Dung dịch Boóc-đô có nồng độ là

  • 0903.865.035 – 0915.45.18.15

Đã từ rất lâu, dung dịch Boóc-đô được sử dụng rộng rãi trong BVTV  để phòng trừ các bệnh có nguồn gốc từ nấm và vi khuẩn, rất rẻ tiền và có hiệu quả. Đa số bà con đều nghe nói đến và tự pha chế để sử dụng nhưng không phải ai cũng làm đúng cách. Bà con tham khảo và nắm vững qui trình để pha chế. Dung dịch thuốc Boóc-đô [Bordaux] 1% được dùng để phòng trừ nhiều loại bệnh hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau chủ yếu do nấm hay vi khuẩn gây ra như bệnh thán thư, bệnh gỉ sắt hại lá cà phê hay bệnh chết nhanh chết chậm, tiêu điên trên cây hồ tiêu và các bệnh lở loét, thối thân, xì mũ trên các cây ăn quả cũng như cây công nghiệp khác… Nguyên liệu để pha chế dung dịch thuốc Boóc-đô là Ca[OH]2 [vôi sống hay còn gọi là vôi tươi] và CuSO4 [sulfat đồng] là những thứ rất dễ kiếm. Khi pha dung dịch sulfat đồng với nước vôi sẽ cho ra dung dịch thuốc Boóc-đô có màu xanh da trời, không mùi. Dung dịch Boóc-đô tương đối ít độc với người và gia súc, gia cầm nhưng rất độc với cá [nên không phun xuống ruộng có nuôi cá kết hợp, không rửa bình xịt hay đổ thuốc dưới ao hồ]. Boóc-đô có thể được pha chế theo nhiều nồng độ và nhiều phương pháp khác nhau. Tuỳ theo liều lượng, cách pha chế mà nước thuốc Boóc-đô có màu sắc và phẩm chất khác nhau. Thông dụng nhất là nồng độ 1% [1:1:100]. Muốn pha chế dung dịch thuốc Boóc-đô nồng độ 1%, bà con thực hiện theo cách tốt nhất như sau: Để có 10 lít nước thuốc, lấy 100 gram sulfat đồng hoà tan với 8 lít nước sạch trong dụng cụ chứa [chậu, xô, lu, vại… bằng nhựa, sành sứ… không dùng dụng cụ chứa bằng kim loại do dễ bị thuốc ăn mòn, làm thủng]. Tiếp theo, lấy 100 gram vôi sống hoà tan trong 2 lít nước trong một dụng cụ khác [nếu là vôi đã tôi thì dùng khoảng 130 gram]. Sau khi đã có dung dịch sulfat đồng và nước vôi, đổ từ từ dung dịch sulfat đồng vào nước vôi, vừa đổ vừa khuấy đều tay. Chú ý phải làm tuần tự như trên, không được đổ ngược lại, tức là không được đổ dung dịch nước vôi vào dung dịch sulfat đồng vì nước vôi sẽ bị kết tủa, không hòa tan được. Kiểm tra dung dịch vừa pha chế: Lấy một cây đinh khoảng 5 phân, còn mới hoặc đã được mài bóng [cũng có thể lấy một con dao mỏng bằng sắt mài sáng ở mũi] nhúng vào nước thuốc vừa pha khoảng một phút. Lấy đinh [hoặc mũi dao] ra, sẽ thấy có một lớp màu gạch cua bao phủ ở trên đinh [mũi dao], để ra ngoài không khí một lát, nếu lớp đó chuyển sang màu đen thì nước thuốc còn chua [độ pH thấp] dễ gây hại cho cây trồng. Điều chỉnh bằng cách thêm nước vôi từ từ cho đến khi nào thử lại không thấy hiện tượng bị đen như trên mới đạt yêu cầu [có thể thử bằng giấy quỳ, độ pH kiềm là đạt]. Để thuốc có tác dụng tốt, phải kiểm tra bệnh thường xuyên, khi thấy bệnh chớm phát sinh thì phải phun thuốc kịp thời. Nếu để trừ bệnh thì phun 7-10 ngày 1 lần, nếu để phòng bệnh thì phun 1 tháng 1 lần. Phun thuốc bám đều trên cả hai mặt lá, trên cành và thân. Lưu ý: -Cần dự trù lượng thuốc sử dụng vừa đủ trong ngày. Không nên pha chế quá nhiều, để qua ngày sau thuốc sẽ mất phẩm chất. Tốt nhất là dùng đến đâu pha thuốc đến đó. -Không phun thuốc vào lúc trời mưa, nhiều sương, ẩm ướt, trời nắng gắt hoặc lúc cây đang ra hoa. Tốt nhất là phun vào buổi sáng và chiều khi trời đã dịu nắng. -Không nên phun cho những cây mẫn cảm với thuốc… theo giatieu.com CuSO4.5H2O Tên thường gọi: Sunphat đồng, đồng Sulphate, Copper sulfate Xuất xứ: Đài Loan [made in Taiwan] Đóng gói: 25 kg/bao [25kg/bag] Mô tả: Bột màu xanh [light blue power] -Hàm lượng Suphat đồng: 25% Cu min. Công dụng: Suphat đồng là chất sát khuẩn, diệt ký sinh trùng trong nuôi trồng thủy sản; sử dụng trong nông nghiệp như là một thuốc diệt nấm, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ…; làm chất tổng hợp hữu cơ, chất phân tích trong phòng thí nghiệm. Thành phần: Cu = 15 % Tên hóa học: Ethylenediaminetetraacetic acid, copper disodium complex EDTA-CuNa2 Công thức phân tử: C10H12N2O8CuNa2 Khối lượng phân tử: 397,7 pH = 6-7 Tính chất: Dạng bột màu xanh, hòa tan tốt và ổn định trong nước, độ hòa tan trong nước 99% Đóng gói: Trong bao 25 kg hoặc trong hộp các tông với túi polyethylene bên trong. Sử dụng: Trong nông nghiệp và rau quả cho đất hoặc các ứng dụng thức ăn trên lá. Tác dụng của Đồng đối với cây trồng: + Là thành phần của enzym cytochrome oxydasaza và thành phần của nhiều enzym-ascorbic, axit axidasaza, phenolasaza, lactasaza. + Xúc tiến quá trình hình thành vitamin. Nguyên liệu nhập khẩu từ Ấn độ Liên hệ: Greenfarm JSC. – Office: 33T2 Duong Ba Trac St, 1st Ward, 8th Dist. HCMC – Tel: 0903.865035 – //www.nongtrangxanh.net –www.greenfarmjsc.com

Xu hướng tìm kiếm: Cách pha chế dung dịch Boóc-đô phòng trừ nấm

- Thuốc gốc vô cơ, có tác dụng tiếp xúc, do Millardet [Pháp] phát hiện năm 1882.

- Thuốc tạo thành bằng cách pha sulfat đồng [CuSO4] và vôi [Ca[OH]2], dung dịch đã pha có mầu xanh nhạt không mùi và pH kiềm, ít độc với người và động vật nhưng ít bền.

- Tùy theo liều lượng, kỹ thuật pha chế thuốc có nồng độ khác nhau. Đối với cây cao su hai nồng độ 1 và 5% thường được dùng.

- Không dùng các dụng cụ bằng sắt, nhôm để pha hay sử dụng dung dịch Bordeaux. Tốt nhất nên dùng dụng cụ bằng nhựa, thép không rỉ. Thuốc pha và sử dụng trong ngày, không lưu trữ.

Pha dung dịch Bóoc-đô 1% hay Bóoc-đô 5% đều phải tuân thủ nguyên tắc

“Đổ dung dịch đồng loãng vào dung dịch vôi đặc”

2. Pha Bóoc-đô 1% [1: 1: 100]

- 1 kg sunphát đồng [có màu xanh da trời] pha trong 80 lít nước.

- 1 kg vôi bột pha trong 20 lít nước sau đó đổ nước đồng loãng vào nước vôi đặc, vừa đổ vừa khuấy [không được đổ ngược nước vôi vào đồng].

Thử chất lượng dung dịch Bóoc-đô bằng cách dùng một que sắt mài sáng nhúng vào dung dịch đã pha khoảng 3 phút. Nếu đầu que sắt bị rỉ vàng thì phải thêm nước vôi vào từ từ đến khi que sắt không đổi màu. Dung dịch Bóoc-đô 1% chỉ pha đủ dùng trong ngày. Không pha dung dịch trong thùng chứa bằng nhôm hoặc sắt.

3. Cách pha Boóc-đô đặc 5% [1: 4: 20]

- 1 kg sunphát đồng, 4 kg vôi bột, 20 lít nước.

- Pha 1 kg sunphát đồng trong 10 lít nước sạch, lọc bỏ cặn.

- 4 kg vôi bột trong 10 lít nước, lọc bỏ đá sỏi.

- Đổ nước đồng vào nước vôi khuấy đều.

Ghi nhớ

Pha dung dịch Boocdo 1%: 1 kg đồng sunphate, 1 kg vôi, 100 lít nước Pha dung dịch Boocdo 5%: 1 kg đồng sunphate, 4 kg vôi, 20 lít nước Nguyên tắc pha: Đổ dung dịch đồng loãng vào dung dịch vôi đặc.

Nguồn: Giáo trình trồng, chăm sóc cây cao su - Bộ NN&PT NT

Hỗn hợp Bordeaux [còn được gọi là dung dịch Bordeaux hay dung dịch Boóc đô] là hỗn hợp đồng [II] sunfat [CuSO4] và vôi tôi [Ca[OH]2] được sử dụng làm thuốc diệt nấm. Nó được sử dụng trong các vườn nho, trang trại trái cây và vườn để ngăn chặn các bệnh đốm lá, bệnh phấn trắng và các loại bệnh cây do nấm khác. Nó được phun trên cây như một loại điều trị phòng ngừa; phương thức hoạt động của nó là không hiệu quả sau khi cây đã bị nhiễm nấm. Hỗn hợp này được phát minh ở vùng Bordeaux của Pháp vào cuối thế kỷ 19. Nếu nó được áp dụng với số lượng lớn hàng năm trong nhiều năm, đồng trong hỗn hợp cuối cùng sẽ trở thành một chất gây ô nhiễm.

Chuẩn bị hỗn hợp Bordeaux

Hỗn hợp Bordeaux trên cây nho

Ngoài công dụng của nó để kiểm soát nhiễm nấm trên cây nho, hỗn hợp này còn được sử dụng rộng rãi để kiểm soát bệnh bạc lá khoai tây, xoăn lá đào và bệnh ghẻ táo.[1] Nó được chấp thuận cho sử dụng trong nông nghiệp hữu cơ, vì vậy thường được sử dụng bởi những người làm vườn hữu cơ nơi những người làm vườn vô cơ sẽ thích các biện pháp kiểm soát khác.

Hỗn hợp Bordeaux đạt được hiệu quả của nó bằng các ion đồng [Cu 2+] của hỗn hợp. Những ion này ảnh hưởng đến các enzyme trong bào tử nấm theo cách ngăn ngừa sự nảy mầm. Điều này có nghĩa là hỗn hợp Bordeaux phải được sử dụng phòng ngừa, trước khi bệnh nấm xảy ra.

Che chắn kỹ lưỡng khi phun dung dịch này lên cây là cần thiết. Dung dịch Bordeaux tiếp tục bám dính tốt vào cây trong mưa, mặc dù về lâu dài nó sẽ bị mưa cuốn trôi. Thông thường trong thực tế, nó được áp dụng chỉ một lần một năm, vào mùa đông.[2]

Hỗn hợp Bordeaux có thể được điều chế bằng cách sử dụng các tỷ lệ khác nhau của các thành phần. Khi chuẩn bị, CuSO4 và vôi được hòa tan riêng trong nước và sau đó trộn lẫn. Calci oxit [vôi sống] và calci hydroxide [vôi tôi] cho kết quả cuối cùng giống nhau, vì một lượng nước dư thừa được sử dụng trong chế phẩm.

Phương pháp thông thường để mô tả thành phần của hỗn hợp là cho trọng lượng CuSO4, trọng lượng của vôi ngậm nước và thể tích nước, theo thứ tự đó. Tỷ lệ phần trăm khối lượng của CuSO4 so với trọng lượng của nước sử dụng quyết định nồng độ của hỗn hợp. Do đó, hỗn hợp Bordeaux 1% điển hình, sẽ có công thức 1:1:100, với "1" đầu tiên đại diện cho 1 kg CuSO4 [ngậm 5 nước], thứ hai đại diện cho 1 kg vôi ngậm nước và 100 tượng trưng cho 100 lít [100 kg] nước. Vì CuSO4 chứa 25% đồng, hàm lượng đồng của hỗn hợp 1% Bordeaux sẽ là 0,25%. Lượng vôi sử dụng có thể thấp hơn lượng CuSO4. Một kg CuSO4 thực sự chỉ cần 0,225 kg vôi ngậm nước tinh khiết hóa học để kết tủa tất cả các nguyên tử đồng. Các thương hiệu độc quyền tốt của vôi ngậm nước hiện có sẵn miễn phí, nhưng, ngay cả khi chúng bị hỏng khi lưu trữ [bằng cách hấp thụ carbon dioxide từ không khí], tỷ lệ nhỏ hơn 2:1 hiếm khi được sử dụng, tương ứng với tỷ lệ 1:0,5:100 trong hỗn hợp.

Hỗn hợp Bordeaux đã được phát hiện là có hại cho cá, gia súc và giun đất do sự tích tụ đồng tiềm năng trong đất.[1]

Hóa chất này bắt đầu được United Fruit Company sử dụng trên khắp châu Mỹ Latinh vào khoảng năm 1922. Hỗn hợp này có biệt danh là perico, hay "vẹt đuôi dài", vì nó sẽ biến công nhân thành màu xanh hoàn toàn. Nhiều công nhân sẽ bị bệnh hoặc chết vì ngộ độc do hóa chất độc hại này.[3]

Vào thế kỷ 19, một số đợt bùng phát bệnh nho đã xảy ra giữa những cây nho Vitis vinifera của vùng rượu vang cổ điển châu Âu. Những vụ dịch này là do sâu bệnh mà những cây nho này thiếu sức đề kháng, được mang trên những cây nho được mang đến châu Âu dưới dạng mẫu vật thực vật có nguồn gốc từ Mỹ. Những loài gây hại này không chỉ bao gồm Đại dịch rượu vang Pháp do rệp Phylloxera differatrix gây ra, mà còn cả nấm mốc và các bệnh khác do nấm gây ra.[4]

Sau khi bệnh đốm lá xuất hiện, giáo sư thực vật học Pierre-Marie-Alexis Millardet của Đại học Bordeaux đã nghiên cứu về căn bệnh này ở những vườn nho của vùng Bordeaux. Millardet sau đó lưu ý rằng những cây nho gần đường nhất không bị nấm mốc, trong khi tất cả những cây nho khác đều bị ảnh hưởng. Sau khi tìm hiểu, anh phát hiện ra những cây nho đó đã được phun hỗn hợp CuSO4 và vôi để ngăn người đi đường ăn nho, vì cách xử lý này vừa có thể nhìn thấy vừa có vị đắng. Điều này đã khiến Millardet tiến hành thử nghiệm với phương pháp điều trị này. Các thử nghiệm chủ yếu diễn ra tại các vườn nho của Château Dauzac, nơi ông được Ernest David, giám đốc kỹ thuật của Dauzac giúp đỡ. Millardet đã công bố phát hiện của mình vào năm 1885 và khuyến nghị hỗn hợp này để chống lại bệnh đốm lá.

Ở Pháp, việc sử dụng hỗn hợp Bordeaux cũng được gọi là phương pháp điều trị Millardet-David.

  1. ^ a b Pears, Pauline, et al. HDRA Encyclopedia Of Organic Gardening, pp103, Dorling Kindersley Ltd, London, 2005.
  2. ^ "Bordeaux Mixture" @ Integrated Pest Management @ UC Davis.
  3. ^ Banana: The Fate of the Fruit That Changed the World by Dan Koeppel
  4. ^ Some of these diseases are caused by fungi-like organisms in the Oomycete group, which no longer are considered fungi. Since they are more closely related to the algae, they are currently classified as part of the heterokonts, but the term "fungal diseases" is fairly well established as an umbrella term.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Hỗn_hợp_Bordeaux&oldid=67667884”

Video liên quan

Chủ Đề