Điểm khác biệt của thơ văn Nguyễn Khuyến với thơ văn ở ẩn của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm là gì

Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpTrờng Đại học vinhKhoa ngữ văn---- o0o ----Khoá luận tốt nghiệp đại họcchuyên ngành: văn học việt nam trung đạiso sánh các bài có câu lục ngôn trong thơnôm nguyễn trãi và nguyễn bỉnh khiêmGiáo viên hớng dẫn: Th.S. Hoàng Minh ĐạoSinh viên thực hiện: Thái Thị ThuLớp: 43B1 VănVinh, 5/2006a. Phần mở đầu1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu:Văn học trung đại Việt Nam bắt đầu từ những sáng tác có ảnh hởng của nềnvăn học dân gian và kết thúc bằng những vần thơ trào lộng của Nguyễn Khuyến Tú Xơng. Trong quá trình phát triển lâu dài và rực rỡ ấy, phải kể đến đóng gópcủa Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Họ là đại biểu xuất sắc cho nền vănchơng trung đại Việt Nam.1Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpCó thể nói rằng: cả hai ông đều có tài năng, có đóng góp lớn lao lâu dài chonền văn học nớc nhà. Họ tuy là hai con ngời khác nhau, sống và sáng tác ở thờikỳ khác nhau, sự nghiệp văn học không giống nhau nhng họ gặp nhau ở việcsáng tác thành công văn học chữ Nôm. Đây là loại văn chơng mà không phảinhà văn, nhà thơ nào cũng thành công. Nhờ sự đam mê miệt mài trong sáng tạomà Nguyễn Trãi - Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm cho nền văn học chữ Nôm pháttriển mạnh mẽ, phong phú, đa dạng.Vì vậy, có rất nhiều ngời quan tâm nghiên cứu về những đóng góp này củahai tác giả. Một điều đặc biệt nữa trong sáng tác thơ Nôm là cả Nguyễn Trãi vàNguyễn Bỉnh Khiêm đều dùng câu lục ngôn.Nh đã biết, thơ Nôm của hai tác giả này chủ yếu làm theo: mỗi bài 8 câumôi câu 7 chữ, nhng có sự trùng lặp là họ đều dùng một số câu 6 chữ xen vào.Đó là điều khiến ta quan tâm cần nghiên cứu. Tại sao tác giả lại dùng nh vậy ?Lựa chọn đề tài khoá luận "So sánh các bài có câu lục ngôn trong thơ NômNguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm", chúng tôi cố gắng tìm hiểu một cách cóhệ thống ở một số bài có câu lục ngôn của hai tác giả. Qua đó rút ra điểm tơngđồng, điểm khác biệt trong cách sử dụng câu lục ngôn của Nguyễn Trãi vàNguyễn Bỉnh Khiêm về cả hai phơng diện nội dung và hình thức. Đặc biệt đểsáng tạo ra câu lục ngôn trong thơ mình, cả hai tác giả đều chịu ảnh hởng củavăn học dân gian. Đến lợt mình, Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm chovăn học dân gian hoàn thiện, sâu sắc hơn.Đi vào tìm hiểu đề tài chúng ta thấy rõ mối quan hệ giữa Nguyễn Trãi vàNguyễn Bỉnh Khiêm trong sáng tác thơ Nôm đặc biệt là sử dụng câu lục ngônthành công. Nhờ đó họ đã gặp nhau, bổ sung cho nhau làm cho thơ Nôm pháttriển hơn, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ đó khẳng định đóng góp lớn lao củaNguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tiến trình thơ Nôm Việt Nam. Nó còngiúp cho ta giảng dạy tốt hơn, có hiệu quả hơn những bài thơ Nôm của NguyễnTrãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm trong nhà trờng.2. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu:Đối tợng nghiên cứu:Thực hiện đề tài này chúng tôi nghiên cứu ở những bài có câu lục ngôntrong các văn bản:Vũ Văn Kính:"Quốc âm thi tập" (Nguyễn Trãi), Nxb trẻ, H. 1995Bùi Văn Nguyên:"Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm" tập 1Bạch vân quốc ngữ thi tập , Nxb giáo dục,H. 1989Phạm vi nghiên cứu:2Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệp"Quốc âm thi tập" (Nguyễn Trãi) gồm 254 bài chúng tôi chỉ nghiên cứu''bảo kính cảnh giới'' (61 bài)."Bạch vân quốc ngữ thi tập'' (Nguyễn Bỉnh Khiêm) gồm 200 bài chúng tôichỉ nghiên cứu 61 bài từ bài 1 đến bài 61.Về ảnh hởng sáng tác dân gian thì nhiều nhng chúng tôi chỉ nghiên cứu ở cadao, tục ngữ, thành ngữ.3. Phơng pháp nghiên cứu:Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng phơng pháp khảo sát thống kê, sosánh đối chiếu. Dùng phơng pháp ấy để thấy đợc sự tơng đồng và khác biệt khisử dụng câu lục ngôn trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm về nộidung cũng nh hình thức. Đồng thời thấy rõ ảnh hởng văn học dân gian trongsáng tác câu lục ngôn của hai tác giả.Bên cạnh đó chúng tôi sử dụng phơng pháp phân tích tổng hợp nhằm kháiquát hoá, cụ thể hoá từng vấn đề, đa ra những nhận xét đánh giá xác đáng có cơsở khoa học đúng đắn để nhằm khẳng định điểm giống, khác nhau trong cách sửdụng câu lục ngôn của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm.Hơn nữa đây là vấn đề thuộc quá khứ nên chúng tôi quán triệt quan điểmlịch sử khi nghiên cứu.4. Lịch sử vấn đề:Tìm hiểu về thể thơ thất ngôn chen lục ngôn, lâu nay có một số nhà nghiêncứu quan tâm. Sau đây là một số ý kiến tiêu biểu:4.1. Bài viết của Phạm Luận "Thể loại thơ trong quốc âm thi tập Nguyễn Trãi'', ( Tạp chí văn học số 14 - 1991).ở bài viết này, tác giả đề cấp đến nguồn gốc thể thơ thất ngôn chen lụcngôn. Tác giả viết: vậy phải xem là thiếu căn cứ khi nói thể 6-7 là do "bắt chớccủa tàu" hoặc khẳng định nó là một thể đặc biệt của các thể thơ Trung Quốc cổphong hay đờng luật. Có ngời muốn định danh cho nó bằng thuật ngữ ''Thơ luậtĐờng có pha lục ngôn'' xem ra vẫn có điều cha ổn. Bởi vì nói thế có nghĩa là thểthơ này cấu tạo 2 phần: luật Đờng và không phải luật Đờng. Nhng trong Quốcâm thi tập không phải câu 7 nào cùng là Đờng luật.[9, trang 24]Tuy nhiên ở đây cần làm rõ: trong Quốc âm thi tập những câu 7 ngắt nhịp 3- 4, những câu 6 ngắt nhịp 2 - 2 - 2, 2 - 4, 4 - 2, 1 - 3 - 2... tức là phần cuối cónhịp chẵn, những câu này đợc tạo ra phải chăng chủ yếu là do tác động của thơca dân gian Việt Nam.Cuối cùng tác giả khẳng định "Qua trình bày ở trên thấy rõ quá trình sángtác thơ bằng tiếng Việt, Nguyễn Trãi đã tiếp thu sâu sắc thi pháp luật Đờng thế3Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpnào? Điều đáng chú ý từ tiềm năng quý báu của thể thơ Trung Quốc, NguyễnTrãi đã có một cố gắng để xây dựng một lối thơ Việt Nam, một thi pháp Việt Nam ởgiai đoạn văn học chữ Nôm mới bắt đầu hình thành và phát triển" [9, trang 25].Nh vậy, ở bài viết này Phạm Luận đã chứng minh cho chúng ta thấy thể thơThất ngôn chen lục ngôn tiếp thu từ thi pháp luật Đờng. Nhng cách tiếp thu củaNguyễn Trãi có chọn lựa, biến thành sản phẩm của chính mình, khẳng định vaitrò Nguyễn Trãi trong tiến trình thơ Nôm Việt Nam.Tuy nhiên, khi nói cách ngắt nhịp chẵn ở câu 6 chữ tác giả cho rằng: "phảichăng chủ yếu do tác động thơ ca dân gian Việt Nam" nhng cha chứng minhđiều đó.4.2. Bài viết của Nguyễn Tài Cẩn "Thử tìm cách xác địng tác giả một sốbài thơ hiện cha rõ là Nguyễn Trãi hay Nguyễn Bỉnh Khiêm" (Tạp chí vănhọc số 3/1986).ở bài viết này, tác giả đi vào phân loại những bài thơ lâu nay ngời ta lẫn lộngiữa Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Mở đầu bài viết, Nguyễn Tài Cẩn nói rõ"đây là vấn đề phức tạp đòi hỏi cần sự cân nhắc về nhiều phơng diện" [2, trang 76].Mặc dù phức tạp nhng Nguyễn Tài Cẩn đã tìm ra cách để phân biệt "Đứngvề mặt ngôn ngữ so sánh 2 dị bản trong mỗi bài này có thể thấy bao giờ mỗi dibản cũng có yếu tố chung và yếu tố riêng.VD:Câu đầu trong bài 161 (Nguyễn Trãi)Câu đầu trong bài 6 (Nguyễn Bỉnh Khiểm)Nguyễn Trãi:Yêu nhục nhiều phen vẫn đã từngNguyễn Bỉnh Khiểm:Vinh nhục ba phen hẳn đã từngNghĩa là:Yêu, nhiều chỉ thấy Nguyễn TrãiVinh, ba, vẫn chỉ thấy Nguyễn Bỉnh KhiêmNhục, phen, đã từng là chung cả hai '[2, trang 76]Từ cách phân chia đó tác giả đề ra phơng hớng so sánh "Xét cho cùngkhông có cách nào khác hơn là phải chịu khó đi vào chi tiết rất cụ thể, càng cụthể càng tốt" [2,77].Nhờ đi vào chi tiết cụ thể, cuối cùng tác giả phân ra bài nào của NguyễnTrãi, bài nào của Nguyễn Bỉnh Khiêm.VD: Bài 58 (Nguyễn Trãi) tức 113 Nguyễn Bỉnh Khiêm, mọi nét ngả vềNguyễn Bỉnh Khiêm.Đây là công trình nghiên cứu công phu, tỷ mỉ của Nguyễn Tài Cẩn. Qua đâygiúp ta biết đợc những nét riêng biệt về Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm4Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệptrong sáng tác, đặc biệt là cách dùng từ. Tuy nhiên cách xác định đó chỉ có ýnghĩa tơng đối.4.3. Bài viết của tác giả Bùi Văn Nguyên "Âm vang tục ngữ, ca dao trongthơ Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi" (Tạp chí ngôn ngữ số 3/1980).Tác giả đã đề cập đến ảnh hởng của văn học dân gian đối với thơ Nôm củaNguyễn Trãi. Tác giả viết: "có thể nói yếu tố tục ngữ ca dao khá đậm đà trongnhiều câu, nhiều bài thơ của ức Trai tiên sinh. Tiếng của tổ tiên ta đợc truyền lạigần nh nguyên vẹn trong tục ngữ, ca dao qua bao thế hệ. Tuy nhiên cho đến nay,chúng ta khó biết đích xác đợc xuất xứ nhiều câu tục ngữ, ca dao cổ truyền.Chính nhờ Nguyễn Trãi ghi lại một số câu tục ngữ ca dao trong thơ Quốc âm củamình mà chúng ta có đợc cái mốc lịch sử chắc chắn để tìm hiểu đợc một dạng vềtục ngữ ca dao với ý nghĩa lịch đại của nó".Chẳng hạn câu tục ngữ "Miệng ăn núi lở" đợc Nguyễn Trãi vận dụng viết câu:"Làm biếng hay ăn lở non" (Bài 22- Bảo kính cảnh giới).Cuối cùng tác giả khẳng định "Cách khai thác vốn có trong tục ngữ ca daocủa Nguyễn Trãi cũng linh hoạt sáng tạo" [11, trang 36].Nguyễn Trãi lấy tục ngữ, cao dao trong hai cách sau:Một là lấy trọn vẹn cả từ lẫn ý, hoặc gần nh trọn vẹn và có chỉnh lý chút ít.Hai là lấy ý chính trong một câu thơ cách luật hoặc lấy chí chính qua 2 câu khácnhau, ghép lại thành hai câu thơ cách luật đối nhau trong phần thực hoặc luận.Bài viết này tác giả Bùi Văn Nguyên đã nêu khái quát về ảnh hởng của tụcngữ, ca dao trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. Đồng thời khẳng định sự sáng tạo trongcách vận dụng văn học dân gian vào thơ Nôm của ông, góp phần nâng cao giá trịvăn học của tiếng Việt, làm cho tiếng Việt thêm giàu, thêm đẹp.4.4. Bài viết của Nguyễn Hữu Sơn "Góp phần tìm hiểu hình thức câu thơlục ngôn trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm" (Tạp chí văn học số 3/1987)Mở đầu bài viết, tác giả nói đến nguồn gốc thể thơ "nói đến Nguyễn BỉnhKhiêm ở bộ phận thơ chữ Nôm sáng tác theo thể thơ Đờng luật thất ngôn bát cúlà có ý dựa vào các bài thơ đó về mặt hình thức. Trở lại nguồn gốc sinh thành củachúng, đó là thể thất ngôn pha lục ngôn (thất ngôn pha câu 6 chữ). Một thể thơĐờng nhng đã chuyển đổi sáng tạo theo hớng mới, hợp với nếp cảm nếp nghĩ vàlỗi diễn đạt ngời Việt Nam" [17, trang 79].Sau khi phân tích những ý kiến khác về thể thơ lục ngôn, tác giả khẳng định"song, đi sâu vào thống kê phân loại một cách tỉ mỉ chi tiết và xếp đặt vị trí câuthơ 6 chữ vào từng nhóm, từng hệ thống theo mỗi loại bài thất ngôn pha lục ngôn thìchúng ta sẽ dễ dàng phát hiện ra đặc điểm chung nhất của chúng" [17, trang 80].5Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpCó thể tóm lại cách phân loại nh sau:Loại bài thất ngôn pha 1 câu 6 chữ.Loại bài thất ngôn pha 2 câu 6 chữ.Loại bài thất ngôn pha thơ 6 chữ khác.Nh vậy ở bài viết này đề cập tới 2 vấn đề chính: nguồn gốc thể thơ thất ngônchen lục ngôn và thống kê phân loại bài có câu 6 chữ trong thơ Quốc âm củaNguyễn Bỉnh Khiêm. Tác giả đã đi vào chi tiết cụ thể ở thơ Quốc âm NguyễnBỉnh Khiêm gần 200 bài. Đó là công trình nghiên cứu công phu và đảm bảo tínhkhoa học trong nghiên cứu văn học. Đây là bài viết giúp bản thân có cơ sở, cóhọc hỏi khi so sánh bài có câu lục ngôn trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và NguyễnBỉnh Khiêm.Nhìn chung những bài viết trên đều đề cập đến thể thơ thất ngôn chen lụcngôn. Nhng tất cả ý kiến đó đều nhận xét riêng biệt từng nhà thơ, cha có điểm sosánh đối chiếu. Trên cơ sở đó chúng tôi đi vào nghiên cứu so sánh đối chiếu thể thơthất ngôn chen lục ngôn trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm.b . Phần nội dungChơng I: Những vấn đề chung1.1. Vị trí của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tiến trình thơNôm trung đại Việt Nam.1.1.1. Vị trí của Nguyễn Trãi trong tiến trình thơ Nôm trung đại Việt NamNguyễn Trãi (1380-1442) quê Hải Dơng. Ông sống lao động nghệ thuật hếtmình và cống hiến cho đời ở nhiều mặt. Trong số đó phải kể đến phơng diện vănhọc - một nhà văn xuất sắc trong mọi thời đại. Nguyễn Trãi thành công về cả chữHán lẫn chữ Nôm, cả thơ lẫn văn.Về văn chính luận ta biết đến ông qua: Quân trung từ mệnh tập và Bìnhngô đại cáo.Về thơ: Thơ chữ Hán ức trai thi tập gồm 105 bài6Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpThơ chữ Nôm Quốc âm thi tập gồm 254 bàivà một số bài thơ khác.Tất cả các thành công ấy nhờ niềm đam mê văn chơng, cái tâm của ngờicầm bút. Trong đó sáng tác thơ Nôm đóng vai trò quan trọng giúp nhà văn thểhiện tấm lòng của mình, cảm nhận của mình trớc thế cuộc, những tình cảm sâusắc của một con ngời luôn sống vì nhân dân, vì Tổ quốc thân yêu.Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi với 254 bài là khối lợng thơ Nôm cổ nhấthiện còn. Tập thơ này của Nguyễn Trãi đợc Xuân Diệu ghi nhận: "đây là tácphẩm mở đầu của nền thơ cổ điển Việt Nam". Sức mạnh có thực của Quốc âmthi tập - với t cách là một tập thơ đã truyền đợc cảm xúc tinh tế của thời đạiNguyễn Trãi cho hậu thế. Đó chính là lý do chính để lịch sử thơ ca Việt Nam ghinhận công đầu cho Nguyễn Trãi.Nguyễn Trãi là ngời làm thơ tiếng Việt khi ngôn ngữ Việt cha chiếm lĩnh vịtrí đáng kể trong văn học dân tộc. (Bởi vì thơ Nôm đang hình thành trên đờng đivào ổn định và phát triển). Thế nhng Nguyễn Trãi đã đem ngôn ngữ tiếng Việtphong tục vào thơ một cách phổ biến, có thể nói trong'' quốc âm thi tập'' ngônngữ có sự đan cài giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ đời thờng, ngôn ngữ nghệthuật và những từ rất bình dị, thông tục. Thành công của tác giả là biết kết hợpđan xen giữa các ngôn ngữ ấy. Vì thế tập thơ có tính thông dụng: mọi ngời đọcdễ cảm nhận, dễ hiểu.Nguyễn Trãi viết'' Quốc âm thi tập'' khi luật thơ tiếng Việt có lẽ cha hoànthiện. Vì thế Nguyễn Trãi tận dụng thi pháp thơ Đờng của Trung Quốc để sángtác. Thế nhng Nguyễn Trãi không đắm mình trong thơ ca cổ điển Trung Quốc,mà ông sáng suốt tỉnh táo rời bỏ những cái không cần thiết trong thơ Đờng TrungQuốc, tìm kiếm hình thức riêng để biểu đạt ngôn ngữ thơ ca dân tộc. Bằng nhiềucách, Nguyễn Trãi dùng đợc câu 6 chữ đặt ở vị trí khác nhau trong âm vận chophép của thơ Việt mà không mất đi tính chất đối của thơ đờng. Lối viết thơ Nôm cótiếp thu, có sáng tạo là cống hiến có ý nghĩa đối với văn học nuớc nhà.Nguyễn Trãi đợc coi là ngời mở đầu trong việc sáng tác thơ Nôm hoànchỉnh, có hiệu quả ở Việt Nam. Là ngời đầu tiên sử dụng ngôn ngữ tiếng Việttrong thơ ca. Để thấy đợc tầm quan trọng, đóng góp to lớn của Nguyễn Trãi trongtiến trình thơ Nôm Việt Nam ta đem so sánh với văn học trớc và sau đó. Thử sosánh Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi) với thơ Quốc âm của Hội Tao Đàn thờiHồng Đức ta thấy: vẫn là tiếng Việt đó, song tiếng Việt mà các vị khoa bảngtrong cung đình Lê Thánh Tông dùng tuy đã có những vật lộn tìm tòi, nhng ngàynay đọc lại khuôn sáo, quanh quẩn và câu nệ. Còn Quốc âm thi tập (Nguyễn7Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpTrãi) dù ra đời cách xa thời đại mới nhng nó vẫn toả sáng đợc ngời sau khenngợi.Đối với các nhà thơ Nôm sau này nh: Nguyễn Du, Hồ Xuân Hơng, NguyễnĐình Chiểu,... thì Nguyễn Trãi vẫn là nhà thơ Nôm vĩ đại và sống mãi với thờigian.Không chỉ dừng ở đó, Nguyễn Trãi còn sử dụng chất liệu văn học dân giantrong sáng tác thơ Nôm. Ông vận dụng một cách sáng tạo tục ngữ, ca dao, thànhngữ làm cho câu thơ dễ đọc, dễ hiểu. Giúp ngời đọc sau mỗi lần cảm nhận đềuthấy vị ngọt, vị cay, vị đắng của làng quê Việt Nam. Trong lĩnh vực văn học,đóng góp lớn nhất là đẩy mạnh phát triển thơ Nôm. Kế thừa tác phẩm đời Trần,''Quốc âm thi tập khẳng định vị trí quan trọng của văn học chữ Nôm trong dòngvăn học viết.Có thể nói, Nguyễn Trãi có đóng góp lớn lao cho tiến trình thơ Nôm ViệtNam. Quốc âm thi tập đã chứng tỏ đợc điều đó. Đóng góp của Nguyễn Trãi cả vềphơng diện nội dung lẫn hình thức. Nội dung trong thơ Nôm của ông không chỉđơn thuần nói về chốn quan trờng nơi lầu son gác tía mà ở đó có cả hình ảnh củamột con ngời luôn suy nghĩ, chiêm nghiệm cuộc đời. ở đó có cả nơi mà nhà văntừng làm quan, có cả nơi tác giả ở ẩn. Là chốn thôn quê dân dã, bình dị mà thấmđợm tình ngời. Đó còn là suy nghĩ của một con ngời vì dân, vì nớc đang chứngkiến cái trớ trêu, ngợc đời. Hình thức trong thơ Nôm có truyền thống, có hiện đại,có cả ngôn ngữ bác học và bình dân và sự ảnh hởng sâu sắc văn hóa dân gian. Vìthế '' Quốc âm thi tập'' không chỉ có ích cho quá khứ, hiện tại mà cho cả tơng lai.Nền văn học chữ Nôm từ đó tồn tại, phát triển rực rỡ.Nhân kỷ niệm 520 năm ngày mất của Nguyễn Trãi, Phạm Văn Đồng đã viết"Thơ của Nguyễn Trãi là tâm hồn của Nguyễn Trãi trong sáng và đầy sức sống.Có ngời nói thơ của Nguyễn Trãi buồn vì cảnh đời của Nguyễn Trãi buồn. Thơcủa Nguyễn Trãi có bài buồn, có câu buồn vì lẽ gì chúng ta đều biết nhng cả tậpthơ của Nguyễn Trãi là thơ của một ngời yêu đời, yêu ngời, tâm hồn của NguyễnTrãi sống một nhịp với non sống đất nớc tơi vui". [5,trang 13].Đọc những lời của Phạm Văn Đồng về Nguyễn Trãi, ta mới thấy sức mạnhto lớn của thơ Nguyễn Trãi đối với thơ Nôm nói riêng và thơ ca Việt Nam nóichung. Nguyễn Trãi mãi là đỉnh núi luôn in bóng xuống dòng sông, là ngọn đuốcsáng cho thế hệ sau học tập và noi theo.Nhân tài không bao giờ hết, tiếp sau Nguyễn Trãi có một ngời đóng gópkhông nhỏ cho thơ Nôm Việt Nam. Đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm.1.1.2. Vị trí của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thơ Nôm trung đại Việt Nam8Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpTấm lòng tiên u đến già cha thôiCùng, thông, đắc, táng ta có lo chi cho riêng mình(Thơ chữ Hán - tự thuật)Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết nh vậy trong một bài thơ tự thuật bày tỏ niềm uái sâu sắc của chính mình. Chính cuộc đời và sự nghịêp thơ văn của ông đã phầnnào thể hiện nỗi chân tình ấy. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống cống hiến cho vănhọc gần suốt một thế kỷ. Đây là giai đoạn mà giai cấp phong kiến đi dần đến sàohuyệt suy thoái. Với tâm huyết sống và viết hết mình Nguyễn Bỉnh Khiêm đãthành công ở chữ Hán, chữ Nôm và một số bài văn tế.Thơ chữ Hán: Bạch vân am thi tậpThơ chữ Nôm: Bạch vân quốc ngữ thi tập.Bạch vân quốc ngữ thi tập là tập thơ có giá trị gồm 200 bài làm theo thể Đờng luật và thể thất ngôn chen lục ngôn. Điều đặc biệt là tập thơ Bạch vân quốcngữ thi tập không có đề mục cụ thể cho từng bài nh thơ Nôm Nguyễn Trãi haycác tác giả Hồng Đức. ở thơ Nôm Nguyễn Trãi tuy không có đề mục từng bài cụthể nhng lại có đề mục cho từng phần, mỗi phần gồm các bài.VD: Bảo kính cảnh giới (254 bài)ở thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm từ bài1 đến bài 20 chỉ là số thứ tự không cóđề mục từng bài, cũng không có đề mục từng phần.Nguyễn Bỉnh Khiêm có vai trò quan trọng cho giai đoạn văn học thế kỷXVI. Sáng tác của ông là tiếng nói chung của cả một tầng lớp trí thức dân tộcphải sống trong buổi suy vi của chế độ phong kiến. Đề bày tỏ nỗi lòng ấy ôngtìm đến thơ Nôm nh ngời bạn tâm giao để gửi gắm tâm sự.Trong sáng tác văn học dù đề tài thể thơ giống nhau nhng mỗi nhà văn cóphong cách riêng biệt. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm mang phong cách độc đáoriêng biệt không lẫn với bất cứ ai.VD: Cả Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Trãi đều nói đến cảnh nhàn tản nhng ở Nguyễn Bỉnh Khiêm không chứa đựng niềm u uất của một nhân cách caođẹp bị chèn ép mà chứa đựng sự chán nản về cuộc đời và suy t triết lý sâu sắc.Hiểu đợc nh vậy ta mới khẳng định đóng góp Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với thơNôm nớc nhàNgôn ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm có phần bắt nguồn từ chấtliệu văn học dân gian. Ông tiếp thu có chọn lọc, cải tạo ,biến hoá câu tục ngữ, cadao để trở thành câu thơ của mình. Sự biến hoá ấy tạo nên câu thơ vừa mang âmhởng dân gian vừa mang đậm phong cách Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhờ đó nhịpđiệu vững chắc và chất phác khoẻ mạnh của hình tợng thơ. Với cách dùng thi9Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpliệu văn học dân gian Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đóng góp một phần không nhỏ chongôn ngữ thơ Nôm Việt Nam vừa bình dị mà triết lý sâu sắc.Bên cạnh đó, thiên nhiên đất nớc và cuộc sống con ngời đợc miêu tả vớiphong vị đậm đà cụ thể sinh động. Đó là sản vật quê hơng, lối ăn, lối mặc nếpnghĩ của ngời Việt Nam. Rõ ràng viết bằng tiếng mẹ đẻ, thơ Nôm Nguyễn BỉnhKhiêm đã phản ánh đậm đà nét đời sống của nhân dân, làm cho thơ Nôm đi vàolòng ngời một cách dễ dàng.Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm tiếp thu ảnh hởng của nguồn văn liệu Hánhọc, thành ngữ Hán học, khẩu ngữ Hán học đợc Việt hoá.VD:'' Hậu sinh khá uý ''(sách luận ngữ) (kẻ sinh sau là đáng sợ).Nguyễn Bỉnh Khiêm viết "Dẫu thấy hậu sinh thì dễ sợSừng kia chẳng mọc, mọc hơn tai"(Thơ Nôm - bài 73)(Nghĩa là: Không đợc coi thờng, phải coi trọng kẻ sinh sau mình vì kẻ sinhsau mình có tiềm năng có thể vợt mình nh sừng mọc sau tai nhng sừng sẽ dài hơntai).Thi liệu Hán học Việt hoá tuy không nhiều, nhng nhìn chung thơ NômNguyễn Bỉnh Khiêm ít từ ngữ, điển cố Hán học. Điều đó chứng tỏ sự trởng thànhcủa Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong việc vận dụng ngôn ngữ dân tộc. Đọc thơ NômNguyễn Bỉnh Khiêm ta có thể khẳng định sự giản dị, thuần thục, thanh thoát củangôn ngữ văn học Việt, trong việc đồng hoá thi liệu Hán học, tiếp thu ảnh hởngngôn ngữ bình dân và văn học dân gian.Nhờ cách sử dụng ngôn ngữ nh thế nên nội dung trong thơ Nôm NguyễnBỉnh Khiêm phong phú, đa dạng. Nó không phải là cái gì cao siêu, xa lạ trên bầutrời xanh thẳm mà tất cả những gì gần gũi quanh ta, đang diễn ra hàng ngày,hàng giờ.Đó là lời khuyên răn của ngời đi trớc đối với con cháu, suy nghĩ về cuộcđời về nỗi khổ của ngời dân. Tất cả là nỗi lòng tâm tình của Nguyễn Bỉnh Khiêmđối với đời, với Tổ quốc non sông. Đặc biệt thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm làmtheo thể Hàn luật hoặc Hàn luật pha thể lục ngôn, tức là thể tài thơ Nôm có từ trớc. Trong gần 200 bài thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm thì số bài là thể lục ngônchiếm u thế. Nh vậy thể Hàn luật theo của Đờng còn ít mà Hàn luật pha lục ngônchiếm u thế, thông dụng hơn. Để chứng minh cho điều đó, tác giả Đinh GiaKhánh đã viết "Tất cả những bài thơ trong Bạch vân quốc ngữ thi tập đều viết thểHàn luật pha lục ngôn, một thể thơ rất quen thuộc trong Quốc âm thi tập của các10Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệptác giả cuối thế kỷ XV" (Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm Nxb văn học, H.1983). [Trang42]ý kiến đánh giá ấy tuy đúng nhng có chỗ cần bàn thêm. Bởi vì khi đi sâuvào khảo sát cụ thể ta vẫn thấy có những bài không có câu lục ngôn .VD :Bài 5 thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm.Nói nh vậy là để khẳng định vị trí u thế của thơ Hàn luật pha lục ngôn. Qua đóthấy đợc vị thế đóng góp của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với sáng tác thơ Nôm.Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm kết hợp đợc cái gân guốc khoẻ mạnh của thơNôm Nguyễn Trãi với sự thuần thục của thơ Nôm thời Lê Thánh Tông. Sự kếthợp ấy tạo nên chất liệu thơ đặc biệt mang phong cách rất Nguyễn Bỉnh Khiêm.Thành tựu về thơ của ông xứng đáng với truyền thống thơ ca hàng nghìn năm củadân tộc Việt Nam.Nguyễn Bỉnh Khiêm là cầu nối giữa văn học truyền thống và văn học giaiđoạn mới. Ông tiếp thu có chọn lọc truyền thống thơ ca dân gian, của các tác giảđi trớc đồng thời luôn đổi mới mình để phù hợp xu thế thời đại. Bởi văn chơngcần sự sáng tạo, "khơi nguồn cha ai khơi, sáng tạo những gì cha có" (Nam Cao).Tóm lại Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm là những tác giả tiêu biểu vănhọc trung đại nói riêng, văn học Việt Nam nói chung, thành công ở thể loại thơNôm. Họ gặp nhau sử dụng thể thất ngôn chen lục ngôn, chất liệu văn học dângian để nói về cuộc đời, nhân tình thế thái.1.2. Về thể thơ thất ngôn chen lục ngôn trong văn học trung đại Việt Nam.Trong văn học Việt Nam trung đại đã xuất hiện thể thơ: Thất ngôn chen lụcngôn ở thơ Nôm. Thể thơ này đã đợc nhiều tác giả sử dụng nhng phổ biến vàthành công nhất là Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm.Đây là thể thơ đợc sử dụng suốt thời gian dài từ nữa sau thế kỷ XV đếnXVIII (Nguyễn Trãi - Nguyễn Hữu Chỉnh). Do vai trò của thể thơ này trong nềnthơ viết bằng tiếng Việt thời cổ, một vai trò không thể phủ nhận đợc nên ngời taphải định cho nó một cái tên và xếp nó vào loại thơ khác nhau.1.2.1. Nguồn gốc thể thơMỗi thể thơ đều có nguồn gốc nhất định, nhng để xác định nó sinh ra từ đâu thìcả một vấn đề. Đối với các thể loại khác có thể xác định nguồn gốc dễ dàng hơn,riêng thể thơ thất ngôn chen lục ngôn có rất nhiều ý kiến. Mỗi ý kiến có quan điểm,cách giải thích riêng nhng có 2 luồng ý kiến: Có một số ngời cho rằng thể thơ này làbắt chớc của Trung Quốc, có ngời cho là của ngời Việt Nam tự tạo ra. Vậy về thể thơnày các nhà nghiên cứu đã xem xét nguồn gốc của nó thế nào ?11Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpTrong "Việt Nam văn học sử yếu": Dơng Quảng Hàm định danh cho nó là"Lục ngôn thể" "Lối thơ thất ngôn xen vào vài câu chỉ có 6 chữ". Tác giả xếp nóvào loại bắt chớc của Tàu [trang 115].Trong cuốn "Hợp tuyển thơ văn Việt Nam'' tập II, Nxb văn học, H.1976, các tácgiả cũng định danh đây là thể "Thơ Đờng luật có pha lục ngôn".[trang 316]Hai tác giả Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức trong cuốn "Thơ ca Việt Namhình thức và thể loại" cho rằng: "Một trong các thể thơ đặc biệt" của thơ luật Đờng[12, trang 307]. Đồng thời khẳng định: "Trong thơ Quốc âm ta xa thể thơ thất ngônbát cú có xen vào một số câu 6 từ ngời ta cũng gọi là thể thơ lục ngôn. Thật ra nêngọi thể pha lục ngôn và phải đúng niên luật nh câu 7 chữ" [12,trang307].Nh vậy, về nguồn gốc thể thơ luồng ý kiến một cho rằng :đó là thể thơTrung Quốc bắt nguồn từ thơ đờng Trung Quốc. Theo chúng tôi đó là ý kiến cóphần đúng, có phần cha đúng. Để chứng minh điều đó ta đi sâu nghiên cứu sẽthấy. Mặt đúng ở chỗ: dù ngời Việt Nam có sáng tạo chuyển đổi nhng nguồn gốcxuất phát vẫn là thơ Đờng Trung Quốc. Vì nguồn gốc, cội nguồn là cái mà ta cầnphải nhớ, phải để ý dù nó đã biến đổi. Trong văn học có văn học nội sinh và vănhọc ngoại nhập. Văn học nội sinh là văn học hoàn toàn do ngời Việt sáng tạo,còn văn học ngoại nhập là ta vay mợn của nớc khác nhng có sự sáng tạo của ngờiViệt Nam. Do đó thể thơ thất ngôn chen lục ngôn thuộc loại văn học ngoại nhập.Phần không đúng: dù đó là thể ngoại nhập những đã đợc chuyển đổi sángtạo theo hớng mới, theo nếp cảm, nếp nghĩ và lối diễn đạt ngời Việt. Nó phù hợpvới ngời Việt trong cách sử dụng cách thể hiện đúng đắn lúc đó trở thành thơ cangời Việt thực sự. Trong văn học đòi hỏi sự sáng tạo, sáng tạo là thớc đo chothành công. Nếu thơ Đờng không có sự tham gia sáng tạo tiếp nhận ngời Việt thìmãi mãi vẫn của Trung Quốc. Nhng khi đợc ngời Việt vay mợn biến đổi nó trởthành một thể thơ mới: "Thể thơ thất ngôn chen lục ngôn".Luồng ý kiến thứ hai cho rằng: đó không phải là thể thơ vay mợn mà sảnphẩm sáng tạo của các nhà thơ Việt Nam tức là thể loại thuộc văn học nội sinhnó không liên quan gì đến ngoài nớc cả. Tiêu biểu cho nhóm ý kiến này là tác giảPhạm Luận (Tạp chí văn học, số 4/1991).Tác giả phủ nhận các ý kiến cho là thể thơ thất ngôn chen lục ngôn bắt chớccủa tàu. "Quan sát câu thơ Nôm 6 chữ trong một bài thơ cụ thể ta thấy rõ đợcxây dựng trên cơ sở của một trong bốn kiểu câu thất ngôn luật [9, trang 25].Đồng thời khẳng định: "Trong Quốc âm thi tập những câu 7 ngắt nhịp 3-4những câu ngắt nhịp 2 - 2 - 2, 2 - 4, 4 - 2, 1- 3 - 2. Tức là phần cuối có nhịp12Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpchẵn, những câu này đợc tạo ra phải chăng chủ yếu là do tác động thơ ca dângian Việt Nam" [9,trang 25].Nh vậy, tác giả Phạm Luận đã đa lý lẽ bảo vệ ý kiến của mình đến cùng chorằng:" Thể thơ thất ngôn chen lục ngôn hoàn toàn do ngời Việt Nam sáng tạo".Để biết xem ý kiến đó đúng hay sai ta nên xem xét cụ thể từng bài thơ. Nếu tấtcả đều đúng nh vậy thì tác giả đúng còn có ngoaị lệ thì không hoàn toàn đúng.Đi sâu vào chi tiết các bài thơ ta thấy ý kiến đó đúng ở chỗ: có một số bài cócâu lục ngôn là sản phẩm sáng tạo của nhà thơ viết bằng cách vận dụng nền vănhọc dân gian để viết nên câu 6 chữ thật hay, dễ hiểu.VD:Giàu ba bữa, khó hai niêu(Bài 3 - thơ Nôm - Nguyễn Bỉnh Khiêm)VD:Muốn ăn trái dỡng nên cây(Bài 10 - Bảo kính cảnh giới - Nguyễn Trãi)Hai câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiểm và Nguyễn Trãi đều bắt nguồn từ vănhọc dân gian Việt Nam. Đó là nguồn văn học rất quý báu của dân tộc Việt Nam.Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vận dụng tinh hoa văn hoá dân tộc tạonên câu thơ dễ đọc, dễ hiểu. Tạo nên thể thơ thất ngôn chen lục ngôn hoàn toàndo sáng tạo ngời Việt không hề vay mợn.Nhng ý kiến Phạm Luận cha đúng ở chỗ: Không phải tất cả các câu lụcngôn trong thơ Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều bắt nguồn từ văn họcdân gian và do cha ông ta sáng tạo ra.VD:Béo nhân sinh bảy tám mơi(Bài 11 -Nguyễn Trãi)VD:Am bạch vân rồi nhàn hứng(Bài 13 - Nguyễn Bỉnh Khiêm)Vậy những câu thơ này từ đâu mà có, tại sao trong một bài thơ 7 chữ lạixem các câu 6 chữ mà ta không biết nguyên do? Đây là một vấn đề cần nghiêncứu thật kỹ càng, cụ thể từng bài.Theo chúng tôi thể thơ thất ngôn chen lục ngôn không hoàn toàn là củaTrung Quốc, không hoàn toàn là của Việt Nam. Mà nó là thể thơ của văn họcViệt Nam nhng thuộc văn học ngoại nhập. Từ việc vay mợn ban đầu là của TrungQuốc nhng do sáng tạo tìm tòi biến đổi phù hợp cách nói, cách nghĩ ngời Việt nên làthể thơ của Việt Nam. Nhng dù sao ta không thể quên nguồn gốc sinh thành ,nơi đãsinh ra nó. Để từ nay ta có thể thơ mới "Thất ngôn chen lục ngôn".1.2.2. Đặc điểm cấu trúc13Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpMột bài thơ gọi là làm theo thể thất ngôn chen lục ngôn là bài thơ có 8 câutrong đó có cả câu 7 chữ và có cả câu 6 chữ.VD:Trong tạo hoá có cơ mầu,Hay đỡ hay dừng mới kéo âu.Nớc bếc non xanh thuyền gối bãi,Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu.Chén châm rợu đậu ngày ngày cạn,Túi quáy thơ nhàn chốn chốn thâu.Kham hạ Nghiêm Quang từ chẳng đến,Đồng Giang đợc nấn một đài câu.(Bài 26- Bảo kính cảnh giới - Nguyễn Trãi)Bài thơ trên làm theo thể thất ngôn chen lục ngôn: 7 câu 7 chữ, 1 câu 6 chữ.Với nó là câu 6 chữ chen lẫn trong câu 7 chữ nên câu 6 chữ đó cũng phải xemmình là câu 7 chữ thực sự giống câu 7 chữ.Bởi thế Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức đã cho rằng :"Chữ thứ 3 của câu 6sẽ làm nhiệm vụ của chữ thứ t trong câu để niêm với chữ thứ 4 của câu 7 chữ vàchữ thứ 5 trong câu 6 phải làm nhiệm vụ của chữ thứ 6 để niêm đợc với chữ thứ 6trong câu 7" [2; trang 307].Có nh vậy câu thơ lục ngôn mới tồn tại và kết hợp với các câu khác tạo nênbài thơ cân đối, nhịp nhàng. Nên khi ta đọc bài thơ theo thể thất ngôn chen lụcngôn cũng giống nh các bài thơ khác nó trôi chảy,dễ cảm, dễ đọc.Nói đến đặc điểm thể thơ này, tác giả Phạm Luận đã khẳng định :"Nó vốn làcâu thất ngôn luật bị bớt đi một chữ'' [ 9,trang 25].Đồng thời tác giả đi sâu chứng minh ý kiến của mình trong thơ NômNguyễn Trãi.VD:Bài 219 thơ Nôm Nguyễn Trãi (Quốc âm thi tập)Cội rễ bền dời chẳng độngNguyên thể là câu 7 chữ bớt đi chữ thứ 5 âm tiết bằng (thất ngôn luật b).T T B B (B) T T -> T T B B T TCội rễ bền dời lâu chẳng động -> Cội rễ bền dời chẳng độngVD : Bài 113 Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi)tính ắt trần trần nẻo sinh (câu 1)Vốn là câu thất ngôn luật kiểu B, bớt đi chữ thứ 5 âm tiết trắcT T B B (T) T B -> TT BB TBCác câu 6 chữ đều đợc tạo ra từ câu thất ngôn luật bằng cách bỏ đi một chữtrong câu ấy.14Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpChữ bị bỏ thờng là chữ thứ 5 thứ 4 có khi thứ nhất trong trờng hợp câu 6ngắt nhịp 3/3.VD: Trong tạo hoá có cơ mầu(câu 1 - bài 26 - Bảo kính cảnh giới - Nguyễn Trãi)Nguyên thể kiểu b bớt đi chữ thứ nhất âm tiết trắc.Hầu hết những câu lục ngôn đều vốn là những câu thất ngôn luật. Mọi ngờiđều biết cấu trúc của thể thất ngôn luật, bát cú hay tứ tuyệt cũng vậy là sự luânphiên 4 kiểu câuBB TT TB B(kiểu A)TT BB TT B( Kiểu B)TT BB BT T(Kiểu b)BB TT BB T(kiểu a)Nh vậy, về đặc điểm cấu trúc, thơ thất ngôn chủ yếu là do câu thất ngôn luậtbớt đi một chữ nhng nó vẫn đảm bảo yếu tố nhịp, nội dung nh câu 7 chữ. Mặtkhác câu lục ngôn không phải do bớt đi 1 chữ từ câu thất ngôn luật mà sinh ra nóvốn 6 chữ. Chỉ có điều nó vẫn phải làm nhiệm vụ câu 7 chữ. Cả hai đặc điểm đóđều quan trọng, đều đúng. Bởi vì khi đi sâu tìm hiểu chi tiết từng bài thơ thấykhông có điều sai lệch mà đúng đắn.Tóm lại, về thể thơ thất ngôn chen lục ngôn dù xét nguồn gốc hay đặc điểmđều có ý kiến khác nhau. Mỗi ý kiến có lý lẽ riêng của nó. Tuy nhiên để tìm cáchhiểu nhất quán cho mình, cần phải đi sâu tìm tòi khám phá đặc điểm chi tiết cụthể từng bài thơ từng câu.1.3. Sự hiện diện của câu thơ lục ngôn trong thơ Nôm Nguyễn Trãi vàNguyễn Bỉnh Khiêm.Thơ Nôm của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm có nhiều bài sử dụngcâu lục ngôn nhng chúng tôi chỉ khảo sát mỗi nhà thơ 61 bài. Việc đa câu lụcngôn vào xen với câu thất ngôn là sáng tạo độc đáo của tác giả. Đó còn là dụngý nghệ thuật mà nhà thơ muốn gửi gắm đến bạn đọc. Có nhiều ý kiến khác nhauvề thể thơ này nhng đi sâu khảo sát từng bài ta sẽ thấy rõ quy luật, sự hiện diệncủa câu lục ngôn.1.3.1. Khảo sát, thống kê, phân loại câu lục ngôn trong" Bảo kính cảnhgiới" (Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi)Xét 61 bài thơ:'' Bảo kính cảnh giới ''( Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi )chúng tôi rút ra một số điều sau: Có 43/61 bài sử dụng câu lục ngôn, chiếm 71%.15Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpTuy nhiên đây là tỷ lệ tơng đối vì ở "Bảo kính cảnh giới" có những bài thơtrùng với thơ Quốc âm của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà ta cha xác định cụ thể là củaai.VD:Giàu chỉnh chiêu, khó lai rai. (Bài 2 - Nguyễn Bỉnh Khiểm)Giàu ngợi họp khó ngời tan.(Bài 12 - BKCG- Nguyễn Trãi)Trong 43 bài có sử dụng câu lục ngôn thì tác giả dùng từ 1 - 4 câu ở các bài.17 bài có 1 câu lục ngôn chiếm 40% (gồm các bài: 2, 3, 5, 7, 8,10, 11, 12,17, 19, 20,22, 23, 24, 26, 38, 53).17 bài có 2 câu lục ngôn chiếm 40% (gồm các bài: 9, 16, 21, 35, 36, 37, 43,45, 47, 49, 50, 52, 56, 57, 58, 59, 60).6 bài có 3 câu lục ngôn chiếm 13% (gồm các bài:27, 28, 34, 39, 42, 48)3 bài có 4 câu lục ngôn chiếm 7% (gồm các bài:32, 40, 41) .Từ tỷ lệ đó ta thấy rằng: bài thơ sử dụng thể thất ngôn chen lục ngôn thì câu7 chữ vẫn là chính và chen vào đó một số câu 6 chữ. Vị trí mà câu lục ngôn đặttrong bài thơ cũng có sự thay đổi:ở vị trí đầu bài: có 11 câu chiếm 14%,ở giữa bài: có 59 câu chiếm 72% (giữa bài gồm các câu từ dòng 2 - 7).ở cuối bài :có 11 câu chiếm 14%.Vậy là một vấn đề đợc đặt ra: câu lục ngôn rơi vào vị trí đầu và cuối chiếmtỷ lệ cân xứng, đối sánh nhau. Bởi lẽ câu 6 chữ xuất hiện ở đầu, cuối bài thơnhằm diễn đạt ấn tợng mạnh mẽ. Một sự phá cách về nhịp điệu nhng không phácách về hình thức kết cấu chung của bài thơ. Đầu cuối tơng ứng tạo cho bài thơđậm chất triết lí.VD:Muốn ăn trái dỡng nên cây(Câu 1 - Bài 10 - Nguyễn Trãi)Câu lục ngôn đặt ở đầu câu với triết lý nhân sinh về cuộc đời, về con ngời.Tơng ứng với nó, Nguyễn Trãi đặt câu lục ngôn ở cuối bài."Đầu cuối tơng ứng" là nghệ thuật đặc sắc trong cách sử dụng câu lụcngôn,làm cho bài thơ chặt chẽ.Đen gần mực, đỏ gần son.Nhờ câu cuối ngời đọc tiếp cận khái quát hiểu đầy đủ hơn về bài thơ, đúc rútkinh nghiệm ở đời.Một điều lạ là bài có 1 câu 6 chữ thì câu đó không bao giờ rơi vào một trongbốn câu giữa. Điều này sẽ làm rõ , lý giải ở sự tơng đồng của hai tác giả.Trong 17 bài có hai câu lục ngôn thì loại 2 câu lục ngôn liền kề chiếm u thế:16Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệp11 bài có 2 câu lục ngôn liền kề (9, 35,36, 37, 47, 49, 52, 57, 58, 59, 60)chiếm 65%.6 bài có 2 câu lục ngôn tách rời (16, 21, 43, 45, 50, 56) chiếm 35%.Những cặp lục ngôn liền kề đều đối nhau (gần 100%) và vị trí câu đối rơivào câu 5 và 6. Đó chính là quy luật cơ bản của hình thức đối trong thơ Đờng(đối thanh, đối ý, niên luật).Các cặp đối luôn có tơng ứng trong cách ngắt nhịp hô ứng về âm thanh tiết tấu:VD:Vung bất tài nên kém bạn,Già vô sự ấy là tiên.(Bài 36 - Bảo kính cảnh giới - Nguyễn Trãi)Về cách ngắt nhịp: trong câu lục ngôn Nguyễn Trãi sử dụng cách ngắt nhịpphong phú, đa dạng: có sự cân đối nhịp nhàng của ca dao, tục ngữ (3/3), có nhịpchẵn (4/2; 2/2/2), có cả cách ngắt nhịp là thờng. Nhng qua khảo sát chủ yếu lànhịp 3/3: có tới 42/81 câu nhịp 3/3 chiếm 52%.Cách ngắt nhịp ấy tạo nên sự cân đối hài hoà cho câu thơ, bài thơ:Gia tài ấy/ xem nhàn hạ,Đạo đức nay/ khá chính chuyên.(Bài 58 - Bảo kính cảnh giới - Nguyễn Trãi)Ta bắt gặp rất nhiều cách ngắt nhịp này trong "Bảo kính cảnh giới" cùng vớiviệc đối nhau về âm thành và tiết tấu. Từ đó tạo nên vần thơ mang d âm phong vịriêng trong thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi. Nó vừa mang thi vị của cổ điển, vănhọc dân gian vừa là sự sáng tạo độc đáo mà đến nay vẫn còn giá trị.Bên cạnh cách ngắt nhịp đối thanh, Nguyễn Trãi sử dụng số câu lục ngôntrong bài cũng đa dạng. Có khi một bài thơ chỉ có 1 câu lục ngôn, nhng có khimột bài thơ có tới 4 câu lục ngôn. Vậy thử hỏi khi sử dụng 4 câu lục ngôn trongbài có gì khác biệt không?Theo chúng tôi, sẽ có sự mới mẻ về nội dung cũng nh nghệ thuật. Bài thơấy sẽ cô đọng hơn, có sự sáng tạo nhiều hơn và phù hợp nội dung tác giả muốnphản ánh.... Dầu ngặt ta vui đạo ta,Ngắm xem mai hay tuyết đến.Say thớng nguyệt lộ thu qua,.... Trong dòng phẳng có phong ba.(Bài 41 - Bảo kính cảnh giới - Nguyễn Trãi)Đọc bài thơ, ta cảm giác nh tác giả soi chiếu tài năng của mình về ngôn ngữthơ ở trong đó. Đặc biệt giúp bản thân hiểu đợc những cảm nhận ở đời của con17Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpngời từng trải, từng làm quan, ở ẩn. Quan niệm, lời tâm sự ấy đúng với thờiNguyễn Trãi và đến ngày nay vẫn có giá trị. Vì trong cuộc đời con ngời không aicó thể đi theo đờng thẳng mà đôi lúc có khó khăn, sóng gió. Chính ta bằng lòngcuộc sống của ta mới thấy niềm vui, hạnh phúc.Nh vậy Nguyễn Trãi là ngời tiền phong trong việc sử dụng thành công thểthơ" thất ngôn chen lục ngôn". Câu lục ngôn mà tác giả dùng trong " Bảo kínhcảnh giới" ở nhiều bài, nhiều vị trí khác nhau và cách ngắt nhịp không giốngnhau. Tuy nhiên, nó có nét khu biệt khi nghiên cứu. Bên cạnh đó câu lục ngônmà Nguyễn Trãi dùng có ảnh hởng từ kho tàng văn học dân gian.1.3.2. Khảo sát, thống kê, phân loại câu lục ngôn trong 61 bài thơ Nômcủa Nguyễn Bỉnh Khiêm.Qua khảo sát 61 bài thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm :Có 44 bài sử dụng câu lục ngôn chiếm 72%.Trong số 61 bài có 1 bài 6 câu nhng có tới 4 câu lục ngôn. Đây vừa là nétkhác biệt vừa là sáng tạo của Nguyễn Bỉnh Khiêm.Một cơ yêu, nhọc đổi thay điều,Yêu bao nhiêu thì nhọc bấy nhiêu.Tham phải cái công danh luỵ,Buồn cho con tạo hoá trêu.Vui vờn Lạc xã năm khách,Lánh đất Nam Dơng một lều.(Bài 28 - Nguyễn Bỉnh Khiêm)Cũng nh Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng sử dụng số lợng câu lụcngôn từ 1 đến 4 câu. Trong 44 bài có câu lục ngôn:13 bài có 1 câu lục ngôn chiếm 27% (gồm cácc bài:1, 2, 4,7, 9, 14, 16, 25,32, 33, 45, 46, 49).21 bài có 2 câu lục ngôn chiếm 48% (gồm các bài:3, 7, 10, 12, 13, 19, 20,22, 26, 27, 36, 38, 43, 50, 52, 53, 56, 59, 61, 30).7 bài có 3 câu lục ngôn chiếm 16% (gồm các bài:17, 24, 31, 54, 55, 47)4 bài có 4 câu lục ngôn chiếm 9% (gồm các bài:18, 21, 28, 34)Bài có 1 câu lục ngôn:Lần thần ngày qua tháng qua(Bài 1: Nguyễn Bỉnh Khiêm).Bài có 2 câu lục ngôn:Giàu ba bữa, khó hai niêu,Thong thả hôm rằu, sớm thức.18Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệp(Bài 3 - Nguyễn Bỉnh Khiêm)Tuy nhiên vị trí các câu lục ngôn trong bài không giống nhau:ở vị trí đầu bài thơ có 17 câu chiếm 19%.ở vị trí giữa bài thơ có 67 câu chiếm 74%.ở vị trí cuối bài thơ có 7 câu chiếm 7%.Khác với Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng câu lục ngôn ở vị tríđầu chiếm u thế điều đó chứng tỏ có dụng ý nghệ thuật của tác giả.Vì thế trong cuốn (Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm , Nxb Hà Nội. 1983) có nói:"Thơ Hàn luật gồm có 8 câu hoặc 4 câu mỗi câu 7 chữ. Thơ Hàn luật phalục ngôn lại xen vào những câu 6 chữ ở bất cứ vị trí nào. Vì vậy trong việc vậndụng nhịp điều của tác giả đợc tự do phóng khoáng hơn là chỉ theo đúng thể cáchcủa Hàn luật". [Trang 43]Đối chiếu thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm và ý kiến trên ta tìm thấy chỗ đúng đắn:Tỷ lệ sử dụng câu lục ngôn Nguyễn Bỉnh Khiêm khá lớn.Số câu tăng dần từ 1 đến 4Mỗi loại bài thất ngôn pha lục ngôn có cách kết hợp khác nhau.Tuy nhiên nếu đi sâu vào câu lục ngôn ta dễ phát hiện ra điểm chung nhấtcủa chúng:Trong 12 bài có 1 câu lục ngôn thì :7 bài là câu lục ngôn ở dòng thứ nhất.4 câu ở dòng thứ 7.1 câu ở dòng cuối cùng.21 bài có 2 câu lục ngôn: có thể 2 câu liền kề, có thể 2 câu tách rời nhau, có18 cặp câu lục ngôn liền kề.Hầu nh các cặp lục ngôn liền kề đều đối nhau, vị trí chủ yếu ở câu 3 và 4:Am Bạch Vân rồi nhàn hứng,Dặm hồng trần biếng ngại chen.(Bài 13 - Nguyễn Bỉnh Khiểm)Từ nghệ thuật đối ở câu lục ngôn tạo đợc cách ngắt nhịp cân xứng. Nhịpđiệu trong câu lục ngôn Nguyễn Bỉnh Khiêm phong phú đa dạng:Có cách ngắt nhịp lạ 1/5:Rằng/ còn một túi thơ treo.(Bài 38 - Nguyễn Bỉnh Khiêm)Có cách ngắt nhịp chẵn: 2/2/2; 4/2; 2/4Lần thần/ ngày qua/ tháng qua.(Bài 1 - Nguyễn Bỉnh Khiểm)19Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpNhng chủ yếu là cách ngắt nhịp 3/3. Qua khảo sát thống kê có 62/91 câu lụcngôn ngắt nhịp 3/3 chiếm 68%.Già thơ dại/ tính lâu dời(Bài 24- Nguyễn Bỉnh Khiêm)Yêu đòi phận/ giàu tự tại(Bài 14 - Nguyễn Bỉnh Khiêm)Nhịp trong câu thơ đã tạo ra cái hay cái đẹp cảm nhận tinh tế của nhà thơ.Thiết nghĩ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng câu lục ngôn, có sự tiếp thu vănhọc dân gian và Nguyễn Trãi. Những câu lục ngôn Nguyễn Bỉnh Khiêm mangâm hởng màu sắc dân gian.VD:Ai hỏi làm chi vui nữa,Tha rằng một sự làm lành.(Bài 17 - Nguyễn Bỉnh Khiêm)Khi sáng tác 2 câu thơ này Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sử dụng ý câu tục ngữ:Một sự nhịn chín sự lànhRõ ràng Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng chất liệu văn học dân gian trong việcsáng tạo câu lục ngôn. Đến lợt văn học dân gian thầm cảm ơn Nguyễn BỉnhKhiêm làm cho mình phong phú hơn, đa dạng hơn.Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng câu lục ngôn trong sáng tác thơ Nôm linhhoạt, hết sức chắt lọc, sáng tạo. Nó thể hiện tâm t tình cảm của nhà thơ đồng thờitạo sự phá cách trong nghệ thuật sử dụng. Tất cả hoà quyện vào nhau tạo nên âmhởng phong vị thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.Ông xứng đáng là cây rợp bóng cho thơNôm Việt Nam.20Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpChơng IINhững điểm tơng đồng về việc sử dụng câu lục ngôntrong thơ Nôm nguyễn Trãi và nguyễn bỉnh khiêmSau khi khảo sát "Bảo kính cảnh giới" (Nguyễn Trãi) và 61 bài thơ Nôm(Nguyễn Bỉnh Khiêm ) .Chúng tôi rút ra điểm tơng đồng trong việc sử dụng thểthơ thất ngôn chen lục ngôn ở thơ Nôm của hai tác giả.Sự tơng đồng thể hiệntrên hai phơng diện chính: nội dung và hình thức.2.1. Tơng đồng về hình thứcNói tới hình thức sử dụng câu lục ngôn tức là nói cách sử dụng, vận dụngnh thế nào trong bài thơ ? Đó là về số lợng câu dùng trong bài ,tỷ lệ, vần, nhịpđiệu. Giống nhau về hình thức sẽ dẫn đến giống nhau về nội dung. Sự giống nhauấy thể hiện ở các phơng diện sau:2.1.1. Tơng đồng về số lợng bài, tỷ lệ và vị trí câu lục ngônTheo khảo sát ngẫu nhiên 61 bài "Bảo kính cảnh giới"( Nguyễn Trãi) và 61bài thơ Nôm(Nguyễn Bỉnh Khiêm ) thì số lợng tỷ lệ câu lục ngôn ở hai tác giả cónét tơng đồng. Họ đã đa vào câu lục ngôn ở số bài nhiều tỷ lệ khá cao.Nguyễn Trãi 43/61 bài sử dụng câu lục ngôn chiếm 71%.Nguyễn Bỉnh Khiêm 44/61 bài có sử dụng câu lục ngôn chiếm 72%.Có thể nói sự tơng đồng gần nh trùng lặp chỉ hơn kém 1%. Đây là điều hiếmthấy khi so sánh 2 tác giả và tạo cơ sở để chúng ta phát hiện ra điểm t ơng đồngxung quanh nó. Dù là khảo sát ngẫu nhiên, không lựa chọn nhng có cự trùng lặpnh vậy là điều lạ, điều tốt giúp chúng tôi thực hiện tốt đề tài này. Phải chăngphải có điều gì đó khiến cho hai tác giả gần gũi nh vậy. Điều đầu tiên đó là sựđam mê văn chơng, có ý thức về nghề văn, hai tác giả luôn có sự sáng tạo độcđáo. Đa câu lục ngôn chen lẫn vào câu thất ngôn không phải để chơi cho hay màcó sự sáng tạo và dụng ý nghệ thuật. Tại sao không để luôn là câu thất ngôn nhnhng bài thơ khác mà phải đa vào câu lục ngôn ? Đó là cả một vấn đề chọn lựacủa tác giả để thể hiện thành công bài thơ giúp bạn đọc tìm đến cái mới lạ trongvăn chơng.21Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpDo vậy, Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều sử dụng câu lục ngôn ởcác vị trí khác nhau. Có câu lục ngôn ở đầu, có câu lục ngôn ở giữa bài thơ (từcâu 2-7) và cuối bài.ở vị trí đầu bài thơ (câu 1):Nguyễn Trãi 11/81 câu chiếm 14%.Nguyễn Bỉnh Khiêm 17/91 câu chiếm 19%.Dùng câu lục ngôn mở đầu bài thơ tác giả nêu triết lý khái quát ngay đầu ,tạo sự mới mẻ, gây chú ý tìm tòi cho ngời đọc.Nguyễn Trãi nêu triết lý ngay từ đầu bài thơ:Trong tạo hoá có cơ mầu,Hay đỗ hay dừng mới kéo âu.Nớc biếc non xanh thuyền gối bãi,Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu.Chén châm rợu đậu ngày ngày cạn,Túi quáy thơ nhàn chốn chốn thâu.Kham hạ Nghiêm Quang từ chẳng đến,Đồng Giang đợc nấn một đài câu.(Bài 26 - Bảo kính cảnh giới - Nguyễn Trãi)Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có những bài thơ sử dụng câu lục ngôn ở vị trí số 1:Mệnh ở trời há phải cầu,Đòi thời đi, để mặc ta dầu.Kìa ai ải bắc, lng đeo ấn,Nọ khách ngòi Đông tay rủ câu.Thuở áng công danh nhiều phải luỵ,Trong nơi ẩn dật mấy nên mầu.Thuở nội doanh mãn là nơi tồn,Hãy niệm cho hay kẻo nữa âu.(Bài 9 - Nguyễn Bỉnh Khiêm)ở vị trí giữa bài thơ (câu 2 - câu 7) của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêmđều có câu lục ngôn:Nguyễn Trãi có 59/81 câu chiếm 72%.Nguyễn Bỉnh Khiêm có 67/91 câu chiếm 74%.Đây là những vị trí làm cho bài thơ trở nên cân đối hài hoà.(Bảo kính cảnh giới số3 - Nguyễn Trãi)Có của hằng cho lại có thông,Tích nhiều con cháu nọ trông.22Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpNghiệp Lu Quý thịnh đâu truyền báu,Bia Nguỵ Trng cao há nối tông.Hiền kẻ say chng bể tửu sắc,Hoà ngời thìn đợc thói cha ông.Còn nhiều sá họp toan ăn uống,Tám chín mơi thì vạn sự không.Giống nh Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đa câu lục ngôn vào giữa bài thơ:Củi lo vàng, muối lọ tiền,Dùng đà mặc của tự nhiên.Sôi măng trúc đắng, thèm thay thịt,Rủ áo sô tô, lạnh kẻo chiên.Bạn có cá tôm dầu đợc thú,Cửa chăng xe ngựa bởi không quyền.Ngày tiêu soái nhàn vô sự,Tuy chửa là tiên, ấy ắt tiên.(Bài 22- Thơ Nôm - Nguyễn Bỉnh Khiêm)Ngoài ở vị trí số 2 nh ví dụ trên Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm còndùng câu lục ngôn ở câu 4, 5, 6, 7. Các vị trí này đều đợc nhà thơ sử dụng thànhcông và khéo léo. Câu lục ngôn ở vị trí số 3 trong bài 27 Bảo kính cảnh giới Nguyễn Trãi, bài 29 - Nguyễn Bỉnh Khiêm.ở vị trí số 4: Bài 41 Nguyễn Trãi, bài 36 Nguyễn Bỉnh Khiêm.ở vị trí số 5,6: Bài 40 - Nguyễn Trãi, bài 55 - Nguyễn Bỉnh Khiêm.ở vị trí số 7: Bài 38- Nguyễn Trãi, bài 47- Nguyễn Bỉnh Khiêm.Nhờ việc đặt câu lục ngôn ở giữa bài thơ mà hai tác giả đa đến ngời chongơừi đọc sự hiểu biết tỉ mỉ, rõ ràng, cân đối.Từ việc đa câu lục ngôn vào giữa bài thơ Nguyễn Trãi và Nguyễn BỉnhKhiêm gặp nhau khi có những cặp câu lục ngôn liền kề.Nguyễn Trãi có tới 15 cặp câu lục ngôn liền kề.Nguyễn Bỉnh Khiêm có 23 cặp câu lục ngôn liền kề.Các cặp lục ngôn liền kề chủ yếu ở câu 3,4 và câu 5, 6.Bài 37-Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trãi có cặp lục ngôn ở vị trí 3,4:Một yên một sách một con lều,Suông nhạt bao nhiêu mặc bấy nhiêu.Giậu cúc thu, vàng nảy lạc,Sân mai tuyết bạc che đầu.Có con mới biết ơn cha nặng,23Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpDành lộc thì hay nghĩa chúa nhiều.Gẫm trong nhàn nào thuở đợc,Đầy song hoa nở tiếng chim kêu.Trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vậy:Bài 36 thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm có 2 câu lục ngôn ở vị trí 3, 4:Xem hoa xuân đến cũng đầm âm,Thu muộn ai hay trúc có thơm.Thèm nỡ phụ canh cua róc,Lạnh đà quen nệm ổ rơm.Của nha còn ấy hai pho sách,Ơn chúa chăng quên một bữa cơm.Có thuở lên lầu ngồi đợi nguyệt,Một mình uống lại một mình xâm.Câu 3, 4 đợc hai tác giả dùng trên đây đối nhau và hầu nh ở các bài kháccũng đối nhau. Tơng tự cặp lục ngôn ở câu 5, 6 cũng liền kề và đối nhau.VD: Bài 10 -Nguyễn Bỉnh Khiêm, bài 9- Bảo kính cảnh giới - Nguyễn Trãi.Đây là điều quan trọng đặc biệt tạo sự phá cách trong việc sử dụng thơ Nômcủa hai tác giả. Đối lập của những câu liền kề chắc chắn có dụng ý nghệ thuậttạo sự cân đối hài hoà. Đồng thời việc đối không làm ảnh hởng đến phá luật ởcâu 7 chữ liền kề mà vẫn đảm bảo luật thơ.Câu lục ngôn ở vị trí cuối bài thơ có mặt ở thơ của hai tác giả:Nguyễn Trãi có 11/81 câu chiếm 14%.Nguyễn Bỉnh Khiêm có 7/91 câu chiếm 7.%Câu lục ngôn ở cuối bài nh là sự tổng kết luật mọi triết lý rút ra ở cuộc đờivà qua việc thể hiện những câu thơ trớc nó. Nguyễn Trãi đa đến cho ngời đọccảm nhận về cuộc đời, tấm lòng ngời thiên hạ qua thời gian năm tháng. Nhngcuộc đời trần thế muôn sắc màu làm cho ta cời ra nớc mắt:Cu một lòng ngay khác chúng ngơi,ở chng trần thế mấy phen cời.Phúc nhiều xa bởi nơi ta tích,Xuân đến tự nhiên, mọi vật tơi.Có của bo bo hằng chực cửa,Oán ngời nơm nớp những âu ngời.Làm chi pháo phúc lòng nhau bấy,Béo nhân sinh bảy tám mơi.(Bài 11 - Bảo kính cảnh giới - Nguyễn Trãi)24Thái Thị ThuKhoá luận tốt nghiệpCũng giống nh Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng nghệ thuật sáng tạotài tình đã đa câu lục ngôn ở cuối bài một cách linh hoạt, có hiệu quả:Vì danh cho phải luỵ đòi phen,Phận khó khăn xa ắt đã quen.Cửa mận ngời yêu, nhiều khách trọng,Am hoa ai ở đến ông nhàn.Xuân xanh khôn lại lòng thêm cảm,Đờng tía đà qua, bớc ngại chen.Ngây dại trần trần là tính cũ,Mặc dầu ai ắt chẳng đen.(Bài 25 - Nguyễn Bỉnh Khiêm)Nh vậy, Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng số lợng câu lục ngônnhiều. Đặc biệt cách đa câu lục ngôn vào trong bài đa dạng phong phú và linhhoạt. Cả hai tác giả đều dùng nó ở đầu, giữa, cuối, làm bài thơ có nội dungphong phú, hình thức cân đối. Từ đó ta tìm đợc những điểm tơng đồng trong cáchsử dụng câu lục ngôn trong thơ Nôm của hai tác giả.2.1.2. Tơng đồng về số lợng câu lục ngôn trong bài thơNh ta đã biết, thơ Nôm Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu là bàicó 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Nhng bằng tài năng nghệ thuật của mình, Nguyễn Trãivà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chen vào đó từ 1đến4 câu lục ngôn.Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều sử dụng một câu lục ngôn trongbài thơ:Nguyễn Trãi có 17/61 bài dùng 1 câu lục ngôn.Nguyễn Bỉnh Khiêm có12/61 bài dùng 1 câu lục ngôn.Tiêu biểu bài 53 - Bảo kính cảnh giới - Nguyễn Trãi.Chẳng hổ thân già tuổi tác h,Khó khăn dại dột mồ lừ khừ.Toan cùng ngời mấy thì cha đủ,Xứ một ta nay ắt có d.Bạn tác dễ duôi đà phải chịu,Anh em trách lóc ý khôn từ.Bằng rỗng nọ ai phen kịp,Mất thế cho nên mặt dại ngơ.Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có khá nhiều bài chỉ có 1 câu lục ngôn:Lấy chăng ai cấm, mặc ai dùng,Hễ của tự nhiên ấy cảu chung.25