Dạy học khái niệm toán tiểu học

Vì vậy, nhiều ý tưởng thú vị và quan trọng đang được giới thiệu ở lớp một và lớp hai! Tôi thích khi tôi làm việc với nhóm tuổi này vì trẻ rất hào hứng khi thử những điều mới và mở ra những cách học mới. Dưới đây là một số khái niệm chính được dạy trong toán lớp một và lớp hai, cũng như các mẹo về cách bạn có thể hỗ trợ con bạn ở nhà.

1. Phép cộng & phép trừ. 

Học sinh lớp 1 và 2 mở rộng sự hiểu biết trước đây của chúng từ mẫu giáo bằng cách cộng và trừ. Trẻ bắt đầu ghi nhớ các sự kiện cộng và trừ của mình lên đến 20, cũng như giải các bài toán đố bằng cách sử dụng các đối tượng, hình vẽ và phương trình. Trẻ cũng bắt đầu giải các bài toán có nhiều hơn hai số và xác định xem một số chẵn hay lẻ.

Khuyến khích con bạn:

  • Tạo và vẽ những câu chuyện về cộng và trừ. Ví dụ:  Bổ sung : Một số chú thỏ đang ngồi trên bãi cỏ. Ba con thỏ khác nhảy qua ngồi với chúng. Sau đó, có năm con thỏ. Có bao nhiêu con thỏ trên cỏ trước đây? ? + 3 = 5 Phép trừ : Năm quả táo nằm trên bàn. Mẹ đã ăn một vài quả táo. Sau đó chỉ còn lại ba quả táo. Mẹ đã ăn bao nhiêu táo? 5 -? = 3
  • Thực hành các phép tính cộng và trừ của trẻ bằng cách chơi các trò chơi với các con số , súc sắc , trực tuyến v.v.
  • Quyết định xem những con số trẻ nhìn thấy trong thế giới thực là chẵn hay lẻ.

2. Ý thức số. 

Học sinh lớp 1 và 2 của bạn cũng bắt đầu hiểu khái niệm về giá trị địa điểm. Con bạn đang học về từng nơi - những người, hàng chục và hàng trăm - bằng cách vẽ tranh, đếm theo nhóm và sử dụng mười khối cơ sở. Trẻ đang viết số lên tới 100 và so sánh số. Trẻ cũng đang xây dựng các kỹ năng toán học tinh thần bằng cách giải quyết các vấn đề về tinh thần.

Khuyến khích con bạn:

  • Đọc số lớn và ghi lại số bạn nói bằng lời.
  • Thực hành giá trị dưới vị trí bằng cách quyết định giá trị của một chữ số trong một số cụ thể. Ví dụ: Chữ số 7 có giá trị bao nhiêu trong số 37? 7 vì số 7 ở vị trí hàng đơn vị.
  • So sánh các số bằng các ký hiệu:> [lớn hơn], 0 ta phải xét tất cả các trường hợp của hệ số a: a > 0, a = 0 và a < 0.
  • xét bài toán "Cho hai đường thẳng phân biệt a và b cùng vuông góc với một mặt phẳng [P]. Xét vị trí tương đối giữa hai đường thẳng a và b"[20]

Thực tiễn dạy học cho thấy, giáo viên cần khai thác và sử dụng tốt các bài tập dạng trắc nghiệm khách quan kiểu "Các mệnh đề sau đây đúng hay sai: A]... B]... " vì có tác dụng tốt trong việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng phân chia khái niệm.[21] Muốn trả lời đúng câu hỏi, học sinh cần tiến hành phân chia khái niệm, tức là xét tất cả các khả năng có thể xảy ra. Chẳng hạn, xét bài toán sau "Mệnh đề 'nếu a ⊥ b và a ⊥ c thì b // c' đúng hay sai?". Để giải bài toán này, học sinh có thể suy nghĩ: hai đường thẳng bất kì có thể song song, chéo nhau, cắt nhau. Nếu mệnh đề trên đúng thì không thể xảy ra trường hợp b và c chéo nhau và cũng không thể xảy ra trường hợp b và c cắt nhau. Xét hai đường thẳng cắt nhau b và c nào đó, liệu có một đường thẳng a nào vuông góc với cả hai đường b và c không? Từ đó tìm ra lời giải bài toán.

Biết phân chia khái niệm mới có thể hệ thống hóa các khái niệm sau mỗi phần, mỗi chương,...[22] Chẳng hạn, có thể hệ thống khái niệm hình lăng trụ và hình hộp bằng sơ đồ Ven

Việc phân loại, hệ thống các khái niệm[23] vượt xa ra khỏi phạm vi của việc nắm vững các kiến thức toán học, nó cần thiết cho bất kì lĩnh vực hoạt động nào của con người. Vì thế, những tri thức và kĩ năng về mặt này cần được chú ý thích đáng.

IV. Trình tự truyền thụ một khái niệm mới[sửa]

Trình tự truyền thụ một khái niệm mới thường bao gồm[24] các hoạt động sau:

  1. Dẫn học sinh vào khái niệm: giúp học sinh tiếp cận khái niệm, có thể thực hiện được bằng cách thông qua một ví dụ hoặc một hiện tượng có trong thực tiễn,...
  2. Hình thành khái niệm: giúp học sinh có được khái niệm, có thể thực hiện được bằng cách khái quát hoát,...
  3. Củng cố khái niệm: thông qua các hoạt động nhận dạng, thể hiện, ngôn ngữ. Khắc sâu kiến thức thông qua ví dụ và phản ví dụ
  4. Bước đầu vận dụng khái niệm trong bài tập đơn giản
  5. Vận dụng khái niệm trong bài tập tổng hợp

Tài liệu tham khảo[sửa]

  • Phương pháp dạy học môn Toán, Nguyễn Bá Kim, Vũ Dương Thụy, NXB Giáo dục, 2000, trang 179 - 192
  • Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 10 môn Toán, NXB Giáo dục, 2007, trang 98 - 100
  • Phương pháp dạy học môn Toán phần hai, Nguyễn Bá Kim, Đinh Nho Chương, Nguyễn Mạnh Cường, Vũ Dương Thụy, Nguyễn Văn Thường, NXB Giáo dục, trang 179 - 185; 310 - 311; 319 - 325
  • Tập tin:Phuong-phap-day-hoc-cac-tinh-huong-dien-hinh-trong-mon-Toan-Le-Van-Tien-2005.pdf, Lê Văn Tiến, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chính Minh
  • Tập tin:Vai net ve day hoc khai niem ham so o truong pho thong.pdf - Luận văn của sinh viên Đào Thị Mừng, Đại học An Giang, 2008

Chú thích[sửa]

  1. Thực tiễn dạy học cho thấy, học sinh không giải được bài toán phần lớn là do không hiểu khái niệm toán học tiềm ẩn trong câu hỏi của đề toán.
  2. Theo từ điển tiếng Việt: Nắm vững nghĩa là hiểu biết thấu đáo
  3. Hay còn gọi là dấu hiệu đặc trưng. Theo từ điển tiếng Việt: Đặc trưng là điểm nổi bật, giúp phân biệt cá thể đã cho với các cá thể khác mà ta có thể đem ra so sánh
  4. Phát biểu chính xác định nghĩa không có nghĩa là phải phát biểu giống như định nghĩa có trong SGK!
  5. Hay còn gọi là "chiều của vecto"
  6. Trừu tượng hóa, khái quát hóa là các thao tác tư duy
  7. Có thể có cả những đối tượng không có những đặc điểm đó
  8. Mới biết suy luận dưới cấp độ 3 - theo các cấp độ tư duy của Van Hiele
  9. Đã biết suy luận từ cấp độ 3 - suy diễn không hình thức - trở lên
  10. Đoạn thẳng cắt cả a và b đồng thời vuông góc với cả a và b
  11. Thông qua hoạt động thể hiện khái niệm.
  12. Còn gọi là dấu hiệu đặc trưng hay tính chất đặc trưng
  13. Trước chúng không có một khái niệm nào. Từ "Root" đúng cho trường hợp này. -:D
  14. Một dấu chấm nhỏ trên trang giấy là hình ảnh của một điểm
  15. Mặc dù chúng có thể được định nghĩa trong khoa học toán học.
  16. có ba cặp đường thẳng chéo nhau [ba cặp đối diện], bốn bộ ba đường thẳng đồng quy, không có cặp nào song song
  17. Có thể đặt thêm câu hỏi: c và d có thể cắt nhau không?
  18. Học sinh có nắm vững các dấu hiệu đặc trưng của khái niệm thì mới có thể nhận dạng và thể hiện được khái niệm.
  19. Có biết nhận dạng và thể hiện khái niệm thì mới biết phân chia khái niệm
  20. Phân chia các trường hợp: a // b; a cắt b và a, b chéo nhau
  21. Hơn nữa kiểu bài tập này thường ngắn nên rất phù hợp với thời gian của một tiết học.
  22. Có thể dùng sơ đồ Ven, sơ đồ khối, bảng,...
  23. Một trong những hoạt động quan trọng của hoạt động trí tuệ
  24. Không nhất thiết phải luôn đủ và đúng theo thứ tự

Video liên quan

Chủ Đề