Dạy học chuyên đề là gì

Hello quý khách. Bữa nay, mình mạn phép đưa ra đánh giá chủ quan về kinh nghiệm, Chuyên Đề ” Dạy Học Theo Chuyên Đề Là Gì, Hiệu Quả Từ Dạy Học Theo Chuyên Đề, Dự Án

Đa phần nguồn đều được cập nhật ý tưởng từ những nguồn website đầu ngành khác nên chắc chắn có vài phần khó hiểu.

Mong mỗi cá nhân thông cảm, xin nhận góp ý and gạch đá bên dưới bình luận

Quý độc giả vui lòng đọc bài viết này trong phòng kín để có hiệu quả cao nhất Tránh xa tất cả các dòng thiết bị gây xao nhoãng trong công việc tập kết

Bookmark lại bài viết vì mình sẽ cập nhật liên tiếp

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo, Báo Bình Thuận, Mạng lưới giáo dục Kết nối trường học

Không kể phần lý thuyết chung, bài viết này tập trung giới thiệu nội dung chính của buổi tập huấn nhằm hướng dẫn đồng nghiệp nắm bắt yêu cầu, cách xây dựng chuyên đề Lịch sử và tổ chức dạy học chuyên đề theo định hướng của tổ. phát triển năng lực học sinh.

Bạn đang xem: Học theo chủ đề là gì?

– Dạy học theo chủ đề khác với dạy học theo bài thông thường nhưng vẫn phải đảm bảo chuẩn kiến ​​thức, kĩ năng, thái độ của chương trình và sách giáo khoa hiện hành, được nâng lên một mức độ cao hơn nhất định. . Tuy nhiên, cần lưu ý đến sự phù hợp của chủ đề: cân đối giữa khối lượng và mức độ kiến ​​thức trong môn học. – Vấn đề đang học trong chủ đề phải là vấn đề cơ bản của chương trình, sách giáo khoa THPT có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có sự tương đồng về nội dung kiến ​​thức, khi hình thành chủ đề tạo ra hàng loạt vấn đề học tập cần giải quyết. Khi giải quyết được nhiệm vụ học tập đó sẽ hình thành một nội dung đầy đủ và toàn diện cả theo chiều dọc và chiều ngang của chủ đề. – Nội dung các chuyên đề giúp học sinh nắm được những kiến ​​thức cơ bản của chương trình, sách giáo khoa mà học sinh THPT cần đạt. Từ những kiến ​​thức đó, học sinh có thể tổng kết, hệ thống hoá kiến ​​thức, củng cố, rèn luyện, rút ​​ra những quy luật, bài học lịch sử … và tự học, khắc sâu kiến ​​thức đã học. – Nội dung chuyên đề cần toàn diện, có hệ thống, thể hiện mối quan hệ của lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa… – Kênh tranh ảnh, tư liệu tham khảo của chủ đề phải góp phần tạo điều kiện cho học sinh tham gia các hoạt động học tập và hình thành, phát triển năng lực học tập. – Nội dung chuyên đề không chỉ dừng lại ở việc hiểu biết lịch sử mà nâng cao trình độ nhận thức lịch sử. Giúp học sinh hiểu, lý giải, tìm ra mối liên hệ, tác động, ảnh hưởng của nội dung, sự kiện lịch sử; tăng cường khả năng vận dụng kiến ​​thức đã học để giải quyết các vấn đề khác trong học tập và thực hành … – Các chuyên đề dành cho học sinh THPT hết sức chú trọng giáo dục thái độ, tình cảm, ý tưởng. 2.1. Dựa vào nội dung chương trình, sách giáo khoa Lịch sử và thực tế vận dụng phương pháp dạy học, tổ / nhóm xác định những nội dung kiến ​​thức có liên quan với nhau, có những điểm tương đồng để có thể tìm được trong chương trình học. trình bày trong một số bài / buổi học hiện hành, từ đó xây dựng thành vấn đề chung để tạo thành chủ đề dạy học. Mỗi chủ đề có thời lượng tối thiểu là 2 giờ.

Trường hợp có nội dung kiến ​​thức liên quan đến nhiều môn học, các tổ chuyên môn có liên quan cùng nhau lựa chọn nội dung để thống nhất xây dựng chủ đề tích hợp, liên môn.

Xem thêm: Vì sao người Anh đeo mũi đỏ vào Ngày Mũi đỏ? Chiến dịch Xóa đói nghèo ở Trẻ em

2.2. Xác định chuẩn kiến ​​thức kỹ năng, thái độ theo chương trình hiện hành và các hoạt động học dự kiến ​​tổ chức cho học sinh theo phương pháp dạy học tích cực, từ đó xác định những năng lực, phẩm chất có thể hình thành. hoàn thành cho học sinh theo chủ đề đã xây dựng. Một số năng lực chung như: năng lực tự học, phát hiện và giải quyết vấn đề, sáng tạo; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Một số phẩm chất: Nhân hậu, khoan dung; Tự kiểm soát; Thực hiện các nghĩa vụ của học sinh. 2.3. Xây dựng nội dung chuyên đề: Giáo viên lựa chọn các nội dung của chủ đề từ các bài / buổi trong sách giáo khoa môn Lịch sử hiện hành / hoặc cùng với các chuyên đề có liên quan [nếu chủ đề được xác định là một bộ phận cấu thành của môn học]. phù hợp, liên môn] và tham khảo các tài liệu khác để xây dựng nội dung chuyên đề. Việc thiết kế tiến trình dạy học theo chủ đề thành hoạt động học thực chất là việc thiết kế một kế hoạch dạy học, tổ chức để học sinh có thể thực hiện ở lớp hoặc ở nhà. Mỗi tiết học chỉ được thực hiện một số hoạt động trong quá trình sư phạm của các phương pháp và kĩ thuật dạy học được sử dụng. Quá trình tổ chức các hoạt động cần linh hoạt, mềm dẻo. Sử dụng phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh nhằm hình thành các năng lực cần thiết, đặc biệt là phương pháp dạy học nêu vấn đề. Khi thiết kế và tổ chức một hoạt động học theo quan điểm định hướng phát triển năng lực học sinh cần lưu ý rằng quá trình dạy học bao gồm một hệ thống các hành động có chủ đích của giáo viên để tổ chức các hoạt động trí óc và hoạt động chân tay. Chân học sinh đảm bảo cho học sinh nắm vững nội dung giảng dạy và đạt được các mục tiêu đã xác định. Giáo viên tổ chức định hướng hành động chiếm lĩnh tri thức của học sinh theo tiến trình của chu trình sáng tạo khoa học. Chúng ta có thể hình dung diễn biến của hoạt động dạy học theo các bước sau: Giáo viên tổ chức các tình huống và giao nhiệm vụ cho học sinh. Học sinh sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ, điều này tạo ra các vấn đề cần được khám phá và giải quyết. + Học sinh độc lập, tìm tòi và giải quyết các vấn đề đặt ra. Với sự giám sát, định hướng, giúp đỡ của giáo viên, hoạt động học tập của học sinh diễn ra theo một quy trình hợp lý. Có thể được tổ chức theo các hoạt động cá nhân, hoạt động theo cặp hoặc theo nhóm nhỏ.

+ Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định kết quả và rút ra kết luận, chốt lại kiến ​​thức đã tiếp thu và gợi ý học sinh phát hiện vấn đề cần giải quyết tiếp theo.

  NEW Duyên Tiền Kiếp Là Gì

Chuyên đềDẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ VỚI VIỆC ỨNG DỤNG TRONG GIẢNG DẠY BỘMÔN GDCD THPTChương 1DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀVỚI CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC HIỆN NAY1.1. Thế nào là dạy học theo chủ đề?Dạy học theo chủ đề [themes based leraning] là hình thức tìm tòi những khái niệm, tưtưởng, đơn vị kiến thức, nội dung bài học, chủ đề,… có sự giao thoa, tương đồng lẫnnhau, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong cácmôn học hoặc các hợp phần của môn học đó [tức là con đường tích hợp những nội dungtừ một số đơn vị, bài học, môn học có liên hệ với nhau] làm thành nội dung học[1] trongmột chủ đề có ý nghĩa hơn, thực tế hơn, nhờ đó học sinh có thể tự hoạt động nhiều hơn đểtìm ra kiến thức và vận dụng vào thực tiễn.Dạy học theo chủ đề là sự kết hợp giữa mô hình dạy học truyền thống và hiện đại, ở đógiáo viên không dạy học chỉ bằng cách truyền thụ [xây dựng] kiến thức mà chủ yếu làhướng dẫn học sinh tự lực tìm kiếm thông tin, sử dụng kiến thức vào giải quyết cácnhiệm vụ có ý nghĩa thực tiễn.Dạy học theo chủ đề là một mô hình mới cho hoạt động lớp học thay thế cho lớp họctruyền thống [với đặc trưng là những bài học ngắn, cô lập, những hoạt động lớp học màgiáo viên giữ vai trò trung tâm] bằng việc chú trọng những nội dung học tập có tính tổngquát, liên quan đến nhiều lĩnh vực, với trung tâm tập trung vào học sinh và nội dungtích hợp với những vấn đề, những thực hành gắn liền với thực tiễn.Với mô hình này, học sinh có nhiều cơ hội làm việc theo nhóm để giải quyết những vấnđề xác thực, có hệ thống và liên quan đến nhiều kiến thức khác nhau. Các em thu thậpthông tin từ nhiều nguồn kiến thức.Việc học của học sinh thực sự có giá trị vì nó kết nối với thực tế và rèn luyện được nhiêukĩ năng hoạt động và kĩ năng sống. Học sinh cũng được tạo điều kiện minh họa kiến thứcmình vừa nhận được và đánh giá mình học được bao nhiêu và giao tiếp tốt như thếnào.Với cách tiếp cận này, vai trò của giáo viên chỉ là người hướng dẫn, chỉ bảo thay vìquản lý trực tiếp học sinh làm việc.Dạy học theo chủ đề ở bậc THPT là sự cố gắng tăng cường tích hợp kiến thức, làm chokiến thức có mối liên hệ mạng lưới nhiều chiều; là sự tích hợp vào nội dung những ứngdụng kĩ thuật và đời sống thông dụng làm cho nội dung học có ý nghĩa hơn, hấp dẫn hơn.Một cách hoa mỹ; đó là việc “thổi hơi thở” của cuộc sống vào những kiến thức cổ điển,nâng cao chất lượng “cuộc sống thật” trong các bài học.Theo một số quan điểm, dạy học theo chủ đề thuộc về nội dung dạy học chứ không phảilà phương pháp dạy học nhưng chính khi đã xây dựng nội dung dạy học theo chủ đề,chính nó lại tác động trở lại làm thay đổi rất nhiều đến việc lựa chọn phương pháp nào làphù hợp, hoặc cải biến các phương pháp sao cho phù hợp với nó.Vì là dạy học theo chủ đề nên căn bản quá trình xây dựng chủ đề tạo ra quá trình tíchhợp nội dung[2] [đơn môn hoặc liên môn] trong quá trình dạy.1.2. Ưu thế của dạy học chủ đề so với dạy học theo cách tiếp cận truyền thống hiệnnay.Mọi sự so sánh giữa bất kì mô hình hay phương pháp dạy nào cũng trở nên khập khiễngbởi mỗi một mô hình hay phương pháp đều có những ưu thế hoặc những hạn chế riêngcó.Tuy nhiên, nếu đặt ra vấn đề cho ngành giáo dục hiện nay là: Làm thế nào để nội dungkiến thức trở nên hấp dẫn và có ý nghĩa trong cuộc sống? Làm thế nào để việc học tậpphải nhắm đến mục đích là rèn kĩ năng giải quyết vấn đề, đặc biệt là các vấn đề đa dạngcủa thực tiễn? Có phải cứ phải dạy kiến thức theo từng bài thì học sinh mới hiểu và vậndụng được kiến thức? Làm thế nào để nội dung chương trình dạy luôn được cập nhậttrước sự bùng nổ vũ bão của thông tin để các kiến thức của việc học và dạy học thực sựlà thế giới mới cho những người học?Việc trả lời các câu hỏi trên đồng nghĩa với việc xác định mục tiêu giáo dục, mô hình dạyhọc trong thời đại mới. Đồng thời, cũng sẽ chỉ ra cho ta thấy những lợi thế nhất định củatừng mô hình khi áp dụng vào giảng dạy.Rõ ràng, nếu căn cứ vào việc tìm câu trả lời cho những câu hỏi này thì dạy học theo chủđề khi so sánh với dạy học theo cách tiếp cận truyền thống hiện nay, sẽ có những ưuđiểm[3] sau:Dạy học theo cách tiếp cận truyền thốnghiện nay1- Tiến trình giải quyết vấn đề tuân theochiến lược giải quyết vấn đề trong khoa họcvật lý: logic, chặt chẽ, khoa học.. do giáoviên [SGK] áp đặt [G.viên là trung tâm].Dạy học theo chủ đề2- Nếu thành công có thể góp phần đạt tớimức nhiều mục tiêu của môn học hiện nay:chiếm lĩnh kiến thức mới thông qua hoạtđộng, bồi dưỡng các phương thưc tư duykhoa học và các phương pháp nhận thứckhoa học: PP thực nghiệm, PP tượng tự, PPmô hình, suy luận khoa học…]2- Hướng tới các mục tiêu: chiếm lĩnh nộidung kiến thức khoa học, hiểu biết tiến trìnhkhoa học và rèn luyện các kĩ năng tiến trìnhkhoa học như: quan sát, thu thập thông tin,dữ liệu; xử lý [so sánh, sắp xếp, phân loại,liên hệ…thông tin]; suy luận, áp dụng thựctiễn.1- Các nhiệm vụ học tập được giao, học sinhquyết định chiến lươc học tập với sự chủđộng hỗ trợ, hợp tác của giáo viên [Học sinhlà trung tâm].3- Dạy theo từng bài riêng lẻ với một thờilượng cố định.3- Dạy theo một chủ đề thống nhất được tổchức lại theo hướng tích hợp từ một phầntrong chương trình học.4- Kiến thức thu được là các khái niệm trong4- Kiến thức thu được rời rạc, hoặc chỉ có một mối liên hệ mạng lưới với nhau.mối liên hệ tuyến tính [một chiều theo thiếtkế chương trình học].5- Trình độ nhận thức sau quá trình học tập 5- Trình độ nhận thức có thể đạt được ở mứcthường theo trình tự và thường dừng lại ở độ cao: Phân tích, tổng hợp, đánh giá.trình độ biết, hiểu và vận dụng [giải bài tập].6- Kết thúc một chương học, học sinh khôngcó một tổng thể kiến thức mới mà có kiến 6- Kết thúc một chủ đề học sinh có một tổngthức từng phần riêng biệt hoặc có hệ thống thể kiến thức mới, tinh giản, chặt chẽ vàkiến thức liên hệ tuyến tính theo trật tự các khác với nội dung trong sách giáo khoa.bài học.7- Kiến thức còn xa rời thực tiễn mà ngườihọc đang sống do sự chậm cập nhật của nộidung sách giáo khoa.7- Kiến thức gần gũi với thức tiễn mà học8- Kiến thức thu được sau khi học thường là sinh đang sống hơn do yêu cầu cập nhậthạn hẹp trong chương trình, nội dung học. thông tin khi thực hiện chủ đề.8- Hiểu biết có được sau khi kết thúc chủ đềthường vượt ra ngoài khuôn khổ nội dung9- Không thể hướng tới nhiều mục tiêu nhân cần học do quá trình tìm kiếm, xử lý thôngvăn quan trọng như: rèn luyện các kĩ năng tin ngoài nguồn tài liệu chính thức của họcsống và làm việc: giao tiếp, hợp tác, quản lý, sinh.điều hành, ra quyết định…9- Có thề hướng tới, bồi dưỡng các kĩ nănglàm việc với thông tin, giao tiếp, ngôn ngữ,hợp tác.* Điểm tương đồng giữa dạy học chủ đề và dạy học truyền thống là VẪN COI VIỆCLĨNH HỘI NỘI DUNG LƯỢNG KIẾN THỨC NỀN TẢNG, vì thế dạy học theo chủ đềlà mô hình dạy học có thể vận dụng vào thực tiển hiện nay dễ dàng hơn một số mô hìnhkhác. Điều cần làm để có thể vận dụng nó là phải tổ chức lại một số bài học thành mộtchủ đề được cho là sự tích hợp tốt hơn, có ý nghĩa thực tiễn hơn cách trình bày của sáchgiáo khoa mà chúng ta đang có.* Điểm khác biệt cơ bản dẫn tới nhiều khác biệt ở trên là:Một, dạy học theo chủ đề cũng như một số mô hình tích cực khác, giáo viên không đựoccoi học sinh là chưa biết gì trước nội dung bài học mới mà trái lại, luôn phải nghĩ rằngcác em tự tin và có thể biết nhiều hơn ta mong đợi, vì thế dạy học cần tận dụng tốt đakiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng có sẵn của các em và khuyến khích khả năng biết nhiềuhơn thế của học sinh về một vấn đề mới để giảm tối đa thời gian và sự thụ động của họcsinh trong khi tiếp nhận kiến thức mới, để tăng hiểu biết lên nhiều lần so với nội dung cầndạy.Hai, dạy học theo chủ đề nhắm tới việc sử dụng kiến thức, hiểu biết vào thực tiễn cácnhiệm vụ học tập nhắm tới sự lĩnh hội hệ thống kiến thức có sự tích hợp cao, tinh giản vàtính công cụ cao, đồng thời hướng tới nhiều mục tiêu giáo dục tích cực khác [VD cácnăng lực], trong khi dạy học theo truyền thống lại coi trọng việc xây dựng kiến thức nênchỉ nhắm tới các mục tiêu được cho là quá trình này có thể mang lại.Ba, trong dạy học theo chủ đề kiến thức mới được học sinh lĩnh hội trong quá trình giảiquyết các nhiệm vụ học tập, đó là kiến thức tổ chức theo một tổng thể mới khác với kiếnthức trình bày trong tất cả các nguồn tài liệu. Hơn nữa, với việc học sinh lĩnh hội kiếnthức trong quá trình giải quyết nhiệm vụ học tập, cũng mang lại một lợi thế to lớn đó làmở rộng không gian, thời gian dạy học, tinh giản thời gian dạy, độ ứng dụng thực tế caohơn nhiều.Bốn, với dạy học theo chủ đề, vai trò của giáo viên và học sinh cơ bản là thay đổi và khácso với dạy học truyền thống. Người giáo viên từ chỗ là trung tâm trong mô hình truyềnthống đã chuyển sang là người hướng dẫn, học sinh là trung tâm.1.3. Tại sao nên quan tâm đến dạy học theo chủ đề trong tiến trình đổi mới giáo dụchiện nay?* Về mặt lý luậnHiện nay, có ba lý do quan trọng cần lưu tâm và đặt chúng ta phải nghĩ đến một giải pháplàm thế nào để đáp ứng và giải quyết được ba vần đề này, chình là:Một, trước yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục – trong đó chú trọng đổi mớiphương pháp, cách tiếp cận dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực của học sinh.Hai, tính giới hạn về định lượng nội dung trong sách giao khoa và quá trình bùng nổthông tin, tri thức kèm theo đó là nhu cầu cập nhật kiến thức vô hạn đối với sự học củangười học.Ba, với cách tiếp cận giảng dạy truyền thống hiện có, liệu chúng ta đủ khả năng để thựchiện các mục tiêu dạy học tích cực như; tăng cương tích hợp các vấn đề cuộc sống, thờisự vào bài giảng; tăng cường sự vận dụng kiến thức của học sinh sau quá trình học vàogiải quyết các vấn đề thực tiễn; rèn luyện các kĩ năng sống phong phú vốn rất cần chongười học hiện nay?Thêm vào đó, ngoài việc quá trình dạy học hướng tới định hướng nội dung học như đãcó, thì đổi mới dạy học hiện nay còn có tham vọng tiến xa hơn đó là định hướng hìnhthành NĂNG LỰC cho học sinh.Do đó, dạy học theo chủ đề với những lợi thế về đặc điểm như đã so sánh ở trên so vớidạy học theo cách tiếp cận truyền thống, đặc biệt là nó có thể giải quyết được ba vấn đềtrên, chính là bước chuẩn bị tương đối phù hợp cho đổi mới chương trình và sách giáokhoa trong thời gian tới.* Trên phương diện thực tiễnCần khẳng định rằng, mục tiêu giáo dục hiện nay của chúng ta đã bắt đầu chuyển hướngsang chú trọng tới định hướng phát triển năng lực học sinh. Theo đó, chúng ta kì vọngvào quá trình dạy học, kiểm tra đánh giá chú trọng tăng cường tính vận dụng kiến thứcvào giải quyết những vấn đề thực tiễn của người học và nhờ vào quá trình đó các nănglực được hình thành.Tuy nhiên, trong thực tế, diện mạo đời sống xã hội không hiện diện đầy đủ ở bất cứ bàinào trong chương trình học. Nói cách khác, không thể gom hết toàn bộ xã hội sinh độngvào nội dung chương trình của bất kì một môn học nào như một dạng kim chỉ nam xuyênsuốt, kinh điển, giáo điều.Thực tế trên cho thấy, khi giải quyết một vấn đề trong thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên vàxã hội, đòi hỏihọc sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp hoặc liên quan đến nhiều mônhọc. Vì vậy, dạy học cần phải tăng cường theo hướng tích hợp đa chiều, liên môn. Do đó,hệ quả là buộc chúng ta phải xây dựng các chủ đề để tiến hành dạy học. Tất nhiên, việcxây dựng các chủ đề trong dạy học cũng không tham vọng sẽ giải quyết việc đưa toàn bộthực tiễn vào chương trình, thậm chí mô hình này cũng chưa thể tạo ra một phương phápgiáo dục hoàn toàn mới, nhưng quan trọng hơn hết chính là nó mở đường cho giáo viênvà học sinh tiếp cận với kiến thức theo một hướng khác. Không phải là sự thụ động mà làchủ động của học sinh. Không phải là sự tiếp nhận kiến thức sau khi học mà có thể làngay khi làm nhiệm vụ học. Nó cũng không chỉ dừng ở mục tiêu “đầu vào” về kiến thứcmà nó còn hướng tới định hướng “đầu ra” [tức khả năng vận dụng kiến thức vào giảiquyết thực tiễn[4]] nhờ vào việc xác định các năng lực cần phát triển song song vớinhững mục tiêu về chuẩn nội dung kiến thức, kĩ năng trong chương trình học.Ngoài ra, một thực tế khác cũng đáng quan tâm: hiện nay, ít nhiều trong chương trình học[bao gồm cả trong một bộ môn theo bậc hoặc các môn khác nhau theo một bậc] cũng cónhiều đơn vị kiến thức có tính giao thoa, liên hệ tương đối gần hoặc trùng lặp.Ví dụ 1: Ở cấp độ đơn môn, môn GDCD bậc THPT, các đơn vị bài: bài 8 – Nền dân chủxã hội chủ nghĩa, [GDCD 11, tr 81]; bài 7 – Công dân với các quyền dân chủ [GDCD 12,tr 68 - 78], nội dung có sự liên hệ;Hoặc: bài 12 – Công dân với tình yêu hôn nhân và gia đình [GDCD 10]; mục 1 bài 4– Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội [GDCD 12, tr32 -35], nội dung có sự liên hệ gần nhau và phát triển cao hơn ở tầm nhận thức lũy tiến từkhối 10 lên khối 12, từ giáo dục ý thức đạo đức lên ý thức pháp luật.Ví dụ 2: ở cấp độ liên môn như: bài 14 – Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổquốc [GDCD 10, tr95]; bài 14 – Chính sách quốc phòng an ninh [GDCD 11, tr 110]; vàbài 5 – Chính sách quốc phòng an ninh và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa [GDQP] cónội dung tương đối gần và có sự lặp lại ở một số khái niệm.Nhằm tránh hiện trạng trên, cũng như nhằm tạo ra một đơn vị kiến thức học có tính sâusắc hơn, có tính liên hệ tổng thể, bao quát và đầy đủ hơn, thì việc xây dựng các chủ đềtích hợp các nội dung như đã trình bày là cần thiết.Chương 2NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN TRONG VIỆC ỨNG DỤNG DẠY HỌC THEOCHỦ ĐỀ ĐỐI VỚI BỘ MÔN GDCD THPT2. 1. Tình hình ứng dụng việc dạy học theo chủ đề trong bộ môn GDCD hiện nayDạy học theo chủ đề không phải là mô hình dạy học hoàn toàn mới trên thế giới. Tuynhiên, ở Việt Nam, việc quan tâm đến mô hình này mới chỉ dừng lại ở bước đầu tiếp cận.Song, căn cứ vào thực tiễn và kế hoạch đổi mới căn bản nền giáo dục hiện nay, có thểkhẳng định mô hình dạy học này sẽ còn tiếp tục được nghiên cứu và thử nghiệm để cóđược những bài học kinh nghiệm xác đáng trước khi chính thức áp dụng phục vụ cho chủtrương đối mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay.Nhìn lại quá trình tiếp cận và triển khai, có thể liệt ra một số chủ trương lớn và các hoạtđộng bổ trợ liên quan đã và đang cụ thể hóa trong “khâu chuẩn bị” trong lộ trình xâydựng mô hình dạy học theo chủ đề ở nước ta như sau:+ Chủ trương giảm tải, cắt bỏ nhiều nội dung không cần thiết và trùng nhau gây áp lục vàkhó khăn cho việc dạy và học trong suốt những năm qua.+ Tập huấn về đổi mới kiểm tra đánh giá đầu ra theo định hướng phát triển năng lực họcsinh [2014]. Thực chất, đây là khâu “đi tắt, đón đầu” trong lộ trình trang bị kiến thức cầnthiết cho giáo viên dần tiếp cận việc dạy học theo chủ đề, trước khi có sự đổi mới căn bảnvà toàn diện giáo dục trên phương diện nội dung, đó là: cơ cấu lại môn học sau năm2015. Đây cũng là bước đệm quan trọng của Bộ GD & ĐT nhằm trang bị cho giáo viênnhững kỹ năng, thao tác, quy trình để giáo viên có thể áp dụng trước vào khâu kiểm trađánh giá học sinh khi các em tham gia vào một tiết học theo chủ đề.+ Bên cạnh đó, trong năm 2014, việc triển khai Hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổimới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá… theo công văn số 5555/ BGDĐT, ngày18/10/2014 của Bộ giáo dục và Đào tạo, theo đó; mỗi tổ chuyên môn [trong đó có mônGDCD] xây dựng ít nhất một học kỳ 02 chủ đề để giảng dạy thử, dự giờ, phân tích, rútkinh nghiệm…cũng là khởi đầu quan trọng giúp giáo viên có được vốn hiểu biết nhấtđịnh về thế nào là xây dựng tiết dạy, bài dạy theo chủ đề trước khi có khung chương trìnhcụ thể.+ Ở Đồng Nai, các nội dung trên cũng đã được tổ chức, kèm theo đó là Kế hoạch tổ chứcHội thi Sử dụng kiến thức liên môn để giải quyết nội dung bài dạy ở các bộ môn năm2014[trong đó có môn GDCD] cũng là minh chứng cho thấy tình hình ứng dụng dạy họctheo chủ đề hiện nay là có cơ sở và được quan tâm nhiều từ các phía ban ngành.Các hoạt động trên, chính là tiền đề thuận lợi giúp giáo viên bộ môn có cơ hôi tiếp cậnmô hình dạy học này trong giai đoạn sắp tới mà không vấp phải sự bỡ ngỡ, khó khănngay khi chúng ta bước vào giai đoạn thực hiện khung chương trình đổi mới giáo dục.2. 2. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện dạy học theo chủ đề đối với bộ mônGDCD bậc THPTBất kì môn học nào hiện nay khi đối diện với vấn đề dạy học theo chủ đề cũng gặp khókhăn nhất định. Phần vì đây là cách tiếp cận mới. Hơn nữa, chưa có một khung chươngtrình thống nhất hoặc hướng dẫn địa chỉ cần xây dựng chủ đề trong chương trình học hiệnhành...v.v. Không những vậy, khó khăn này còn thể hiện ở chỗ: không chỉ bởi sự độclập[5] hay sự khác biệt tương đối về mặt nội dung[6] mà còn xuất phát từ phía giáo viênbộ môn với những hạn chế như: sự hiểu biết sâu, rộng về kiến thức liến khối, liên môn;khả năng, kinh nghiệm nắm bắt các thao tác, quy trình xây dựng chủ đề; kĩ năng vậndụng phương pháp dạy học linh hoạt đối với từng chủ đề mình xây dựng.Tuy nhiên, ngoài khó khăn cũng không phải không có những thuận lợi khi áp dụng.Trong bài viết, xin được nêu ra lợi thế xét trên cả hai khía cạnh: nội dung và khảnăng hiện nay của giáo viên dạy bộ môn GDCD THPT [bao gồm kiến thức, kĩ năng sửdụng kĩ thuật, phương pháp dạy học].Về phần nội dungMột, như đã biết, bộ môn GDCD có nội dụng học là vô cùng bao quát, phổ biến. Nộidung môn học trang bị bao gồm thế giới quan và nhân sinh quan, cũng như các vấn đề cơbản của đời sống xã hội trên rất nhiều lĩnh vực có tính thực tiễn, gần gũi. Do đó, nội dungđề cập đến một lượng kiến thức dồi dào, thực tiễn, sinh động, không trừu tượng [nhưtoán, hóa, lý…]. Điều này cũng có nghĩa là khi xây dựng chủ đề, nhất là chủ đề liên môn,giáo viên sẽ có trước tiên là nhiều môn học, đề tài được chọn để đưa vào tích hợp, thêmvào đó trong quá trình dạy các nhiệm đặt ra đối với học sinh cũng dễ dàng được tiến hànhmột cách chất lượng và đảm bảo bởi hai yêu tố: nguồn tài liệu dồi dào [từ thực tiễn, hoặckiến thức liên môn khác mà học sinh sẵn có] và tri thức thực tiễn sẵn có từ học sinh.Vì là bộ môn trang bị thế giới quan và nhân sinh quan cũng như các vấn đề cơ bản củađời sống xã hội, nên quá trình tích hợp xây dựng chủ đề liên môn, bản thân đơn vị kiếnthức môn GDCD trong chủ đề thường là được sử dụng thường xuyên làm kim chỉ namcho định hướng giải quyết vấn đề của học sinh, do đó giáo viên cũng dễ dàng kiểm soátđược nội dung cơ bản của chủ đề môn học, không rơi vào tình trạng sa đà, lệch chuẩn.Hai, bộ môn GDCD cũng là bộ môn có chứa nhiều đơn vị kiến thức liên đới nhau theochủ đề từng chương mục[7]. Ví dụ: GDCD 10- Phần thứ nhất, toàn bộ nội dung chỉ xoayquanh chủ đề thế giới quan, phương pháp luận [triết học]; Phần thứ 2: Nội dung xoayquanh chủ đề đạo đức học. Trong chủ đề này có thể chia ra các chủ đề nhỏ như: Đạo đứcvà các phạm trù cơ bản [tích hợp 2 bài 10 và 11];Hoặc như, trong phạm vi bậc THPT, chủ đề Đạo đức với đời sống, chúng ta cũng tìmthấy nội dung có sự liên hệ và đưa vào chủ đề là Mối quan hệ giữa Pháp luật và đạođức [mục c. bài 1, GDCD 12, tr 9]Do đó, việc xây dựng chủ đề là khá dễ dàng, ngay cả khi môn này nhận thêm nhiệm vụtích hợp, lông ghép các chủ đề ngoài giờ lên lớp khác.Ví dụ: lồng ghép, tích hợp giáo dục phòng chống tham nhũng[8] và học tập làm theo tấmgương đạo đức Hồ Chí Minh[9], cũng có thể được đưa vào chủ đề Đạo đức với đời sống.Ba, bộ môn GDCD cũng là bộ môn có nội dung liên hệ nhiều với các bộ môn như Sử,Địa, Văn, Sinh học, GDQP, NGLL… Do đó, khi dạy theo chủ đề, học sinh dễ dàng tiếpcận hơn, dễ dàng nhận nhiệm vụ học tập nhờ vào sức tự tin về kiến thức sẵn có khi yêucầu giải quyết nhiệm vụ thực tiễn. Vì thế, môn học cũng hứa hẹn thái độ tích cực, hứngthú và chủ động hơn từ phía học sinh.Về khả năng của giáo viênKhả năng của giáo viên bao gồm: kiến thức, kĩ năng sự dụng kỹ thuật, phương pháp dạyhọc.Ưu thế vượt trội của giáo viên GDCD so với các giáo viên khác chính là việc quen thuộcvới nhiều phân loại kiến thức khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn. Từ triết,đạo đức học, kinh tế chính trị, pháp luật học cho đến các chủ đề nhỏ từng được đưa vàogiảng dạy tích hợp, lồng ghép hàng chục năm qua như giáo dục kĩ năng sống, giáo dụctrật tự ATGT, giáo dục sức khỏe giới tính, bình đẳng giới, tích hợp giáo dục tấm gươngđạo đức Hồ Chí Minh, giáo dục chủ quyền biển đảo, giáo dục bảo vệ môi trường, giáodục phòng chống các tệ nạn xã hội, …. Do vậy, dữ liệu các kênh tri thức liên môn là vôcùng phong phú, dồi dào. Đây cũng là các chủ đề dễ dàng được giáo viên tích hợp thànhchủ đề để đưa vào giảng dạy nếu được áp dụng mô hình dạy học này.Ngoài ra, về phương diện sử dụng kĩ thuật và phương pháp dạy học, không chỉ riêng giáoviên GDCD mà ở các bộ môn khác cho đến nay, về cơ bản đã từng tiếp cận và kinh quatương đối thành công rất nhiều các kĩ thuật và phương pháp dạy học tích cực [vd: nhưphương pháp dự án, thảo luận nhóm, trực quan…], điều này vô cùng hữu dụng và là tiềnđề cho việc sử dụng nó vào việc khai thác các đơn vị kiến thức trong tiết dạy học theochủ đề. Về cơ bản, dạy học theo chủ đề rất cần những phương pháp này để khai thác nộidung bài học, cũng như đây là cách để học sinh liên hệ thực tiễn.Đối với học sinhKhả năng đón nhận cao vì trước hết, các chủ đề được xây dựng theo dạng tích hợp, liênmôn có tính thực tiễn sinh động nên chủ đề học bao giờ cũng hấp dẫn, dễ tạo ra động cơ,hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăngcường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghinhớ kiến thức một cách máy móc. Quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúpcho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn họckhác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũngnhư khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn.Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế, riêng với môn học GDCD khi áp dụng dạy học theochủ đề cũng gặp một số khó khăn, như:+ Giáo viên chưa chuẩn bị tâm lý, ngại thay đổi.+ Học sinh vẫn coi GDCD là môn phụ.+ GDCD là môn học có tần suất và nội dung được đưa vào tích hợp nhiều những vấn đềkhác ngoài chương trình, do đó có thể gây khó khăn và lúng túng cho giáo viên khi xácđịnh nội dung xây dựng chủ đề hoặc phá vỡ kết cấu nội dung, làm nhạt nội dung chínhcủa chương trình.+ Thời gian học 1 tiết trên lớp, khiến chủ đề khi đưa vào giảng dạy dễ bị chia nhỏ, manhmún, ảnh hưởng đến việc trình bày sản phẩm, kết quả học tập của học sinh. Đồng thời,khiến chủ đề học dễ rơi vào tình trạng chỉ là một dạng thức hình thành trên cơ sở củatổng đại số đơn thuần các đon vị kiến thức [không liên hệ, không mở rộng, không lũytiến].+ Độ ngắn dài hay nội dung chủ đề phụ thuộc rất nhiều vào nhóm năng lực mà từng giáoviên, từng môn, từng địa phương đề ra trong quá trình giáo dục, khó thống nhất dễ gâyxáo trộn chương trình chung.+ Quan trọng hơn hết là chưa có một khung chương trình xây dựng các chủ đề, từ đơnmôn đến liên môn. Do đó, điều này cần sự bàn bạc, thống nhất giữa các giáo viên trong tổbộ môn và giữa các bộ môn, thậm chí là những nhà quản lý giáo dục, các chuyên gia giáodục để có sự thống nhất đồng bộ, đảm bảo không thiếu sót hoặc lặp lại kiến thức, khôngtạo ra tính ỷ lại ở bộ môn này cho môn khác; không tạo ra sự mầu thuẫn giữa các quanđiểm lập trường chuyên môn người dạy giữa các môn; không quan trọng hóa môn họcnày hay môn học khác trong quá trình tích hợp theo chủ đề.2.3. Xây dựng chủ đề dạy học trong bộ môn GDCD và những điểm cần chú ýTrước tiên, cần tái khẳng định lại rằng; dạy học theo chủ đề là một cách tiếp cận hoàntoàn mới mẻ. Do đó, việc đưa ra những định hướng trong quá trình xây dựng chủ đề, baogồm cách thức, quy trình và những nguyên tắc xây dựng chủ đề chỉ là những gợi mở,tham khảo và chờ đợi sự đóng góp tích cực từ kinh nghiệm giảng dạy của giáo viên trựctiếp tham gia thực hiện mô hình này để chuyên đề có tính khả dụng.Tuy nhiên, từ các dữ liệu nghiên cứu, hầu hết đều cho rằng, trước khi bắt tay vào xâydựng chủ đề học [không chỉ đối với môn GDCD mà còn cả đối với các môn học khác]cần nắm vững những điểm sau:Một là; Chủ đề tích hợp được soạn theo yêu cầu hình thành một năng lực nào đó cho họcsinh trong thực tiễn. Các năng lực này tùy vào tình hình thực tế tại cơ sở có thể thay đổitùy vào trình độ của học sinh.Hai là; Công cụ của dạy học theo chủ đề là: giáo án về chủ đề đó, có liên quan đến ít nhấtkiến thức của hai đơn vị nội dung học hoặc bài trong một bộ môn hoặc hai bộ môn trởlên. Trong quá trình này, phương pháp dạy học có thể sử dụng chính các phương pháptích cực trong dạy học hiện nay để khai thác chủ đề [phương pháp dự án, thảo luận…].Đồng thời, chú trọng đến yếu tố Công nghệ thông tin như một phương tiện hỗ trợ đắc lựckhi khai thác chủ đề.Ba là; Kết quả chủ yếu, căn bản cần đạt được khi dạy học theo chủ đề phải trả lời cho câuhỏi: Sau chủ đề học, học sinh biết làm gì? Hình thành năng lực gì?Bốn là; Tùy theo nội dung chương trình sách giáo khoa hiện nay mà việc xây dựng chủđề dạy học có thể là:Chủ đề tích hợp: dành cho giáo viên [đưa kiến thức từ đời sống đến bài dạy];Chủ đề liên môn: dành cho học sinh [đưa kiến thức từ nhiều môn học để giải quyết cáctình huống trong thực tiễn cuộc sống].Chủ đề dạy học: tập hợp các đơn vị kiến thức gần nhau để xây dựng thành một chủ đề.Tuy nhiên, ranh giới giữa các hình thức chủ đề trên cũng tương đối. Đôi khi, một chủ đềdạy học vẫn có thể bao gồm cả những đặc điểm của hai chủ đề còn lại [cách phân loạinày chỉ có tác dụng đối với giáo viên khi muốn xác định cấp độ đơn giản hay phức tạpcủa nội dung tích hợp trong chủ đề, ứng với trình độ, năng lực cụ thể của học sinh].Năm là; Hình thức dạy học chủ đề tích hợp có thể được tiến hành dạy luôn trong chươngtrình. Quỹ thời gian lấy ở các bài đơn lẻ, đã được dạy trong bài dạy tích hợp. Có thể dạytrong nhiều tiết, nên từ 2-3 tiết/chủ đề. Không gian tổ chức có thể tại lớp, sân trường…khuyến khích không gian trải nghiệm [các hoạt động thực hành, trải nghiệm, xưởng sảnxuất, đi thực tế, tham quan…] .Sáu là; đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thểbố trí dạy trong chương trình của môn đó và không dạy lại ở các môn khác.Trường hợp nội dung kiến thức có tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành các chủ đềliên môn để tổ chức dạy học riêng vào một thời điểm phù hợp, song song với quá trìnhdạy học các bộ môn liên quan.Chương 3ĐỊNH HƯỚNG QUY TRÌNH XÂY DỰNG, SOẠN GIẢNG CHỦ ĐỀ HỌC TRONGBỘ MÔN GDCD BẬC THPT VÀ NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁTRÌNH KHAI THÁC CHỦ ĐỀ TRONG GIẢNG DẠY3.1. Các bước cơ bản xây dựng chủ đề và tiến trình soạn giảng chủ đề học mônGDCD bậc THPTKhó khăn nhất hiện nay của giáo viên bộ môn chính là việc định hình quy trình xây dựngvà tiến hành soạn giảng một chủ đề. Trong thực tế, chưa có sự thống nhất cuối cùng đểđưa ra một hướng dẫn cụ thể, tất cả mới dừng lại ở việc tìm tòi, vừa thử nghiệm vừa rútkinh nghiệm.Theo tìm hiểu bước đầu của tác giả, để xây dựng một chủ đề đảm bảo tính khoa học vàđáp ứng các mục tiêu dạy học, có thể tiến hành tuần tự theo các bước sau:Bước 1: Xác định nội dung, phạm vi kiến thức muốn đưa vào chủ đề. Nội dung có thể làsự tích hợp một đơn vị kiến thức trong một bài, nhiều bài, một môn, nhiều môn.Yêu cầu: Có sự liện hệ tri thức gần nhau, giao thoa hoặc trùng lặp hay có độ liên đới lũytiến, đi lên phù hợp trình độ nhận thức của học sinh.Bước 2: Căn cứ các nội dung đã được xác định tích hợp, giáo viên tiến hành xây dựngchủ đề.Yêu cầu: Tên chủ đề bao quát các đơn vị kiến thức muốn tích hợp, kết cấu nội dung chủđề phải hợp lý, các đơn vị kiến thức trong chủ đề phải theo trình tự nhận thức từ dễ đếnkhó, đơn giản đến phức tạp hoặc nhóm thành các chủ đề nhỏ phù hợp với nhiệm vụ họctập được giao cho học sinh.Chủ đề xây dựng vừa đúng, đủ, phù hợp và đảm bảo các yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩnăng trong chương trình chuẩn, cũng như các năng lực cần xây dựng, kiểm tra, đánh giáđối với học sinh.Bước 3: Tiến hành soạn giáo án theo chủ đề đã xây dựng. Có thể tham khảo theo mẫusau:Ngày soạn: …………………Tuần: từ tuần… đến tuần…..Ngày dạy: từ ngày … đến ngày….Tiết: từ tiết….. đến tiết…….TÊN CHỦ ĐỀ:………………………………Số tiết: ……………………………I. MỤC TIÊU [chung cho cả chủ đề]1.Kiến thức: ……………………………2.Kỹ năng: ……………………………..Lưu ý: Đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng theo chương trình hiện hành, trên quan điểmphát triển năng lực học sinh[10].3. Năng lực cần phát triển……………Lưu ý:a. Bao gồm những năng lực chuyên biệt ở từng đơn vị kiến thức, bài hoặc chương cầnphát triển cho học sinh khi học xong chủ đề.b. Trong số các năng lực cần phát triển đó, giáo viên sắp xếp theo thứ tự ưu tiên từ trênxuống dưới tùy vào mục đích, yêu cầu và dung lượng của các đơn vị kiến thức được tíchhợp trong chủ đề đó.II. BẢNG MÔ TẢ CÁC NĂNG LỰC CẦN PHÁT TRIỂNNội dung chủ đề………………….Nhận biết……………..Thông hiểu……………..Vận dụng thấp Vận dụng cao……………..……………..………………….……………..……………..……………..……………..Lưu ý:1. Giáo viên mô tả chi tiết các mức độ cần đạt để phát triển năng lực cho HS, cơ sở củabảng mô tả này là các năng lực mà giáo viên đã đưa ra ở mục 3 phần I [mục tiêu].2. Giáo viên không nhầm lẫn giữa bảng mô tả với ma trận đề kiểm tra.III. HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC1. Đối với chủ đề là một bài dạy với thời lượng là 1 tiết [45 phút ] hoặc nhiều tiết [bài cónhiều nội dung] giáo viên thiết kế hoạt động dạy học tương tự hoạt động dạy học trongcác giáo án theo quy định hiện hành, như sau:TL HOẠT ĐỘNG CỦAHOẠT ĐỘNG CỦA HSNỘI DUNG ĐẠTGIÁO VIÊNHoạt động 1: Nội dung 1…………………………ĐƯỢCI. Nội dungNhiệm vụ a, b,c…………………Hoạt động 2: Nội dung 2…………………………II. Nội dungNhiệm vụ a, b,c………………..Hoạt động 3: Nội dung 3…………………………1: ………………….2: ………………….III. Nội dungNhiệm vụ a, b,c…………………3: ………………….……………………..………………………….. …………………………….2. Đối với chủ đề có nhiều bài dạy [có thể các bài dạy trong 1 chương hoặc không phải là1 chương nhưng có nhiều nội dung liên quan[11]…] giáo viên có thể tham khảo mẫu thiếtkế như sau:TLHOẠT ĐỘNG CỦAHOẠT ĐỘNG CỦA HSGIÁO VIÊNHoạt động 1: Nội dung 1[bài 1]Nhiệm vụ a, b, c,……………................…………………………….Hoạt động 2: Nội dung 2[bài 2]1:……………………….II. Nội dungNhiệm vụ a, b, c,……………………………………………………Hoạt động 3: Nội dung 3[bài 3]NỘI DUNG ĐẠTĐƯỢCI. Nội dung2:……………………….III. Nội dungNhiệm vu a, b, c,………………………3:……………………….………………………..………………………… …………………………………… ...….…….Ngoài ra, các bước còn lại như củng cố, chuẩn bị nội dung học mới tương tự nhưgiáo án theo quy định hiện hành.Lưu ý: Về thời gian dạy dạng chủ đề có nhiều bài dạyGiáo viên tự bố trí thời gian hợp lý cho từng nội dung nhưng phải đảm bảo cungcấp cho học sinh những kiến thức, kỹ năng và những năng lực cần phát triển như đã yêucầu ở phần mục tiêu và không được ít hơn hoặc nhiều hơn thời gian dành để dạy cho mộtchương hoặc cho nhiều bài [đã gộp lại thành một chủ đề] theo tổng số tiết đã được quyđịnh trong phân phối chương trình.Bước 4: Dựa trên các nhiệm vụ học tập được đư ra theo kế hoạch, giáo viên tiếnhành thực hiện dự án dạy. Ở bước này, giáo viên cần bám sát những nhiệm vụ học củahọc sinh, đề ra các phương pháp phù hợp khai thác hiệu quả nội dung chủ đề. Tiết dạyhọc theo chủ đề thường được tiến hành giống như một tiết học bình thường ngay tại lớphọc hoặc ngoài trời, nơi không gian trải nghiệm. Tuy nhiên, dạy học theo chủ đề thướnggắn với các nhiệm vụ học tập và gắn với giải quyết các vấn đề thực tiễn nên khâu chuẩnbị có thể sẽ phải tiến hành trước tiết dạy nhiều tuần. Các dự án cần có kế hoạch theo dõitiến trình thực hiện để có cơ sở kiếm tra, đánh giá các năng lực học sinh ngay trong quátrình thực hiện nhiệm vụ học tập.Bước 5:Sau khi dạy học theo chủ để giáo viên có thể tiến hành kiểm tra đánh giáviệc học theo chủ đề với những câu hỏi/ bài tập phù hợp.Thông thường trong dạy học chủ đề có một số lưu ý về câu hỏi/ bài tập nhưsau:Một, phải căn cứ vào bảng mô tả ở trên giáo viên mới tiến hành xây dựng cáccâu hỏi và bài tập tương ứng[12] để khai thác và kiểm tra đánh giá học sinh.Hai, câu hỏi/ bài tập đưa ra nhằm kiểm tra, đánh giá việc tiếp thu kiến thức,kỹ năngtrong đó chú ý đến các năng lực cần phát triển sau khi học sinh học xong chủ đề[tương tự như câu hỏi/bài tập mà giáo viên dùng để củng cố bài trong các tiết dạy hiệnnay].Ba, đối với câu hỏi/ bài tập liên quan đến phát triển năng lực học sinh yêucầu câu hỏi/bài tập đưa ra phải đánh giá được 4 mức độ như trong bảng mô tả [nhận biết,thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao] trong đó ưu tiên những câu hỏi/bài tập gắn liềnvới thực tiễn đòi hỏi học sinh vận dụng kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của bản thân đểgiải quyết các tình huống thực tiễn đó.Bốn, sau mỗi chủ đề giáo viên có thể kiểm tra học sinh dưới dạng đề kiểm tra15 phút. Nếu sau chương hoặc sau các bài không nằm trong một chương nhưng giáo viênđã gộp lại để dạy dưới dạng một chủ đề mà có bài kiểm tra 1 tiết theo quy định của phânphối chương trình thì giáo viên xây dựng đề kiểm tra 1 tiết. Trong đề kiểm tra 1 tiết cũngphải đảm bảo các yêu cầu như ở mục 2, 3 của bước 5 này. Đề kiểm tra 15 phút hoặc mộttiết giáo viên vẫn phải xây dựng ma trận đề.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc khai thác hiệu quả tiết dạy học theo chủ đềMột, phương pháp dạy họcMột trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc khai thác chủ đề học có chất lượng và điđúng với những mục tiêu ban đầu của giáo viên hay không tùy thuộc rất nhiều vàophương pháp khai thác chủ đề học. Không ít trường hợp cho rằng, với mô hình mới cầnphải có phương pháp mới. Tuy nhiên, cần khẳng định lại mô hình dạy học theo chủ đề làvấn đề liên quan đến nội dung chứ không phải phương pháp. Do vậy, mô hình này vẫn cóthề sử dụng các phương pháp dạy học hiện có. Tất nhiên, do yêu cầu về đổi mới giáo dụctăng cường định hướng phát triển năng lực học sinh mà một số phương pháp truyền thốngcó thể ít nhiều không phù hợp [ví dụ phương pháp đàm thoại], nhưng còn đó rất nhiều cácphương pháp như phương pháp dự án, thảo luận nhóm, nêu vấn đề… đặc biệt rất cần chomô hình dạy học này. Do đó, việc nắm vững các phương pháp khai thác của giáo viênnhư thế nào sẽ góp phần quan trọng vào việc khai thác nội dung chủ đề học tốt hay khôngnhư thế ấy.Hai, cách thức xây dựng câu hỏi/ bài tập và việc giao nhiệm vụ học tậpNhư đã biết, theo cách tiếp cận dạy học theo chủ đề mang tính chất tổng quát, hàm chứacác nội dung kiến thức mà chúng ta cần trang bị cho học sinh. Những kiến thức này cóthể liến quan đến một hay nhiều lĩnh vực khác nhau và có thể tiếp cận ở nhiều góc độkhác nhau. Căn cứ vào mục tiêu dạy học, nội dung kiến thức trong chủ đề cũng như trìnhđộ học sinh, một hệ thống câu hỏi định hướng sẽ được xây dựng với sự thỏa thuận giữagiáo viên và học sinh. Căn cứ vào câu hỏi định hướng này, giáo viên tổ chức các hoạtđộng học tập cho học sinh nhằm giải quyết vấn đề, trả lời những câu hỏi đặt ra. Như vậy,việc học tập của học sinh được định hình với những yêu cầu cụ thể và tự nó trở nên cótính mục đích cao. Thông qua các hoạt động học tập đó, giáo viên tạo cơ hội cho học sinhchủ động xây dưng cho mình một hệ thống kiến thức mang tính chặt chẽ, sâu sắc, bảnchất, thiết thực và hệ thống. Theo cách tiếp cận dạy học này, việc thiết lập hệ thống câuhỏi định hướng [Framing Question] có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướnghọc tập của học sinh[13]. Do đó, nếu giáo viên không nắm được các loại câu hỏi địnhhướng, cách thức, yêu cầu khi xây dựng một câu hỏi định hướng coi như dạy học theochủ đề không khác một tiết dạy truyền thống, khô cứng và thiếu sinh động.Thêm vào đó, cũng cần chú ý nội dung câu hỏi/ bài tập đã đáp ứng được mục tiêu chuẩnkiên thức kĩ năng và đặc biệt là những yêu cầu về năng lực học sinh mà chủ đề đanghướng tới hay chưa.Trường hợp không đáp ứng các yêu cầu này, chủ đề học trở nên rờirạc, thiếu liên kết và các hoạt động học tập cũng trở nên thiếu động lực.Ba, năng lực, trình độ học sinhChính năng lực trình độ học chứ không phải nội dung chương trình môn học hoặc liênmôn quyết định đến việc xây dựng và soạn giảng chủ đề. Bởi lẽ, dạy học theo chủ đề lấyhọc sinh là trung tâm. Từ tính tích cực, chủ động thực hiện các nhiệm vụ học tập, vậndụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn mà tri thức và các năng lực được hìnhthành. Do vậy, khi trình độ có sự phân hóa cao, dạy học heo chủ đề sẽ khó thực hiệnđược các mục tiêu về chuẩn kiến thức, kĩ năng cũng như các năng lực cần phát huy, kiểmtra, đánh giá đối với người học.Bốn, phương tiện dạy học, đặc biệt là công nghệ thông tin, truyền thôngCông nghệ thông tin, truyền thông là một yếu tố ảnh hưởng không hề nhỏ đến quá trìnhdạy học theo chủ đề. Bởi lẽ, trong mỗi chủ đề học tập, với những nhiệm vụ học tập đãđược đặt ra trước đó, học sinh phải tìm kiếm, thu thập, xử lý thông tin từ nhiều ngồn khácnhau; phải trao đổi, xuất bản thông tin để chia sẻ với người khác… do vậy công nghệthông tin và truyền thông sẽ được đưa vào sử dụng như một nhu cầu tư nhiên trong quátrình học. Do đó, khâu chuẩn bị một tiết dạy theo chủ đề, với những dự án học tập, cầnthiết phải bổ sung vào danh mục đồ dùng, phương tiện dạy học những trang thiết bị, cơ sởvật chất cần thiết phục vụ cho việc trình bày sản phẩm mà nhiệm vụ học tập đã đề ra đốivới học sinh./.KẾT LUẬNDạy học theo chủ đề là một trong những mô hình dạy tối ưu hóa góp phần giải quyết cácvấn đề còn tồn tại trong nội dung chương trình học hiện nay như: góp phần phát huy tínhtích cực của học sinh trong quá trình học, tăng cường định hướng phát triển năng lực họcsinh thông qua vận dụng kiến thức giải quyết các vấn đề thực tiễn, cùng với đó là việcgiúp học sinh giảm thiểu nhàm chán, áp lực do sự trùng lặp kiến thức khi học và hướngtới kết cấu lại những đon vị kiến thức có tính liên hệ, tổng thể hơn giúp học sinh nắm bắtbản chất kiến thức sau khi học.Đây là mô hình đang được tiếp cận bởi tính khả dụng của nó khi đối chiếu với lộ trình đổimới căn bản, toàn diện giáo dục ở nước ta sau năm 2015.Ở một phương diện khác, nhằm trang bị kiến thức, kĩ năng, phương pháp dạy học khi cósự đổi mới về mô hình dạy học và chương trình dạy học, nhiều môn học đã bước đầu chủđộng tiếp cận, tìm hiểu, thực hành. Tuy còn liên quan đến nhiều yếu tố đòi hỏi phải cóquá trình chuẩn bị như chương trình sách giáo khoa, tổ chức dạy học, phương pháp dạyhọc, đánh giá, kiểm tra, thi cử… song những sáng kiến, kinh nghiệm và các kết quả thuđược bước đầu… đã góp phần giải quyết một số những khúc mắc về vấn đề lý luận, đồngthời làm tư liệu tham khảo có ích cho các bộ môn khác.Với môn GDCD, yêu cầu đặt ra hiện nay là việc tiếp cận theo mô hình mới này cần nhiềunhững định hướng thiết thực làm tiền đề cho các hoạt động bộ môn sau này đi vào thựcchất, tiến tới triển khai có hiệu quả.Trên cơ sở tham khảo các nguồn tài liệu, với kiến thức hạn hẹp, chuyền đề “Dạy học theochủ đề với việc ứng dụng trong giảng dạy bộ môn GDCD THPT” không kì vọng quánhiều vào tính ứng dụng phổ biến cho toàn bộ môn ở thời điểm hiện tại, chỉ mong gópmột phần nhỏ để quý đồng nghiệp trao đổi thông tin, sinh hoạt chuyên môn nhằm chuẩnbị tâm thế cho lộ trình đổi mới giáo dục sau năm 2015 khi thực hiện việc áp dụng môhình dạy học này đến các môn học, trong đó có GDCD. Với thời gian và giới hạn về đềtài, chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ quý đồng nghiệp.- HẾT Đồng Nai, ngày 23 tháng 2 năm 2015Tác giả

Video liên quan

Chủ Đề