Tăng bạch cầu ưa acid số lượng ở máu ngoại vi > 500/mcL. Rất nhiều nguyên nhân và rối loạn liên quan nhưng thường đại diện cho phản ứng dị ứng hoặc nhiễm ký sinh trùng. Chẩn đoán liên quan đến lựa chọn các xét nghiệm dựa trên định hướng lâm sàng. Điều trị theo nguyên nhân
Phân nhóm tăng bạch cầu ưa acid
Nhẹ: 500 đến 1500/mcL
Trung bình: 1500 đến 5000/mcL
Trầm trọng: > 5000/mcL
Tăng bạch cầu ưa acid nhẹ không gây triệu chứng, nhưng khi ≥1500/mcL có thể gây tổn thương cơ. Tổn thương cơ thường xảy ra do: viêm mô, phản ứng với cytokine và chemokine do bạch cầu ưa acid giải phóng, do các tế bào miễn dịch thâm nhập vào các mô. Mặc dù bất kỳ cơ quan nào cũng có thể bị tổn thương, nhưng gặp ở tim, phổi, lách, da và hệ thần kinh thường bị ảnh hưởng nhiểu hơn
[về các biểu hiện, xem bảng
Các bất thường ở bệnh
nhân có hội chứng tăng bạch cầu ái toan Bất thường ở bệnh nhân có hội chứng tăng bạch càu ưa acid
Một số trường hợp bệnh nhân có tăng bạch càu ưa acid mức độ nặng [ví dụ, số lượng bạch cầu ái toan >100.000/mcL], thường là bệnh lơ xê mi dòng bạch cầu ưa acid, gây ra những biến chứng tắc mạch máu nhỏ do ngưng tập bạch cầu dẫn đến thiếu máu mô cục bộ và nhồi máu vi mạch. Các biểu hiện thường là thiếu oxy ở phổi, não [bệnh não, khó thở, suy hô hấp].
Tăng bạch cầu ưa acid có thể
Vô căn: không xác định được nguyên nhân
Nguyên nhân phổ biến nhất bạch cầu ái toan ở Hoa Kỳ là
Dị ứng hoặc các rối loạn dị ứng [điển hình là hô hấp hoặc da liễu]
Các nguyên nhân phổ biến khác bao gồm
Nhiễm trùng [thường là ký sinh trùng]
Khối u [u bệnh máu hoặc u đặc, lành tính hoặc ác tính]
Hầu như nhiễm ký sinh trùng là gây ra tăng bạch cầu ưa acid, trừ protozoa và netazoa.
Hội chứng cơ-tăng bạch cầu ưa acid hầu như hiếm; nguyên nhân là không rõ. Tuy nhiên, vào năm 1989, hàng trăm bệnh nhân được báo cáo đã phát triển hội chứng này sau khi uống l-tryptophan để giảm đau, an thần. Hội chứng này có thể là do chất gây ô nhiễm hơn là do l-tryptophan. Các triệu chứng bao gồm chứng đau cơ,đau nhức, phù cơ và phát ban, kéo dài vài tuần đến vài tháng, và một số ca tử vong.
Tăng bạch cầu acid và triệu chứng hệ thống do phản ứng thuốc [DRESS] là một hội chứng hiếm gặp có đặc trưng là sốt, phát ban, tăng bạch cầu ưa acid, tăng lym phô không điển hình, hạch to và các dấu hiệu và triệu chứng của cơ quan đích [điển hình là tim, phổi, lá lách, da, hệ thống thần kinh].
Số lượng nguyên nhân và rối loạn liên quan là rất lớn. Cần xem xét các nguyên nhân thường gặp trước [ví dụ như dị ứng, nhiễm trùng hoặc rối loạn tân sản], nhưng thường khó xác định nên cần phải xem xét bệnh sử và thăm khám kỹ lưỡng.
Nên quan tâm những vấn đề sau:
Du lịch [gợi ý khả năng tiếp xúc với ký sinh trùng]
Dị ứng
Sử dụng ma túy
Sử dụng các sản phẩm thảo dược và các chất bổ sung chế độ ăn kiêng, l-tryptophan
Triệu chứng hệ thống [ví dụ: sốt, giảm cân, đau cơ, đau khớp, phát ban, hạch to]
Các triệu chứng hệ thống gợi ý ít có khả năng do dị ứng hoặc do thuốc, cần tiến hành kiểm tra nguyên nhân nhiễm trùng, tân sản, mô liên kết, hoặc những rối loạn hệ thống khác. Cần xem xét tiền sử bao gồm cả tiền sử gia đình về các bất thường trong máu, các rối loạn hệ thống dị ứng, tim, phổi, hệ tiêu hóa, thần kinh.
Nên tập trung vào hệ thống tim, da, thần kinh và phổi. Một số dấu hiệu có thể gợi ý nguyên nhân hoặc rối loạn liên quan. Ví dụ như phát ban [dị ứng, da liễu hoặc rối loạn mạch máu], phát hiện phổi bất thường [hen, nhiễm trùng phổi, hoặc hội chứng thâm nhiễm phổi với bạch cầu ưa acid] và hạch, lách to [các rối loạn tăng sinh tủy hoặc ung thư].
Thường phát hiện tăng bạch cầu ưa acid nhờ xét nghiệm công thức máu. Cần làm những xét nghiệm sau:
Ký sinh trùng và trứng trong phân
Các xét nghiệm khác để phát hiện tổn thương cơ quan hoặc các xét nghiệm đặc hiệu khác dựa trên lâm sàng.
Nói chung, nếu không nghi ngờ một loại thuốc hoặc nguyên nhân dị ứng dựa trên các dấu hiệu lâm sàng, cần phải kiểm tra 3 mẫu phân và
ký sinh trùng
Trichinosis Trichinosis là nhiễm trùng Trichinella spiralis hoặc loài Trichinella liên quan. Các triệu chứng bao gồm kích thích đường tiêu hoá... đọc thêm
Các xét nghiệm chẩn đoán cụ thể khác được xác định nhờ các phát hiện lâm sàng [đặc biệt là lịch sử du lịch] và có thể bao gồm chụp X-quang ngực, xét nghiệm nước tiểu, xét nghiệm chức năng gan và thận, và các xét nghiệm huyết thanh học đối với ký sinh trùng và rối loạn mô liên kết. Nếu bệnh nhân có hạch to, lách to, hoặc triệu chứng toàn thân thì cần làm các xét nghiệm máu. Tăng vitamin B12 hoặc bất thường trên tiêu bản máu ngoại vi gợi ý rối loạn tăng sinh tủy, khi đó cần thiết chọc hút hoặc sinh thiết tủy xương cũng như các xét nghiệm di truyền.
Đôi khi sử dụng corticosteroid
Nếu không phát hiện được nguyên nhân, bệnh nhân sẽ được theo dõi các biến chứng. Một thử nghiệm với corticosteroid liều thấp có thể làm giảm số lượng bạch cầu ưa acid nếu bạch cầu ưa acid là thứ phát [ví dụ như dị ứng, rối loạn mô liên kết, hoặc nhiễm ký sinh trùng] hơn là nguyên phát. Thử nghiệm này chứng tỏ rằng tăng bạch cầu ưa acid sẽ dai dẳng và tiến triển khi không có những nguyên nhân có thể điều trị được.
1" Pelaia C, Calabrese C, Vatrell A, et al: Benralizumab: từ cơ chế hoạt động cơ bản đến khả năng sử dụng trong liệu pháp sinh học của bệnh hen suyễn tăng bạch cầu ái toan nặng.. Biomed Res Int 2018. doi doi.org/10.1155/2018/4839230.