏ rõ của máu.

Dịch báng có máu có thể đã chạm vào mạch máu khi chọc dò hoặc có thể do một bệnh lý ác tính nào đó. Nếu dịch có máu do khi chọc chạm vào mạch sẽ khá đồng nhất và đông lại. Nếu dịch có máu không phải do chọc chạm mạch thì màu đỏ đồng nhất và không đông do trước đó máu đã đông lại và đã ly giải sau đó. Nếu dịch đục và có mủ thì chứng tỏ đã có nhiễm trùng xảy ra.

  • Xét nghiệm đếm tế bào

Trung bình dịch báng chứa khoảng

Chủ Đề