Đồng bằng sông hồng có hệ thống đê vững chắc dài trên bao nhiêu km
Đồng bằng sông Hồng có đặc điểm là: A. Cao trung bình 2-3m, vào mùa lũ có nhiều ô trũng rộng lớn bị ngập nước. B. Là những cánh đồng nhỏ trù phú nằm giữa vùng núi cao. C. Các cánh đồng bị vây bọc bởi các con đê trở thành những ô trũng. D. Được chia thành nhiều đồng bằng nhỏ. Hướng dẫn Đáp án: C. Các cánh đồng bị vây bọc bởi các con đê trở thành những ô trũng. Giải thích: Đồng bằng sông Hồng có diện tích khoảng 15000km$^{2}$, nhân dân ta đã xây hệ thống đê lớn vững chắc dài trên 2700km$^{2}$. Các cánh đồng bị vây bọc bởi các con đê trở thành những ô trũng. (trang 105 SGK Địa lí 8). Đăng nhậpĐăng nhập để trải nghiệm thêm những tính năng hữu ích Zalo
Trần Đăng Hồng Con người đã sống ở Đồng bằng sông Hồng từ thời Đồ Đá Củ cách đây khoảng 25 Theo Giao Châu Ký của Trung Hoa, thì khoảng 3 thế kỷ trước công nguyên ở Trong sách lịch sử Việt Nam, đê được nói đến đầu tiên là vào khoảng năm 521 Cao Biền, giữa thế kỷ thứ 9: “Sử chép rằng Cao Biền đào sông, khơi ngòi, mở đường lộ, lập quán trọ cho khách đi đường trên khắp An Nam. Nhiều đoạn đê, nhất là đoạn đê trên vùng gần Hà Nội hiện nay được đắp để chống lụt lội” (8). Cao Biền ra lệnhdân thiết lập đê quanh thành Đại La với tổng số chiều dài 8,500 thước, cao 8 thước (2). Đê Cơ Xá là con đê đầu tiên được vua Lý Nhân Tông (1072-1127) cho xây Dưới đời nhà Trần, những con đê được đắp chỉ cốt giữ cho nước lũ không tràn có chép: “Tân Mão, Kiến Trung năm thứ 7 (1231): Mùa xuân, tháng giêng, sai nội minh tự Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kinh Trầm và kinh Hào (là tên hai con kinh, thuộc huyện Ngọc Sơn (nay là Tĩnh Gia), tỉnh Thanh Hóa) từ phủ Thanh Hóa đến địa giới phía nam Diễn Châu ”. Triều đình cũng cho phépcác vương, hầu có quyền chiêu tập những người nghèo khó, lưu lạc đi khai khẩn đất hoang để mở mang thêm ruộng nương (5). Có thể nói rằng hệ thống đê sông Hồng được hoàn chỉnh dưới thời vua Trần Thái Tông, cách nay hơn 750 năm. Thiết lập đê biển được ghi trong lịch sử đầu tiên là vào cuối nhà Trần, Hồ Quý Ly cải tổ lại điền địa “Khi trước những nhà tôn thất cứ sai đầy tớ ra chổ đất bồi ở ngoài bể, đắp đê để một vài năm cho hết nước mặn, rồi khai khẩn thành ruộng. Nay ngoại trừ bậc đại vương, công chúa ra, thứ dân không được có hơn 10 mẩu ” (18).Vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đặt ra quan “Hà Đê” để lo đê điều và quan Khuyến Nông để phát triển nông nghiêp (18). Dưới triều Lê sơ (1428-1527) những con đê lớn hơn được đắp mới, và tân tạo hệ thống đê cũ trên hai bờ sông Nhị Hà bằng đá vửng chăc (2). Kết quả trái ngược là sông Hồng trở nên hung dữ hơn, phá vỡ đê và gây ngập lụt triền miên trong thời nhà Nguyễn, nảy sinh nhiều ý kiến đề nghị xem xét vấn đề bỏ hay giữ đê (28). Giặc giả thường xuyên xảy ra trong thời Lê, Mạc, Trịnh Nguyễn phân tranh, quan ở các trấn phải “xoi đào sông ngòi và các cửa bể, và nhất là ở Bắc Thành phải giữ gìn đê điều cho cẩn thận: chổ nào không có thì đắp thêm, chổ nào hư hỏng thì phải sửa chửa lạ i” (18).Nguyễn Công Trứ (1778-1858) đã có công khẩn hoang vùng duyên hải Ninh Ngoài ra, từ trước năm 1837, Nguyễn Công Trứ đã đề xuất giải pháp phân lũ Tính đến nay (2006), hệ thống đê sông Hồng khu vực quanh Hà Nội được Dưới thời quân chủ, phá hủy hay làm hư hại đê là một trọng tội. Năm nào có ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ NGUYÊN NHÂN LŨ LỤT Đồng bằng Sông Hồng bắt đầu được thành lập vào thời Holocene, cách đây khoảng 9 Vùng đồng bằng sông Hồng (giữa vĩ độ 22°00′ và 21°30′ Bắc, kinh độ 105°30′ Dãy Hoàng Liên Sơn, cao 3,142 m, có vai trò như một trường thành ngăn gió Trung bình hàng năm Đồng bằng sông Hồng nhận 4 trận bảo tố từ biển Đông Địa hình thượng lưu các sông gồm các vùng đồi núi với độ dốc lớn nên nước Ngoài nguyên nhân chính là các trận mưa bão ở miền thượng lưu, nạn phá Khu trung tâm của vùng ĐBSH rất bằng phẳng, phần lớn nằm ở độ cao từ 0.4 Đồng bằng sông Hồng nằm trong 8 tỉnh hay thành phố. Mật độ dân cư ở đồng Đồng bằng châu thổ sông Hồng do phù sa của 2 sông chính bồi đắp là sông SÔNG HỒNG Sông Hồng có tổng chiều dài là 1,149 km bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua Việt Sông Hồng bắt nguồn từ dãy núi Ngụy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ở độ Ở Lào Cai sông Hồng cao hơn mực nước biển 73 m. Đến Yên Bái, cách Lào Lưu lượng sông Hồng biến đổi tùy theo năm có vũ lượng ít hay nhiều, từ 93.1 Chẳng hạn, tại trạm Yên Bái trong thời kỳ từ 1961-1970, lượng phù sa là 1,780 g/m3 Trong 3 nhánh của sông Hồng, sông Đà và sông Thao có lưu vực xấp xỉ như Hệ thống sông Hồng đổ ra Vịnh Bắc Việt qua 10 cửa sông. Các cửa chính SÔNG THÁI BÌNH Hệ thống sông Thái Bình gồm sông Thái Bình cùng các phụ lưu và chi lưu. Các phụ Hệ thống sông Thái Bình nối với sông Hồng bởi sông Đuống ở thượng lưu, và Do phần lớn lưu vực của hệ thống sông Thái Bình bắt nguồn từ các vùng đồi Hệ thống sông Thái Bình ra biển Đông với các cửa: (i) Cửa Thái Bình của Ở Vịnh Bắc Việt, trung bình cứ 20 km đường bờ biển thì có một cửa sông lớn. HỆ THỐNG CHỐNG LŨ LỤT Ở Đồng Bằng Sông Hồng, hệ thống chống lũ lụt gồm (i) thiết lập đê sông, đê biển, (ii) Hệ thống đê sông: Hiện tại, tổng số chiều dài hệ thống đê sông trong vùng đồng bằng Tùy theo tầm quan trọng kinh tế và số dân cư của địa phương, dựa vào đợt lũ lớn nhất Phòng tuyến đê lũ Hà Nội. Từ ngàn xưa, bảo vệ thủ đô Đại La/Thăng Long/Hà Nội là ưu tiên của nhà vua qua Trong thời nhà Nguyễn, người Hoa ở vùng Hà Nội xin phép nhà vua để họ đắp Trận lụt năm 1926, Hà nội bị ngập lụt nặng, vì lúc đó chưa có đoạn đê dọc Ngày nay, hệ thống đê dọc sông Hồng bảo vệ Hà Nội dài 61 km được nâng Hệ thống đê biển: Bờ biển Vịnh Bắc Việt cấu tạo bởi đá và phù sa. Do ảnh hưởng Trong thời gian 1958-1995, tổng số diện tích đất bồi đầm lầy vùng duyên hải Hồ chứa nước Ngoài hệ thống đê, còn có các đập thủy điện và hồ chứa nước lớn ở vùng thượng lưu Hiện tại đã có 3 hồ chứa và 1 đang xây dựng, đóng vai trò quan trọng trong 1. Hồ Thác Bà trên sông Chảy để làm thủy điện, đưa vào vận hành từ năm 1972, có 2. Hồ Hoà Bình trên sông Đà, diện tích 208 km2 3. Hồ Đại Thị trên sông Gầm tỉnh Tuyên Quang vận hành vào năm 2007, với dung 4. Ngoài ra, hồ Sơn La trên sông Đà tại tỉnh Sơn La, thượng nguồn hồ Hoà Bình và Với 4 hồ chứa khi đưa vào vận hành, tổng dung tích chứa lũ sẽ tăng lên, làm Tất cả các hồ chứa nói trên đều là hồ đa mục đích (thủy điện, thủy nông). Tuy Một yếu điểm của việc thiết lập hồ chứa nước là số lượng phù sa lắng đọng Phân lũ Ngay từ thời vua Minh Mạng, Nguyễn Công Trứ đã đề nghị giải tỏa áp lực lũ sông Sông Hồng có phân lưu phía tả ngạn là sông Đuống chảy từ Hà Nội đến Phả Phân lưu phía hữu ngạn là sông Đáy và sông Đài (còn gọi là Lạch Giang hay Tạo các vùng phân chậm lũ Trong trường hợp mực nước sông Hồng tại Hà Nội tiếp tục vượt quá mức báo động TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ DỰ BÁO LŨ Từ thời xa xưa, quản lý đê điều do Hà Đê Chánh Sứ (tương tự chức Bộ Trưởng bây Để dự đoán bảo lụt, một mạng lưới các trạm đo khí tượng và thuỷ văn theo 1. Phòng lũ bằng cách vận hành hồ Hoà Bình và Thác Bà, NHỮNG TRẬN VỠ ĐÊ TRONG LỊCH SỬ: Trong thời Nhà Nguyễn, cứ vài ba năm là có một trận lũ lớn phá đê. Vì vậy, vua Tự Năm 1913, ngày 9 tháng 8, mực nước tại Hà Nội đạt 11.35 m làm vỡ đê sông Ngày 14 tháng 8, khi lũ Hà Nội xuống mức 10.69 m vẫn vỡ đê Lương Cổ, tả ngạn Năm 1915, từ ngày 11 đến 20 tháng 8: Đê bị vỡ liên tiếp 42 chỗ với tổng Năm 1926, ngày 29 tháng 7, khi mực nước Hà Nội lên tới 11.93 m thì vỡ đê tả Năm 1945. Một trận lũ lớn vào tháng 8 năm 1945 gây vỡ đê tại 79 điểm, gây Năm 1971, ảnh hưởng những trận mưa to liên tục và một cơn bão lớn, nước Năm 1996. Ngày 24 tháng 7 năm 1996 bảo Frankie với gió 100 km/giờ gây lụt Năm 2008. Trận mưa lớn nhất trong 35 năm đổ xuống ngày 31/10 và Mực nước lúc 16 giờ ngày 4/11/2008 trên sông Thao tại Yên Bái là 31.94 m Tuyến đê sông Hồng có 13 vị trí hư hỏng tại các huyện Mê Linh, Đan Phượng, TẠI SAO HÀ NỘI BỊ LỤT? Trận lũ tháng 11/2008 tại Hà Nội và đồng bằng sông Hồng không lớn lắm. (i) Xây cất nhà cửa, chiếm cứ đất đai trên mặt đê làm đê yếu, rạn nức (ii) Đường sá phát triển và nhà cửa xây cất vô trật tự cản trở thoát (iii) Các hồ trong thành phố cạn, thiếu nạo vét, hệ thống phân lưu quá (iv) Hệ thống tháo nước của thành phố quá yếu kém, chỉ cần một trận Trên phạm vi của đồng bằng sông Hồng, quá trình đô thị hóa, chiếm hửu đất mặt đê CÁC TRANH LUẬN Nên hay không nên thiết lập đê sông ngăn ngừa lũ lụt vẫn là một đề tài tranh luận ở Việc chống đối thiết lập đê dựa vào các lý do sau: – Phù sa không vào đồng ruộng, mà lắng đọng trong lòng sông, bờ đê, sông trở Người xưa không phải không biết chuyện này, và đã từng có những cuộc bàn luận Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), Tổng đốc Hà Nội là Nguyễn Đăng Giai đã có bản Mười sáu năm sau, vào ngày 5 tháng 10 năm Tự Đức thứ 6 (1861), Khoa đạo Vua Tự Đức triệu tập một hội nghị lớn thẩm nghị bản điều trần này và tất cả Khoảng 6 văn bản điều trần của các quan ở triều đình và địa phương hiện còn Sau hàng ngàn năm thiết lập và củng cố hệ thống đê điều, từ vùng đầm lầy trở Với diện tích tổng cộng khoảng 1.3 triệu ha, diện tích trồng cây lương thực Để bù đắp vào việc thiếu phù sa do lụt mang tới đồng ruộng, từ hàng ngàn Nhờ cải thiện đất từ lâu đời, không còn thấy tường trình đất bị dậy chua phèn Thay vì phù sa bồi đắp vào đồng ruộng, 95 % phù sa của 2 hệ thống sông Thay vì đánh bắt cá thiên nhiên hiếm hoi từ đồng ruộng do lụt mang tới, người Quang cảnh và sinh động thực vật đã biến đổi sau khi thành lập đê sông. Cảnh Muông thú gồm động vật hiện nay như bò, ngựa, chó, cọp, hưu, chim, v.v. Ngoài ra, Một yếu điểm của hệ thống đê sông ở đồng bằng sông Hồng hiện nay là không Tóm lại hệ thống trị thủy của Đồng bằng sông Hồng là một trong những công TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ADB 2003. Hanoi – Hatay dyke subproject. Workshop from 9 to 12 November Trích từ bài Thử tìm giải pháp thuỷ lợi cho đồng bằng Cửu Long Nguồn bài đăng |