Cuối năm 1940 nhân dân ta phải chịu cảnh một cổ hai tròng điều đó có nghĩa là gì

CHUYÊN ĐỀ: CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VIỆT NAM 1939-1945

Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm

Đơn vị công tác: Trường THPT chuyên Lào Cai

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài.

Trong tiến trình phát triển của lich sử dân tộc giai đoạn lịch sử 1939-1945 đỉnh cao là cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những trang sử vẻ vang nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Bằng thắng lợi của cuộc Cách mạng này, nhân dân Việt Nam đã đập tan ách phát-xít Nhật, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp gần 100 năm, xóa bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn năm, đưa đất nước bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chuyên gia sử học người Pháp Alain Ruscio, người có nhiều gắn bó với lịch sử Việt Nam cho rằng, với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam đã làm nên điều kỳ diệu, bước ra từ thân phận dân tộc nô lệ và trở thành dân tộc làm chủ, tự quyết định vận mệnh và tương lai của mình. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đã đem lại niềm tin tự giải phóng, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, mở ra thời kỳ tan rã của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới:"Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 của Việt Nam là sự tất yếu mang tính logic trong lịch sử phong trào đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Đây là sự kiện trọng đại của cả dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam là dân tộc đầu tiên trong số các dân tộc trên thế giới bị thực dân Pháp đô hộ đã thành công trong cuộc kháng chiến của mình. Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 đã có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào đấu tranh đòi độc lập của các nước thuộc địa trên thế giới lúc bấy giờ, nhất là các nước ở châu Phi. Khi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có vai trò quan trọng, là người đầu tiên tuyên bố độc lập ở một nước thuộc địa" .

Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã tạo dấu ấn sâu sắc trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc. Vì ở đó, đường lối đấu tranh của Đảng cộng sản Việt Nam trùng khớp với ý nguyện của nhân dân; thiên tài của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã tỏa sáng cùng trí tuệ của dân tộc… Tất cả đã tạo thành con sóng nhấn chìm chế độ thực dân phong kiến, đưa nhân dân Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do.

Cách mạng Tháng Tám đã cho những bài học lịch sử quý báu, mãi mãi soi sáng các chặng đường cách mạng Việt Nam. Ðó là bài học giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xác định và kết hợp đúng đắn các nhiệm vụ chiến lược trong từng thời kỳ cách mạng; bài học về phát động sức mạnh toàn dân tộc; bài học thực hiện triệt để phương châm "thêm bạn bớt thù"; bài học về nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật tạo thời cơ và nắm bắt thời cơ; bài học về xây dựng một Đảng Mác - Lê-nin có bản lĩnh chính trị vững vàng, gắn bó mật thiết với nhân dân. Giá trị lịch sử và bài học Cách mạng tháng Tám năm 1945 không chỉ soi sáng các chặng đường cách mạng Việt Nam mà còn vẹn nguyên trong thời điểm VN tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.

Trong dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông nói chung và ôn luyện học sinh giỏi môn Lịch sử nói riêng giai đoạn lịch sử 1939-1945 thường được hỏi nhưng lại là vấn đề khó .

Do đó, đi sâu nghiên cứu quá trình vận động giải phóng dân tộc 1939-1945 kết quả là sự thành công của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 để thấy rõ hơn đường lối lãnh đạo đúng đắn, linh hoạt và sáng tạo của Đảng là điều rất cần thiết. Đồng thời việc nghiên cứu về giai đoạn cách mạng này không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc. Từ cơ sở của quá trình nghiên cứu, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong sự nghiệp cách mạng hiện nay. Nhất là trong bối cảnh vấn đề an ninh, chủ quyền biển đảo trở thành mối quan tâm hàng đầu của cả dân tộc và các quốc gia trên thế giới.

Những vấn đề xoay quanh Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một đề tài hay trong ôn tập và bồi dưỡng HSGQG môn Lịch sử ở trường phổ thông. Được sự phân công của đơn vị tổ chức Hội thảo Khoa học các trường Chuyên khu vực Duyên hải và Đồng Bằng Bắc Bộ, tôi đã tập hợp một số tài liệu để viết chuyên đề: “Cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945”, nhằm cung cấp một phần tài liệu thiết thực cho giáo viên, học sinh tham khảo khi ôn luyện để chuẩn bị cho các kì thi học sinh giỏi các cấp đặc biệt là kì thi chọn học sinh giỏi Quốc gia môn Lịch sử.

2. Mục đích, phạm vi, đối tượng nghiên cứu của chuyên đề.

2.1. Mục đích nghiên cứu của chuyên đề.

Chuyên đề “Cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945” là một chuyên đề hay, thiết thực trong ôn luyện đội tuyển HSG các cấp, góp phần giúp học sinh có kiến thức sâu sắc và nhận thức đầy đủ hơn về quá trình chuẩn bị, thời cơ cách mạng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng saản Đông Dương trong cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Qua đó, học sinh biết phân tích, nhận định, tổng hợp, đánh giá, so sánh các vấn đề lịch sử nói chung và vấn đề liên quan đến cuộc vận động giải phóng dân tộc để làm nên thắng lợi của Cách mạng tháng Tám nói riêng.

Bên cạnh đó nội dung của chuyên đề sẽ giúp giáo viên có thể khai thác kiến thức để hướng dẫn học sinh hiểu sâu sắc hơn về giai đoạn này, cũng như liên hệ của các đơn vị kiến thức và các giai đoạn lịch sử.

2.2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của chuyên đề.

Một số nội dung kiến thức chuyên sâu về cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945.

3. Cấu trúc của chuyên đề gồm các phần.

- Phần mở đầu.

- Phần nội dung:

Kiến thức cơ bản, chuyên sâu và các câu hỏi vận dụng về cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945.

- Phần kết luận.

PHẦN NỘI DUNG

PHẦN I. KIẾN THỨC VỀ CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VIỆT NAM 1939-1945

I. HOÀN CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC

1. Hoàn cảnh quốc tế:

Từ giữa những năm 30 của thế kỉ XX, các thế lực phát xít đã bành trướng ở nhiều quốc gia. Chúng câu kết với nhau, tiến hành chạy đua vũ trang, chuẩn bị gây chiến tranh thế giới. Ngày 25 – 11 – 1936, Đức và Nhật Bản kí kết “Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản”. Một năm sau, ngày 6 – 11 – 1937, Italia tuyên bố tham gia Hiệp ước này. Trục Beclin – Rôma – Tôkyô hình thành. Liên minh phát xít đã mở rộng từ Châu Âu sang Châu Á.Trong thời gian này, các cuộc chiến tranh xâm lược cục bộ đã được phát động ở một vài khu vực. Tháng 7 – 1937, Nhật Bản mở cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. do chính sách chống Nhật Bản tiêu cực của tập đoàn cầm quyền Tưởng Giới Thạch, quân Nhật trong một thời gian ngắn đã được nhiều thành phố, trung tâm công nghiệp và các vị trí đầu mối giao thông quan trọng của Trung Quốc.

Tháng 7 – 1938, quân Nhật mở nhiều cuộc tấn công vào vùng hồ Khát-xan thuộc lãnh thổ Liên Xô để thăm dò. Trong khi đó, ở châu Âu, Anh và Pháp thực hiện chính sách nhượng bộ Phát xít Đức. Ngày 29 – 8 – 1938, chính phủ hai nước này kí với Đức một hiệp ước tại Muyních [Đức], chấp nhận cho Đức chiếm đóng Tiệp Khắc [1] với hy vọng hướng mũi tiến công của Đức về phía Đông, đáng Liên Xô. Tháng 2 – 1939, Nhật chiếm đảo Hải Nam, phong tỏa hoàn toàn lục địa Trung Quốc. Tháng 3 – 1939, quân Nhật tấn công vào khu vực sông Khan Khin Gôn của Mông Cổ, khiêu khích Liên Xô. Hồng quân Liên Xô phối hợp với quân Mông Cổ tiêu diệt toàn bộ tập đoàn quân số 6 của Nhật Bản.

Ngày 23 – 8 – 1939, Liên Xô kí với Đức hiệp ước không xâm phạm, để tránh rơi vào tình thế bị tấn công từ hai phía Đông và Tây, đồng thời để tranh thủ thời gian tăng cường lực lượng quốc phòng và triệt để lợi dụng mâu thuẩn giữa hai khối đế quốc và Phát xít.

Từ 1-9-1939 đến 2-9-1945, Chiến tranh thế giới thứ hai khốc liệt diễn ra. Cuộc chiến gồm nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu; mặt trận Xô - Đức; mặt trận Bắc Phi; mặt trận châu Á - Thái Bình Dương và mặt trận trong lòng địch [của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng]. Trong đó, ngoài mặt trận chủ yếu, quyết định đối với toàn bộ tiến trình của Chiến tranh thế giới thứ hai là mặt trận Xô-Đức, tác động đến số phận của Việt Nam, là mặt trận Tây Âu [cụ thể là Pháp] và trực tiếp nhất là mặt trận châu Á-Thái Bình Dương. Cũng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1943, QTCS-tổ chức lãnh đạo phong trào vô sản quốc tế đã tự giải tán, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các ĐCS trên thế giới.

Nước Pháp tại mặt trận Tây Âu: Ngày 10-5-1940, quân Đức tràn vào Pháp, Bỉ, Hà Lan và Lúc-xăm-bua. Chỉ trong thời gian ngắn, Đức vượt qua phòng tuyến của Pháp và đầu tháng 6 đến thủ đô Pari. Ngày 10-6, Chính phủ Pháp bỏ Pari chạy về Tua. Nội bộ Chính phủ Pháp mâu thuẫn, trong đó đa số thành viên Chính phủ chấp nhận đầu hàng. Ngày 17-6, Pê tanh [Pétain] lên cầm đầu chính phủ đầu hàng phát xít Đức, Ý. Nền Cộng hòa Pháp bị thủ tiêu, thay thế bằng chế độ độc tài quân sự. Ngày 27-10-1940, Đờ Gôn [DeGaulle] thành lập “Chính phủ Pháp tự do”, muốn dựa vào lực lượng Anh, Mỹ để giải phóng đất nước. Mỹ và Anh vẫn chưa tham gia chiến tranh, mà theo dõi tình hình các mặt trận. Khi thấy thất bại của Đức đã rõ ràng, Mỹ - Anh mới mở Mặt trận thứ hai, đổ bộ lên miền Bắc Pháp vào ngày 6-6-1944. Ngày 25-8-1944, quân Đồng minh tiến vào Pari. Chính phủ lâm thời của nước Cộng hòa Pháp, do Đờ Gôn đứng đầu, được thành lập ở Pari. Nước Pháp được giải phóng khỏi ách phát xít Đức.

Mặt trận Xô-Đức: Ngày 22-06-1941, Liên Xô chính thức bước vào cuộc chiến. Phát xít Đức mở cuộc tấn công trên khắp biên giới phía Tây của Liên Xô, dù tháng 8-1939, hai nước đã ký Hiệp ước không xâm lược Xô-Đức. Tháng 10-1941, Đức tập trung lực lượng mở cuộc tấn công vào Mátxcơva. Sáng 7-11-1941, kỷ niệm lần thứ 24 ngày Cách mạng Tháng Mười, một cuộc duyệt binh đặc biệt diễn ra, trong đó các đơn vị duyệt binh sẵn sàng vũ khí và đạn dược, diễu qua Hồng trường và tiến thẳng ra mặt trận. Trong đó, có một trung đoàn quốc tế thuộc sư đoàn cơ động đặc nhiệm của Hồng quân [gọi tắt tiếng Nga là OMSBON] gồm hơn 2.000 người cộng sản của Bungary, Séc, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Pháp... Trận Stalingrad diễn ra cuối năm 1942 mở đầu cho những thất bại của phát xít Đức. Ngày 16-4-1945, Liên Xô tấn công Béclin, và chiếm toàn thành phố ngày 2-5. Ngày 9-5-1945, lễ ký kết văn kiện đầu hàng không điều kiện của phát xít Đức được tiến hành, kết thúc cuộc chiến tranh ở châu Âu.

Mặt trận châu Á - Thái Bình Dương: Ở châu Á, Nhật Bản sớm có dã tâm bành trướng. Tháng 9-1931, Nhật xâm lược miền Đông Bắc Trung Hoa, rồi dần mở rộng khu vực chiếm đóng. Tháng 11-1937, Đức, Ý và Nhật ký Hiệp ước chống QTCS. Ngày 23-9-1940, với sự giúp đỡ của Đức, Nhật đã ký với Chính phủ Pháp hiệp định để Nhật đưa quân đội vào Đông Dương. Ngày 27-9-1940, ba nước phát xít lại ký hiệp ước đồng minh quân sự và chính trị ở Béclin. Hiệp ước này nhằm chống Liên Xô, và cả Anh, Mỹ. Hiệp ước đề ra việc phân chia thế giới: Đức, Ý ở châu Âu; Nhật ở Viễn Đông. Ngày 7-12-1941, máy bay Nhật oanh tạc dữ dội các tàu chiến và sân bay Mỹ ở cảng Trân Châu [Hawaii], gây tổn thất nặng cho Mỹ. Ngày 8-12-1941, Mỹ và Anh tuyên chiến với Nhật Bản. Từ cuối năm 1941 đến tháng 5-1942 là giai đoạn Nhật Bản thắng lớn. Anh - Mỹ bị đánh bật ra khỏi Thái Bình Dương, mất hết các thuộc địa Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương. Ngày 7-12-1941, quân Nhật từ Đông Dương kéo vào Thái Lan. Ngày 31-12-1941, quân Nhật tấn công Inđônêxia. Ngày 15-2-1942, Xingapo thất thủ. Đầu tháng 5-1942, quân Nhật chiếm được toàn bộ lãnh thổ Philíppin. Đầu năm 1943, Mỹ chuyển sang phản công trên toàn chiến trường, chiếm lại các quần đảo và đảo ở Thái Bình Dương. Ngày 6-8 và ngày 9-8-1945, Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirosima và Nagasaki, hủy diệt 2 thành phố này. Ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật. Ngày 9-8-1945, Hồng quân Liên Xô chính thức mở cuộc tấn công vào đạo quân Quan Đông của Nhật và chỉ trong một tuần đã đánh bại đạo quân này. Ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các nước Đồng minh. Ngày 2-9-1945, Nhật chính thức ký văn kiện đầu hàng, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.

Quốc tế Cộng sản tự giải tán Trong năm 1943, Quốc tế Cộng sản - tổ chức cách mạng quốc tế lớn chỉ đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng như phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa - tự giải thể. Nguyên nhân là do Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra và lan rộng đã cản trở hoạt động của Quốc tế Cộng sản. Sự khó khăn trong duy trì liên lạc với nhau cũng như đa dạng trong tình hình mỗi nước khiến việc lãnh đạo phong trào cộng sản quốc tế từ một trung tâm duy nhất không còn thích hợp nữa. Thêm nữa, các thế lực tư bản quốc tế coi sự tồn tại của QTCS như cái cớ để trì hoãn việc triển khai mặt trận đồng minh chống phát xít. Do nhu cầu cấp thiết phải “củng cố hơn nữa mặt trận thống nhất của các nước”, ngày 15-51943, Ban Chấp hành QTCS đã ra quyết định giải tán QTCS. Ngày 8-6-1943, Hội nghị cuối cùng của Ban Chấp hành QTCS ra nghị quyết, từ 10-6-1943, tất cả hoạt động của QTCS kết thúc. QTCS tự giải thể, ngoài nguyên nhân trực tiếp là tình hình chiến tranh, còn có căn nguyên sâu xa là tổ chức này đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình. Những sự kiện trọng đại của thế giới này có ảnh hưởng lớn đến tình hình cách mạng ở Việt Nam.

2. Hoàn cảnh trong nước:

Do tham dự vào Chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Pháp thực thi chính sách thời chiến một cách thô bạo ở Đông Dương. Là thuộc địa đem lại lợi ích kinh tế hàng đầu cho Pháp, trong chiến tranh, Đông Dương càng bị thực dân Pháp bóc lột ghê gớm. Chúng thực hiện chính sách kinh tế thời chiến, tức là chính sách “kinh tế chỉ huy” nhằm huy động tối đa sức người, sức của phục vụ chiến tranh. Chính quyền thực dân vơ vét vàng bạc, phát hành thêm tiền giấy, ấn định giá cả, tăng thuế cũ, thêm thuế mới, phát hành công trái, sa thải viên chức, giảm tiền lương, tăng giờ làm, bắt lính... Đã có 8 vạn lính Việt Nam bị đưa sang Pháp. Những quyền tự do, dân chủ đã giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Toàn quyền Pháp ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, đóng cửa các tờ báo và nhà sản xuất, cấm hội họp và tụ tập đông người. Ngày 4-1-1940, Toàn quyền Đông Dương Catơru [George Catroux] tuyên bố: “Chúng ta đánh toàn diện và mau chóng vào các tổ chức cộng sản; trong cuộc đấu tranh này, phải tiêu diệt cộng sản thì Đông Dương mới được yên ổn và trung thành với nước Pháp. Chúng ta không có quyền không thắng. Tình thế chiến tranh bắt buộc chúng ta hành động không chút thương tiếc”.

Đồng thời, Đông Dương cũng là mục tiêu quan trọng của Nhật Bản trong chiến lược bành trướng. Đông Dương có vị trí thuận lợi, phù hợp làm bàn đạp mở rộng xâm lược các nước: từ Bắc Kỳ có thể tấn công vào miền Nam Trung Quốc; từ Nam Kỳ có thể sang các nước Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ và vùng hải đảo Đông Nam Á, thậm chí mở rộng tầm kiểm soát tới các đảo phía Nam Thái Bình Dương [Ôxtrâylia, Niu Di-lân...]. Đây còn là nguồn dự trữ chiến lược quan trọng về lương thực, thực phẩm, năng lượng và các tài nguyên khác phục vụ chiến tranh: các vựa lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng, mỏ than ở Bắc Kỳ, rừng cao su ở Nam Kỳ và Campuchia cùng các loại khoáng sản trải rộng trên cả bán đảo có khả năng đáp ứng nhu cầu của quân đội Nhật.

Ngày 2 – 8 – 1940, Nhật Bản trao cho toàn quyền Đơcu một bức công hàm với nội dung: Pháp phải cho Nhật tự do chuyển quân trên lãnh thổ Đông Dương để đánh Trung Hoa Quốc dân Đảng; được sử dụng một số sân bay và bảo vệ những vị trí này ; Pháp phải giúp đỡ việc vận tải vũ khí và đạn dược cho quân đội Nhật. Ngoài ra Nhật Bản đòi được hưởng những điều kiện về thương mại bình đẳng với Pháp ở Đông Dương. Nếu bị từ chối, Bộ ngoại giao Nhật Bản sẽ tiến vào Đông Dương.

Ngày 19 – 9 – 1940, Bộ ngoại giao Nhật bản thông báo cho đại sứ Pháp ở Tôkiô rằng, ngày 22 – 9, quân đội Nhật sẽ vào Đông Dương dù có đạt được hiệp ước quân sự với Đơcu hay không.

Ngày 22 – 9, đại diện Pháp và Nhật đã kí kết một Hiệp ước, trong đó quy định :

1. Quân đội Nhật được quyền sử dụng 3 sân bay lớn ở Bắc Kỳ [các sân bay Gia Lâm, Hải Phòng, Phủ Lạng Thương]. 2. Bộ tư lệnh Nhật có quyền đóng 6000 quân ở Bắc sông Hồng. 3. Quân đội Nhật được quyền đi qua Bắc Kì để lên đánh quân Tưởng Giới Thạch ở Vân Nam. Tổng số quân Nhật đồn trú trên đất Đông Dương không lúc nào được quá 25.000 người. 4. Sư đoàn quân Nhật ở Quảng Tây được quyền đi qua đồng bằng Bắc Kì để đi ra biển.


Mặc dù chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương chấp nhận những đòi hỏi của Nhật, vào lúc 22 giờ cùng ngày, Sư đoàn 5 Ngự lâm quân của Nhật do tướng Nakamura chỉ huy vượt biên giới Trung - Việt tấn công các vị trí quân Pháp ở Đồng Đăng và Lạng Sơn. Các vị trí quân Pháp ở Na Sầm, Đồng Đăng, Điểm He, Lộc Bình bị tiêu diệt. Ngày 24 – 9 quân Nhật tiến tới thị xã Lạng Sơn. Quân Pháp bỏ chạy về Đồng Mỏ, và ngày 25 – 9, kéo cờ trắng xin hàng.

Ngày 25 – 9 – 1940, ở một hướng khác, quân đoàn viễn chinh Đông Dương thuộc Pháp của Nhật do tướng Nishimura Takuma chỉ huy đổ bộ vào Đồ Sơn. Ngày hôm sau, 26 – 9, quân Nhật tiến vào chiếm đóng Hải Phòng không tốn một viên đạn.

Mặc dù quân Nhật đã làm chủ Bắc Đông Dương nhưng chúng vẫn chưa thỏa mãn. Ngày 14 – 7 – 1941, Nhật Bản đưa yêu sách cho Pháp đòi đưa quân vào Nam Đông Dương và được sử dụng ác sân bay, hải cảng ở khu vực này. Phía pháp đã chấp thuận.

Ngày 25 – 7 – 1941, một hạm đội Nhật gồm 4 chiến hạm, 12 tuần dương hạm thả neo ở Ô Cấp [Vũng Tàu].

Ngày 27 – 7 – 1941, tại Visi nước Pháp, đại diện của Nhật và Pháp kí hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương, với những điều khoản :

1. Pháp và Nhật cùng hợp tác quân sự trong việc phòng thủ chung Đông Dương.

2. Chính phủ Pháp đồng ý cho chính phủ Nhật những tiện nghi sau đây:

a. Gửi qua nam Đông Dương một số lượng bộ binh, hải quân, và không Nhật cần thiết. b. Sử dụng như căn cứ không quân 8 điểm như: Siemreap, Phnom-Pênh, Tourane [Đà Nẵng], Nha Trang, Biên Hòa, Sài Gòn, Sóc Trăng và Kompong Trach và căn cứ hải quân: Sài Gòn và Cam Ranh. c. Các đơn vị Nhật được toàn quyền thực tập và điều động không bị hạn chế bởi hiệp ước Nashihara – Martin [23 – 9 – 1940]. d. Chính phủ Pháp đồng ý cung cấp cho quân đội Nhật số tiền 23 triệu đồng trong tài khoản 1941, tức là 4,5 triệu đồng một tháng. Số tiền này sẽ được bồi hoàn, hoặc bằng “yên”, hoặc bằng mỹ kim hay vàng.


Ngày 28 – 7 – 1941, quân Nhật đổ bộ lên đất Sài Gòn. Đến cuối năm 1941 đã có 125.000 quân Nhật đóng trên đất Đông Dương và thực chất đã làm chủ Đông Dương, tuy trên danh nghĩa Đông Dương vẫn là thuộc địa của Pháp
Chính sách thống trị của phát xít Nhật ở Đông Dương
. Đông Dương đã bị biến thành căn cứ quân sự của Nhật để đánh chiếm toàn Đông Nam Á.

Về kinh tế, Nhật vẫn để hệ thống kinh tế của pháp ở Đông Dương tiếp tục hoạt động, nhưng nắm quyền điều khiển nó. Với Hiệp định Tôkiô ngày 6 – 5 – 1941, phía Pháp thừa nhận địa vị đặc biệt ưu đãi của Nhật trong các quan hệ kinh tế ở Đông Dương, thực chất là Nhật độc chiếm Đông Dương.

Nhật Bản yêu cầu chính quyền thực dân Pháp để 50% giá trị nhập khẩu và 15% giá trị xuất khẩu của Đông Dương cho các công ty thương mại cho Nhật. Ngoài ra, nhật còn mua của Đông Dương mănggan, apatit, crôm, thiết, càphê,…với giá rẻ so với thị trường thế giới.

Một số công ty của Nhật cũng đầu tư vào những ngành cần cho những ngành quân sự như khai khoáng. Năm 1941, tư bản Nhật ở Đông Dương chiếm gần 50% tổng số vốn đầu tư của các công ty nước ngoài. Tư bản Nhật đặt vốn khai thác quặng mănggan và sắt ở Thái Nguyên, phốt phát ở Lào Cai và quặng Crôm ở Thanh Hóa.

Nhật bắt chính quyền thực dân Pháp hàng năm nộp cho chúng một khoản tiền khá lớn. Năm 1940, nộp 6 triệu đồng, năm 1941 – 58 triệu đồng, năm 1942 – 86 triệu đồng, năm 1943 – 117 triệu đồng, năm 1945 – 90 triệu đồng. Trong 4 năm 6 tháng, chính quyền thực dân Pháp phải nộp một khoản tiền là 723.786 nghìn đồng

Về quân sự, Hiệp định ngày 29 – 7 – 1941 với danh nghĩa phòng thủ chung Đông Dương, quân Nhật được tự do di chuyển trên khắp lãnh thổ Đông Dương không hạn chế số lượng,… Hiệp định quân sự ngày 8 – 12 – 1941 nêu rõ chính quyền thực dân Pháp phải cung cấp các phương tiện chiến tranh, thiết lập các căn cứ quân sự, cung cấp vật chất cho quân đội Nhật. Chính quyền thực dân Pháp phải cam kết đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương, đảm bảo an ninh hậu phương cho quân Nhật.

Trong chiến tranh, việc giao thông vận tải có một vai trò quan trọng. Quân đội Nhật ở Đông Dương buộc Pháp phải để chúng sử dụng mọi phương tiện giao thông. Chúng kiểm soát hệ thống đường sắt, các tàu biển chở hàng có trọng tải 200.000 tấn đậu ở các cảng Đông Dương.

Quân Nhật còn cướp ruộng đất của nông dân để xây dựng trại lính, bắt nông dân nhổ lúa, ngô để trồng đay, thầu dầu để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh.

Về chính trị và tư tưởng, sau khi chiếm đóng Đông Dương, bọn quân phiệt Nhật không lật đổ chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương mà sử dụng nó như một công cụ với ba mục đích: Thứ nhất, để đàn áp phong trào cách mạng Đông Dương, giữ yên hậu phương cho quân đội Nhật; thứ hai, để vơ vét, bóc lột sức người, sức của ở Đông Dương để phục vụ cho cuộc chiến tranh của Nhật; thứ ba, để che dấu bộ mặt xâm lược của mình, đóng vai “người giải phóng” nhân dân Châu Á. Chính sách đó khác với chính sách bọn Nhật thi hành ở các nước Đông Nam Á vì lợi dụng được tình hình Chính phủ Pháp đã đầu hàng Đức.

Chính sách của quân phiệt Nhật đối với thực dân Pháp ở Đông Dương là chính sách hai mặt. Trong khi “cộng tác” với Pháp, Nhật Bản ra sức tuyên truyền tư tưởng Đại Đông Á, như mở các phòng thông tin, xuất bản tạp chí Tân Á bằng tiếng Việt, mở các cuộc triển lãm bằng tranh ảnh,… Đồng thời Nhật cũng chú trọng xây dựng cơ sở xã hội cho mình.

Từ năm 1942, Nhật đã hồi phục các tổ chức thân Nhật ở Việt Nam bị Pháp đàn áp trong những năm 1940 – 1941, như Phục Quốc, Cao Đài, Hòa Hảo,…giúp đỡ các nhóm Đại Việt dân chính, Đại Việt quốc xã, Đảng Việt nam ái quốc,…dựa vào nhóm này Nhật hy vọng lúc cần thiết sẽ lật đổ chính quyền thực dân Pháp. Với cuộc đảo chính ngày 9 – 3 – 1945, bọn thân Nhật càng hy vọng vào lời hứa hẹn Nhật sẽ trao trả độc lập cho Việt Nam. Hàng loạt đảng phái thân Nhật xuất hiện. Chỉ riêng Bắc Kì đã có hơn 30 tổ chức thân Nhật .

Bọn thực dân Pháp ở Đông Dương một mặt cam chịu khuất phục quân Nhật, phải thực hiện các yêu sách của Nhật, mặt khác ngấm ngầm chuẩn bị lực kượng chờ cơ hội lật lại. Chính sách của Pháp là tranh thủ giới thượng lưu Đông Dương và khuyến khích các nhóm hội thân Pháp hoạt động.

Dưới hai tầng áp bức của Nhật và Pháp, nhân dân Việt Nam càng bị bóc lột nặng nề hơn. Gánh nặng lương thực, tiền bạc Nhật bắt Pháp nộp lại đổ lên đầu nhân dân. Mức nộp này mỗi năm một tăng: năm 1941 là 558.000 tấn gạo, 58 triệu đồng; năm 1942 là 973.000 tấn gạo, 85 triệu đồng; năm 1943 là 1.023.470 tấn gạo, 117 triệu đồng; năm 1944 là 363 triệu đồng .Quân Nhật cướp ruộng đất xây dựng trại lính, bắt nông dân nhổ lúa trồng đay phục vụ nhu cầu chiến tranh. Tình trạng bóc lột nặng nề và kéo dài khiến xảy ra nạn đói đầu năm 1945, làm cho gần 2 triệu người chết đói ở miền Bắc.

Chính sách của Pháp nhằm tranh thủ giới thượng lưu ở Đông Dương, cho họ tham gia những chức vụ quản lí và thừa hành, ràng buộc họ trung thànhvới nước Pháp. Được dịp, các nhóm thân Pháp cũng hoạt động. Nhóm bảo hoàng Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi hô hào trở lại hiệp ước 1884, yêu cầu Pháp tăng quyền cho vua quản quan bản xứ để chống lại bọn thân Nhật. Nhóm Nguyễn Phan Long, Bùi Quang Chiêu, ra sức tuyên truyền khẩu hiệu “cách mạng quốc gia”, “Pháp - Việt phục hưng” của chính phủ phản động Pêtanh.

Nhận biết rõ ràng hoạt động của Pháp nhưng vẫn làm ngơ vì chưa đến lúc cần thiết phải hành động. Đến 3 – 1945, quân Nhật lâm vào tình trạng nguy ngập ở chiến trường Thái Bình Dương, Nhật làm đảo chính Pháp ở Đông dương để loại trừ mối hiểm họa. Từ ngày 9 – 3 – 1945, quân đội Nhật độc chiếm Đông Dương.

Chính sách thống trị và bóc lột của Pháp - Nhật khiến cho tình cảnh và đời sống các giai cấp, tầng lớp xã hội ở Đông Dương thay đổi sâu sắc.:

Giai cấp công nhân bị tước đoạt một số quyền nhân sinh, dân chủ đạt được trong thời kì Mặt trận dân chủ 1936 – 1939. Theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 10 – 4 – 1939, giờ làm việc của công nhân tăng từ 60 lên 78 giờ mỗi tuần. Tiền lương bị giảm. Một số công nhân bị sa thải hoặc thất nghiệp, một số bị động viên đi lính phục vụ cho chiến tranh.

Giai cấp nông dân bị sưu cao, thuế nặng. Ruộng đất của họ bị tước đoạt, tài sản bị vơ vét để phục vụ cho chiến tranh. Họ còn phải đi phu làm đường, đào kênh, xây dựng các công trình công cộng. Không chỉ bần, cố nông bị đói khổ, mà cả những tầng lớp khá giả như trung, phú nông cũng bị sa sút.

Tầng lớp tiểu tư sản : Nhiều tiểu thương, tiểu chủ bị phá sản, viên chức bị giảm lương, những người lao động trí óc như nhà văn, nhà báo không kiếm được việc làm.

Giai cấp tư sản dân tộc: Việc kinh doanh, sản xuất không tăng trưởng vì mức thuế cao của nhà nước thực dân và sức tiêu thụ hàng của dân giảm.

Giai cấp địa chủ: trừ một số ít đại địa chủ có thế lực chính trị, lợi dụng chiến tranh để làm giàu, còn địa chủ nhỏ và vừa cũng bị thiệt hại về chính sách thuế, thu thóc tạ, mua ngũ cốc rẻ của nhà nước.

Nhìn chung, các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam đều chịu những tác động xấu bởi chính sách bóc lột của Nhật, Pháp và bọn phong kiến. Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Pháp - Nhật, giữa nông dân với địa chủ phong kiến ngày càng gay gắt. Toàn thể nhân dân Việt Nam sẵn sàng đứng lên giành độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.

II. SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG.

1. Hội nghị Ban Chấp hành TW Đảng tháng 11 năm 1939:

Trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, ngày 6-11-1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu được triệu tập tại Bà Điểm [Hóc Môn, Gia Định], do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị phân tích tính chất của Chiến tranh thế giới thứ hai, vị trí của Đông Dương trong cuộc chiến tranh, những chính sách của thực dân Pháp, thái độ của các giai cấp xã hội và đề ra đường lối chính trị của cách mạng Đông Dương, cũng như quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.

Ngày 1 tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới nổ ra tại Châu Âu, một tuần sau, ngày 8 – 9 – 1939, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, Nguyễn Văn Cừ triệu tập Hội nghị Xứ ủy Bắc Kì tại làng Vạn Phúc, Hà Đông.

Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước đã thay đổi, Hội nghị đề cập tới việc tận dụng thời cơ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Tiếp đó, từ ngày mồng 6 đến ngày 8-11-1939, tại Bà Điểm, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định [cách Sài Gòn khoảng 20km], Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng] được triệu tập. Tham gia hội nghị có Tổng Bí thư Đảng Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn.

Dựa vào các phân tích những vấn đề cơ bản của cuộc chiến tranh đế quốc, chính sách của Liên Xô đối với chiến tranh, vị trí Đông Dương trong cuộc chiến tranh, chính sách của chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương, vị trí, thái độ của các giai cấp xã hội, các đảng phái chính trị, vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng Đông Dương…, Hội nghị đề ra đường lối đấu tranh vũ trang nhằm lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng của Đông Dương.

Về vấn đề dân tộc, Hội nghị nêu rõ: “Vấn đề dân tộc ở Đông Dương phải xét theo hai mặt: Một mặt là các dân tộc Đông Dương đoàn kết thống nhất đánh đổ đế quốc Pháp đòi Đông Dương hoàn toàn độc lập và các dân tộc được quyền tự quyết, một mặt nữa là các phong trào dân tộc giải phóng ở Đông Dương phải liên lạc khăng khít với cách mệnh thế giới [là một bộ phận của cách mệnh vô sản thế giới] để đánh đổ kẻ thù chung là tư bản đế quốc và xây dựng một thế giới không có dân tộc bị áp bức, không có ranh giới quốc gia và chia rẽ dân tộc, nghĩa là thế giới cộng sản.

“…Không có một dân tộc nào có thể giải phóng riêng rẽ vì Đông Dương ở dưới quyền thống trị duy nhất của đế quốc Pháp về mặt chính trị, kinh tế và binh bị. Không thể có một bộ phận nào thoát khỏi nền thống trị ấy mà chẳng liên quan đến cả toàn thể nền thống trị của đế quốc Pháp. Sự liên hiệp các dân tộc Đông Dương không nhất thiết bắt buộc các dân tộc phải thành lập một quốc gia duy nhất vì các dân tộc như Việt Nam, Miên, Lào xưa nay vẫn có sự độc lập. Mỗi dân tộc có quyền giải quyết vận mệnh theo ý muốn của mình, song sự tự quyết không nhất định là rời hẳn nhau ra”


Về tương quan lực lượng
:


a] Một bên là đế quốc Pháp cầm hết quyền kinh tế, chính trị, dựa vào bọn vua quan bổn xứ thối nát và bọn chó săn phản bội dân tộc.

b] Một bên là cả các dân tộc từ Việt Nam, Miên, Lào đến Thổ, Thượng, v.v..tất cả các giai cấp trừ bọn phong kiến và một số bộ phận phản động trong đám địa chủ và tư sản, tất cả các đảng phái, trừ bọn chó săn đế quốc phản bội quyền lợi dân tộc…”

Về mục tiêu trực tiếp của Cách mạng Đông Dương trong tình hình mới:

“Dưới đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống lại tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng dân tộc. Đế quốc Pháp còn, dân chúng Đông Dương chết, đế quốc Pháp chết, dân chúng Đông Dương còn" .

Về phương hướng chiến lược cách mạng: “…đứng trong tình thế khác ít nhiều với tình thế 1930-1931, chiến lược cách mệnh tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với tình thế mới. Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh tư sản dân quyền, không giải quyết được cách mệnh điền địa – cái nguyên tắc chính ấy không bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế nào mà để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc. Hiện tình hình có thay đổi mới. Đế quốc chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát xít thuộc địa đã đưa vấn đề dân tộc thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu địa chủ và tư bản bổn xứ cũng căm tức đế quốc. Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết .

Về hình thức tiến hành đấu tranh, Nghi quyết viết: “Phải biết xoay tất cả phong trào đấu tranh lẻ tẻ vào cuoậc đấu tranh chung, phản đối đế quốc chiến tranh, chống đế quốc Pháp và bè lũ, dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải phóng dân tộc.

Về mặt tổ chức, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp Hành Trung ương Đảng quyết nghị thành lập Mặt Trận Thống nhất phản đế Đông Dương, trong đó “lực lượng chính của Cách Mệnh là công nông”, “dưới quyền chỉ huy của vô sản giai cấp” [6;539-540]

Hội nghị đã đưa ra một cương lĩnh cụ thể của công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, gồm 14 điểm:

1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc ta.


2.Đông Dương hoản toàn độc lập [thi hành quyền dân tộc tự quyết].
3 .Lập Chính Phủ Liên bang Cộng hoà dân chủ Đông Dương.
4.Đánh đuổi hải, lục, không quân của đế quốc Pháp ra khỏi xứ, lập Quốc dân cách mạng quân.


5.Quốc hữu hoá những nhà hàng, các cơ quan vận tải, giao thông, các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất.


6.Tịch kí và quốc hữu hoá tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc, bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc.


7.Tịch kí và quốc hữu hoá đất ruộng của đế quốc thực dân, cố đạo và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, cố đạo, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nhân dân cày cấy.


8.Thi hành Luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ chia cho các hầm mỏ, luật xã hội bảo hiểm hoàn toàn, tiền hưu trí cho thợ, tìm công ăn việc làm cho thợ thất nghiệp, công việc ngang nhau đồng lương ngang nhau.


9. Bỏ tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. Lập nhà băng nông phố và bình dân ngân hàng.
11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, các quyền nghiệp đoàn, bãi công, phổ thông đầu phiếu.


12.Phổ thông giáo dục cưỡng bách.


13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế, chính trị.
14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao [6;541-542].


Tóm lại, với đường lối Cách mạng được đề ra tại Hội nghị lần 6 Ban Chấp Hành Trung ương Đảng, cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới – giai đoạn trực tiếp chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành độc lập dân tộc.

2. Hội nghị Ban Chấp hành TW lần 7 tháng 11 năm 1940.

Để ứng phó với tình hình mới [sự có mặt của phát xít Nhật ở Đông Dương], Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ bảy [ngày 6 đến 9-11-1940 tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh]. Hội nghị phân tích tình hình thế giới, tình hình Đông Dương, tình hình Đảng và các hội quần chúng, đưa ra đường lối cho cách mạng tương ứng với tình hình mới. Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Đảng tháng 11-1940 vạch rõ nguy cơ của các dân tộc Đông Dương bị "một cổ hai tròng". Kẻ thù chính của các dân tộc Đông Dương lúc này không chỉ là thực dân Pháp mà cả phát xít Nhật. Hai tên đế quốc này ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân để phục vụ cho chiến tranh. Do đó "một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy, Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mạng thiêng liêng, lãnh đạo các dân tộc bị áp bức Đông Dương, võ trang bạo động giành lấy quyền tự do, độc lập" Hội nghị đã thảo luận và quyết định hai vấn đề cấp thiết:

Thứ nhất, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang công tác vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân vừa phát triển cơ sở cách mạng tiến tới thành lập khu du kích, lấy vùng Bắc Sơn - Vũ Nhai làm trung tâm. Đảng cho rằng cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra ngày 27-9-1940 dù chỉ tồn tại trong một tháng và diễn ra trong phạm vi một huyện nhưng có ý nghĩa lịch sử lớn. Nó mở đầu cuộc đấu tranh vũ trang của các dân tộc Đông Dương thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ II, đồng thời qua cuộc khởi nghĩa này Đảng ta rút được bài học quý giá về đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa vũ trang và chọn thời cơ.

Thứ hai, quyết định đình chỉ việc chuẩn bị phát động khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ vì chưa có điều kiện bảo đảm thắng lợi. Chủ trương của Trung ương vừa truyền đạt đến Sài Gòn thì đêm 23-11-1940 cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ và bị thất bại. Tiếp đó, cuộc nổi dậy của binh lính yêu nước trong quân đội Pháp ngày 13-1-1941 do Đội Cung chỉ huy cũng bị dập tắt. Cả ba cuộc nổi dậy diễn ra ở ba miền Bắc - Trung - Nam tuy bị dập tắt, song đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của quần chúng cả nước, như“chim én nhỏ báo hiệu mùa xuân”.

3. Hội nghị Ban Chấp hành TW lần 8 tháng 5 năm 1941.

Đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bí mật trở về nước sau 30 năm Người ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Tháng 5-1941, thay mặt Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng. Hội nghị tiến hành từ ngày 10 đến 19-5-1941 tại khu rừng Khuổi Nậm, Pác Bó [Hà Quảng, Cao Bằng] do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì, với sự tham gia của Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, đại biểu xứ ủy Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Phân tích tình hình thế giới, Nghị quyết của hội nghị nhận định: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh đế quốc lần này, sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”. ội nghị đã ra nhiều quyết định quan trọng.

Một là tiếp tục đặt giải phóng dân tộc lên làm nhiệm vụ hàng đầu: Về tình hình Đông Dương, Hội nghị xác định rõ: “Khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương khỏi ách của giặc Pháp – Nhật”. Ban chấp hành Trung ương nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít Pháp - Nhật. Bởi “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung ương quyết định tạm gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày", thay bằng khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt Nan cho dân cày nghèo", "Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức"...

Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết tập hợp lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Ngày 19-5-1941, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh [gọi tắt là Việt Minh] thay cho Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương và đặt ra nhiệm vụ giúp đỡ các dân tộc Lào và Campuchia thành lập mặt trận của mình. Các tổ chức của Việt Minh sẽ là các Hội Cứu quốc. đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc [Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thiếu niên cứu quốc…] để vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.

Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại.

Hội nghị nhận định “cuộc cách mạng Đông Dương sẽ kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang” và “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương giành thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn” và quyết định sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp – Nhật “sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng 5 cánh làm cờ toàn quốc”, nhấn mạnh nhiệm vụ tăng cường đội ngũ của Đảng là lấy “vận động công nhân làm công việc đầu tiên trong việc tổ chức quần chúng của Đảng”…

Để đưa ra cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng. Ban Chấp hành Trung ương chỉ rõ: Việc "chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại". Trung ươg quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập những đội đu kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.

Hội nghị đã bầu ra Ban chấp hành Trung Đảng và cử Trường Chinh làm Tổng bí thư. Ban Thường vụ có thêm Hòang Văn Thụ và Hoàng Quốc Việt.

Hội nghị lần 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh đường lối đấu tranh mới của Đảng được nêu ra ở Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương [tháng 11 -1939].Đó là đặt nhiệm vụ giải hpóng dân tộc lên hàng đầu, đoàn kết rộng rãi mọi lực lượng yêu nước trong Mặt Trận Việt Minh, xây dựng lực lượng quần chúng ở cả nông thôn và thành thị; tiến tới xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang; tích cực chuẩn bị lực lượng mọi mặt đón thời cơ khởi nghĩa giành độc lập.


III.
QUÁ TRÌNH CHUẨN CHO TỔNG KHỞI NGHĨA VŨ TRANG GIÀNH CHÍNH QUYỀN.

Quá trình chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa vũ trang gồm chuẩn bị về lực lượng chính trị, vũ trang, căn cứ địa cách mạng.

1. Xây dựng lực lượng chính trị.

Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám [5/1941] đã xác định lực lượng cách mạng của ta bao gồm: Tiền phong quân chính là giai cấp vô sản trong nước; đội quân hậu bị trực tiếp: trong nước gồm nông dân và các tầng lớp nhân dân, ngoài nước: cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa và cuộc cách mạng của nhân dân ở chính quốc… Đồng thời Hội nghị cũng nhấn mạnh nếu không có lực lượng cách mạng [bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang] hùng hậu thì không thể có khởi nghĩa thắng lợi, chúng ta phải dựa trên sức ta mà giải phóng cho ta. Quán triệt sâu sắc quan điểm trên Đảng ta đã tích cực bắt tay vào xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang vững mạnh để chuẩn bị cho khởi nghĩa. Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng và các chỉ thị tiếp theo, các cấp bộ đảng và Mặt trận Việt Minh đã tích cực xây dựng tổ chức đảng và các tổ chức cứu quốc của quần chúng, phát triển lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh của quần chúng ở cả nông thôn và đô thị, xây dựng các căn cứ địa cách mạng, tiến hành vũ trang cho quần chúng cách mạng, củng cố và phát triển lực lượng du kích.

Ngày 19 – 5 – 1941, Việt Nam Độc lập đồng minh ra đời. Ngày 25-10-1941 Việt Minh công bố tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ. Tuyên ngôn nêu rõ: “Từ khi lập quốc, xét lịch sử nước ta, chưa bao giờ dân tộc ta nhục nhằn, đau khổ như lúc này.Nguy cơ diệt vong đã bày ra trước mắt. Hiện thời, chúng ta chỉ có một con đường mưu sống là đoàn kết thống nhất, đánh đuổi Nhật, Pháp, trừ khử Việt gian.

Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điểm, bao gồm các chính sách về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhắm thực hiện hai điều cốt yếu mà quốc dân đồng bào đang mong ước là:

“1.Làm cho dân Việt Nam được hoàn toàn độc lập. 2. Làm cho dân tộc Việt Nam được sung sướng, tự do”.

Chương trình cứu nước của Việt Minh sau khi được đúc kết thành 10 chính sách lớn đem thực hiện ở Khu giải phóng Việt Bắc và được Đại hội Quốc dân ở Tân Trào thông qua tháng 8-1945, trở thành chính sách cơ bản sau này của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Công tác tuyên truyền, vận động được tiến hành dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng như truyền đơn, ca dao, hò vè…nhất là xuất bản báo chí Cách mạng.

Tại Cao Bằng, Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp phụ trách báo “Việt Nam độc lập” [gọi tắt là “Việt Lập” – cơ quan tuyên truyền của Mặt trận Việt Minh. Ngày 1 – 8 – 1941, báo “Việt Lập” là vũ khí sắc bén của Mặt Trận Việt Minh trong cuộc vận động giải phóng dân tộc, góp phần giáo dục, động viên quần chúng hăng hái tham gia các tổ chức cứu quốc.

Ngày 25 – 1 – 1942, Tổng bộ Việt Minh xuất bản báo Cứu quốc – cơ quan tuyên truyền đường lối, chính sách của Mặt Trận Việt Minh.

Từ cuối năm 1941, ở Cao Bằng đã có những xã, tổng toàn dân tham gia Việt Minh [gọi là “xã hoàn toàn”, “tổng hoàn toàn”]. Đến cuối năm 1942, Cao Bằng có 3/9 châu là Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Binh, trở thành “châu hoàn toàn”.Ở những nơi này, bộ máy chính quyền địch chỉ tồn tại về mặt hình thức, còn thực tế quyền hành do Việt Minh nắm giữ. Phong trào Việt Minh, phát triển từ Cao Bằng, đến các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên.

Mặt trận Việt Minh với 3 hình thức cơ bản là Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốx, Nông dân cứu quốc còn được xây dựng ở các tỉnh đồng bằng, ở nông thôn và thành thị, như Hà Đông, Hà Nội, Hà Nam, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Phú Thọ, Sơn Tây, Phúc Yên, Hoà Bình [Bắc Kì], Thanh Hoá, Quảng Bình [Trung Kì].

Chủ trương của Mặt trận Việt Minh cũng đến được số bộ phận đảng viên còn lại ở Nam Kì. Vì vậy, ở một số nơi thuộc ngoại thành Sài Gòn, vùng Bà Điểm, Hoóc Môn [Gia Định], Đức Hoà [Chợ Lớn], Lái Thiêu [Thủ Dầu Một] đã xuất hiện cơ sở của Việt Minh.

Một số nơi ở Nam Kì do chưa nhận được chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, cán bộ Đảng và quần chúng yêu nước đã lập ra tổ chức quần chúng với các hình thức, như “Nhóm công nhân nòng cốt”, “Hội đá banh”, “Hội đổi công”, “Hội tương tế”. Những tổ chức này đã góp phần vào việc bảo vệ cán bộ, đảng viên, giữ vững tinh thần cho quần chúng trong hoàn cảnh bị khủng bố trắng.

Sau khi đã tập hợp được đông đảo quần chúng vào mặt trận Việt Minh, hướng tiếp theo của Đảng là đưa quần chúng đấu tranh với các hình thức thích hợp. Thông qua mặt trận Việt Minh, các cấp ủy đảng địa phương đã lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân, trên khắp các địa bàn và ngay cả trung tâm kinh tế chính trị của địch. Đó là các cuộc đấu tranh của công nhân bến tàu Sài Gòn, công nhân Hòn Gai, nông dân Thái Bình, công nhân nhà máy xe lửa Gia Lâm… nổi bật nhất trong thời kỳ này là phong trào phá kho thóc để cứu đói cho nhân dân. Các cuộc đấu tranh tạo nên khí thế cách mạng mạnh mẽ, thí thế của ngày khởi nghĩa sắp đến gần.

Từ năm 1943 đến 1945, phong trào cách mạng phát triển ngày càng mạnh và đều khắp. Ở Bắc Kỳ, hầu hết các đảng bộ địa phương đã lãnh đạo xây dựng được các tổ chức cứu quốc ở hầu khắp các vùng ở nông thôn và đô thị. Tại Hà Nội, tổ chức Việt Minh được thành lập trong nhiều nhà máy, trường học, đường phố. Nhiều cuộc bãi công đòi tăng lương của công nhân đã nổ ra ở Hà Nội, Hải Phòng, Uông Bí, Nam Định... Phong trào đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu, chống bắt phu, bắt lính, chống thu thóc tạ... lôi cuốn nông dân tham gia ngày càng đông đảo. Phong trào Việt Minh ở các tỉnh miền Trung cũng trên đà phát triển mạnh trong nông dân, công nhân, dân nghèo thành thị...

Ở Nam Kỳ, phong trào cách mạng phục hồi, hệ thống tổ chức đảng được xây dựng lại ở nhiều địa phương. Tổ chức Việt Minh đã có cơ sở ở Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh. Hàng chục cuộc đấu tranh của công nhân đã nổ ra tại Sài Gòn.

Phong trào thanh niên, học sinh, trí thức ở thành phố bắt đầu phát triển khiến cho bọn đế quốc phátxít Pháp-Nhật lo sợ. Bên cạnh thủ đoạn bạo lực đàn áp, chúng tích cực dùng nhiều thủ đoạn chính trị, văn hóa rất xảo quyệt để ngăn chặn phong trào thanh niên, trí thức. Phátxít Nhật ra sức tuyên truyền thuyết "Đại Đông Á", thuyết "Khu vực thịnh vượng chung". Chúng mở trường dạy tiếng Nhật, tổ chức triển lãm, chiếu phim, phát hành báo chí gây tâm lý sợ Nhật và phục Nhật.

Đảng đã đẩy mạnh hoạt động chống lại những nọc độc văn hóa tư tưởng phản động của Pháp-Nhật và tay sai, tuyên truyền đường lối cứu nước của Đảng, cổ vũ quần chúng lên trận tuyến cách mạng. Báo chí cách mạng là một vũ khí sắc bén trong công tác này. Đảng và Việt Minh cho xuất bản các báo: Giải phóng, Cờ giải phóng, Chặt xiềng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Tiền phong, Kèn gọi lính, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập, v.v.. Trong các nhà tù các chiến sĩ cách mạng cũng cho ra báo Suối reo [Sơn La], Bình Minh [Hòa Bình], Thông reo [Chợ Chu], Dòng sông Công [Bá Vân]...

Trên văn đàn công khai lúc đó xuất hiện xu hướng cải lương, bi quan, yếm thế. Một số tác phẩm tiến bộ, thể hiện tinh thần yêu nước, nhưng chưa có phương hướng đấu tranh rõ rệt. Đảng chủ trương phái cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa để gây một phong trào văn hóa tiến bộ, sử dụng các hình thức công khai hoặc nửa công khai để tập hợp các nhà hoạt động văn hóa, văn nghệ...

Năm 1943, Đảng đưa ra bản Đề cương văn hóa Việt Nam. Bản đề cương khẳng định văn hóa là một trong ba mặt trận cách mạng do Đảng lãnh đạo. Nhiệm vụ của các nhà văn hóa yêu nước và cách mạng là phải chống lại văn hóa nô dịch, ngu dân của bọn phátxít và tay sai, tiến tới xây dựng trong tương lai một nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng.

Cuối năm 1944, Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời, thu hút trí thức và các nhà hoạt động văn hóa vào trận tuyến đấu tranh vì một nền văn hóa mới, vì sự nghiệp chống Pháp-Nhật, giành độc lập, tự do.

Đảng vận động và giúp đỡ một số sinh viên, trí thức yêu nước và tiến bộ thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam [tháng 6-1944], một chính đảng của tư sản dân tộc và trí thức yêu nước, tiến bộ. Đảng này tham gia Mặt trận Việt Minh và tích cực hoạt động, góp phần mở rộng thêm khối đại đoàn kết dân tộc, làm thất bại âm mưu chia rẽ và lôi kéo tư sản dân tộc và trí thức của phátxít Nhật và tay sai.

Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh lính người Việt, lính Pháp và lê dương. Từ Trung ương đến các địa phương đều có tổ chức ban binh vận. Đảng đã cử người liên lạc với những người thuộc phái tả của Đảng Xã hội Pháp trong quân đội lê dương, trong công chức Pháp ở Việt Nam và cả những người Pháp thuộc phái Đờ Gôn ở Đông Dương để thực hiện một liên minh chống phátxít. Song do bản chất thực dân ngoan cố và sợ Nhật của những người theo phái Đờ Gôn nên chủ trương liên minh đó của Đảng không có kết quả.

2. Quá trình chuẩn bị về lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.

Cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị, Trung ương Đảng và Nguyễn Ái Quốc quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.

Ngay từ Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng [11 – 1940], Đảng ta chủ trương phát triển Đội du kích Bắc Sơn làm vốn quân sự lâu dài của Đảng. Thực hiện chủ trương của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung Ương Đảng, Hoàng Văn Thụ đã tổ chức một cuộc họp với Ban chỉ huy Đội du kích Bắc Sơn thành Cứu quốc quân, làm lực lượng nòng cốt xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai.

Đội cứu quốc quân vừa tích cực chiến đấu, mở rộng địa bàn hoạt động,vừa phát triển lực lượng, chuẩn bị cho ngày lễ thành lập chính thức Cứu quốc quân.
Ngày 1 – 5 – 1941, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức trọng thể tại Khuổi Nọi [xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn] kỉ niệm ngày Quốc tế lao động, đồng thời làm lễ ra mắt “Đệ nhất trung đội du kích Bắc Sơn”.Tham gia mít tinh có đông đảo quần chúng cách mạng thuộc nhiều dân tộc.

Sau hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung Ương Đảng, “Đệ nhất Trung đội đội du kích Bắc Sơn” đổi tên thành “Trung đội cứu quốc quân I”.

Trung đội cứu quốc quân I lúc đầu có 32 cán bộ, chiến sĩ, gồm con em các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Kinh. Đây là đơn vị vũ trang chính quy đầu tiên của Đảng, ra đời trong phong trào quần chúng. Ngay sau khi thành lập, Trung đội Cứu quốc quân I vừa tổ chức huấn luyện, vừa tham gia những hoạt động quân sự nhằm chống khủng bố, bảo vệ dân, bảo vệ căn cứ Cách mạng.

Giữa năm 1941, thực dân Pháp huy động một lực lượng gồm 4.000 quân mở cuộc càn quét vùng Bắc Sơn – Vũ Nhai với âm mưu tiêu diệt Cứu quốc quân, phá phong trào cách mạng. Trung đội Cứu quốc quân I bám đất, bám dân, kiên trì chiến đấu. Sau 8 tháng chiến đấu gian khổ [từ tháng 7-1941đến tháng 2-1942], một bộ phận Cứu quốc quân vượt vòng vây địch, rút lên biên giới Việt-Trung. Trên đường rút, Cứu quốc quân bị địch phục kích đã bị tổn thất lớn. Bộ phận Cứu quốc quân còn lại hoạt động phân tán trong dân, gây dựng cơ sở chính trị, phát triển lực lượng.

Ngày 15 – 9 – 1941, Trung đội Cứu quốc quân II được thành lập tại rừng Khuôn Máy [xã Tràng Xá, châu Vũ Nhai]. Trung đội cứu quốc quân II lúc đầu có 47 chiến sĩ chia thành 5 tiểu đội. Sau khi thành lập, Ban chỉ huy Cứu quốc quân II đã phân công các đơn vị đến các địa phương đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống địch khủng bố. Mục tiêu chiến đấu của Cứu quốc quân lúc này là tiêu diệt những tên mật thám đầu sỏ, phá các cuộc hành quân càng quét của địch. Địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn.

Cuối tháng 10 – 1941, thực hiện chỉ thị Trung ương về việc kiện toàn lực lượng chiến đấu lâu dài, Cứu quốc quân rút vào rừng sâu để chấn chỉnh đội ngũ.Lúc này toàn độicó khoảng 60 người, phiên chế thành 7 tiểu đội. Sau đó, toàn Đội bước vào học tập đường lối, chính sách của Đảng, Chương trình và Điều lệ Việt Minh, cách tổ chức các Hội Cứu Quốc, học chiến thuật du kích, các động tác quân sự cơ bản, học 10 điều kỉ luật và 5 lời thề của Đội. Cứu quốc quân ra tờ báo Bắc Sơn, in bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán, chữ Pháp để giáo dục trong nội bộ và làm tài liệu tuyên truyền trong quần chúng.

Ở Nam Kì, sau cuộc khởi nghĩa 23 – 11 – 1940, những Đảng viên còn lại lãnh đạo các đội ngũ quân tiếp tục hoạt động diệt ác, trừ gian, tuyên truyền Cách mạng.

Tại vùng Đồng Tháp Mười, các đội nghĩa quân của các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Tân An rút vào Mương Xanh, Kinh Bo Bo, hoạt động trong một khu vực rộng lớn nằm giữa hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây.

Ở vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ Tây, lực lượng du kích Mĩ Tho với hơn 100 đội viên vẫn hoạt động ở Phú Mĩ, Tân Hoà Thành, Tân Thạch Mĩ…Du kích đã diệt nhiều tên tay sai, chỉ điểm cho giặc.

Đến giữa năm 1942, địch tập trung càn quét, hoạt động của du kích đã tạm dừng.

Tại vùng Lạc An [Tân Uyên, Biên Hoà], một đội vũ trang đã rút vào rừng thực hiện chiến tranh du kích.

Những hoạt động của các đội du kích trên tiêu biểu cho tinh thần anh dũng, bất khuất của các Đảng viên và nhân dân Nam Kì.Trong lời kêu gọi đồng bào, các Đảng phái cách mạng và các dân tộc bị áp bức Đông Dương, Trung Ương Đảng đã viết “Những đội du kích Nam Kì rút vào rừng sâu,sau cuộc khởi nghĩa cuối năm ngoái cũng vẫn chiến đấu không ngớt”.Thông báo “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng”, ngày 21-12-1941, Trung ương kêu gọi: Đối với những bộ đội du kích Bắc Sơn, Nam Kì […], các đảng bộ cần phải xem xét những điều kiện có thể mở rộng những bộ đội ấy, gây thêm những bộ đội mới để mở rộng du kích chiến tranh. Đồng thời phải gia tăng việc cổ động ủng hộ các bộ đội du kích về mọi phương diện.

Về phía trung tâm Cao Bằng, phong trào Việt Minh phát triển mạnh mẽ. Khu căn cứ được mở rộng sang các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Các đoàn xung phong Nam tiến hoạt động mạnh, phát triển cơ sở chính trị quần chúng trong các dân tộc thiểu số, đánh thông đường liên lạc bằng một hành lang chính trị nối liền hai khu căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn-Võ Nhai [cuối năm 1943], chuẩn bị cho sự ra đời khu giải phóng Việt Bắc về sau.

Đồng thời với việc xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang. Trung ương Đảng và Nguyễn Ái Quốc còn đẩy mạnh xây dựng căn cứ địa. Sau Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương, nhiều cán bộ được cử đến tăng cường cho Bắc Sơn. Khi các Trung Đội cứu quốc quân ra đời, khu căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai được củng cố và mở rộng. Từ tháng 4-1941, một vùng núi hiểm trở, rộng lớn thuộc các xã Vũ Lễ, Vũ Lăng, Ngư Viên [châu Bắc Sơn], Lán Thượng, Tràng Xá [châu Vũ Nhai] được nối liền với nhau, trở thành khu trung tâm của căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai, trong đó vùng Khuổi Nọi [thuộc xã Vũ Lễ] là trung tâm chính.

Vùng Khuồi Nọi được cứu quốc quân cùng lực lượng tự vệ tổ chức canh phòng, bảo vệ chặt chẽ. Trên các ngả đường vào khu vực này đều được canh gác.Ở khu trung tâm căn cứ địa, phong trào quần chúng diễn ra công khai. Trật tự trị an các làng bản được bảo đảm. Mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc ở đây đều hăng hái ủng hộ cách mạng. Các lớp huấn luyện quân sự, chính trị của Xứ uỷ Bắc Kì được tổ chức ở Khuổi Nọi đã đào tạo nhiều cán bộ cho căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai và cho cá tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang. Một trong những công việc quan trọng trong khu căn cứ địa là xây dựng các đoàn thể Cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh và phong trào quần chúng, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.

Tháng 10-1941, đội du kích tập trung đầu tiên của Cao Bằng được thành lập gồm 13 người. Nhiệm vụ của đội là bảo vệ cơ quan Đảng, bảo vệ cán bộ, xây dựng cơ sở cho lực lượng tự vệ, thực hiện công tác đặc biệt, giao thông liên lạc. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương và Nguyễn Ái Quốc, căn cứ địa Cao Bằng đã hình thành và từng bước phát triển vững chắc, trở thành một trung tâm lãnh đạo phong trào cách mạng của cả nước.

Một công tác quan trọng nữa của Trung ương Đảng thực hiện trong thời gian này là xây dựng các khu an toàn ở Hà Nội – cơ quan đầu não của địch. Từ đầu năm 1942, ban thường vụ Trung ương lập các khu an toàn ở Đông Anh, Yên Lãng [Phúc Yên], Từ Sơn, Gia Lâm [Bắc ninh], Hoài Đức [Hà Đông]. Các khu an toàn này cách Hà Nội từ 10 đến 20km, sau đó Trung ương còn xây dựng các khu an toàn dự bị ở Hiệp Hòa [Bắc Giang], Phổ Yên, Phú Bình [Thái Nguyên]. Cơ quan đầu não của Đảng chuyển về xuôi. Ban thường vụ Trung ương bám sát Hà Nội theo dõi phong trào chung và chỉ đạo toàn Đảng.


Sang năm 1943, tình hình thế giới có những chuyển biến lớn. Hồng quân Liên Xô chiến thắngở Xtalingrat, đánh dấu bước ngoặt căn bản của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô.
Mùa hè năm 1945, quân đội Xô Viết đập tan cuộc phản công của Hitle vòng cung ở cuôcxơ. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô cổ vũ manh mẽ phong trào giải phóng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.

Đầu năm 1943, cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới. Những thay đổi của tình hình thế giới và trong nước đòi hỏi Đảng ta phải có chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

Từ ngày 25 đến 28-2-1943, Ban thường vụ Trung ương họp ở Võng La [Đông Anh, Phúc Yên] bàn việc mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Về cuộc chiến tranh thế giới, Hội nghị nhận định: “Năm 1943 này là năm phe dân chủ sẽ đánh phe phát xít một cách quyết liệt hơn để sửa soạn điều kiện cho bước thắng lợi cuối cùng. Dưới sức thúc đẩy mạnh mẽ của nhân dân, Anh – Mỹ sẽ phải đánh vào Âu lục, mặt trận thứ hai sẽ phải mở. Đó là lúc Liên Xô tổng phản công đuỏi hẳn quân Trục ra khỏi nước, phe dân chủ sẽ thừa thắng phản công Trục bên Viễn Đông.

Chiến tranh còn kéo dài. Nhưng những thắng lợi của Liên Xô, sự tan rã của phát xít quốc tế và sự cùng khổ của nhân dân các nước phát xít sẽ thúc đẩy cho cách mạng các nước bùng nổ trong nhiều nước”.

Về đặc điểm của phong trào cách mạng Đông Dương, Hội nghị nhận định:

1. Ở Đông Dương, Đảng cộng sản, chính đảng cách mạng của thợ thuyền, là Đảng duy nhất lãnh đạo phong trào cách mạng. song những cuộc đấu tranh của thợ thuyền lại không được mạnh mẽ và rộng rãi xứng đáng với vai trò lãnh đạo ấy.

2. Với Đông Dương hiện nay thiếu một phong trào cách mạng quốc gia tư sản và phong trào thanh niên học sinh. Do đó, cuộc vận động cách mạng ở Đông Dương vẫn hẹp hòi, có tính cách công nông hơn là tính cách toàn dân tộc.

3. Phong trào quần chúng đấu tranh hàng ngày tuy không bao gồm những hình thức biểu tình thị uy, tổng bãi công…nhưng trái lại có nhiều cuộc tranh đấu vũ trang có tính cách du kích và khởi nghĩa. Nhân dân Đông Dương cực khổ dưới hai tầng áp bức, lai được tình hình thế giới kích thích, nên phong trào cách mnạg Đông Dương có thể bổng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao.[7;290]

Vì vậy, Đảng phải xúc tiến hơn nữa công việc khởi nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương, coi việc “chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại”.

Hội nghị vạch ra một kế hoạch cụ thể về công việc chuẩn bị toàn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang, như tổ chức huần luyện các đội tự vệ, các tiểu tổ du kích, phổ biến kinh nghiệm về khởi nghĩa và chiến tranh du kích qua sách báo và các lớp huấn luyện.

Nghị quyết cũng nêu rõ phải đưa quần chúng ra đấu tranh chống Nhật – Pháp áp bức, bốc lột, tăng thuế, phá hoại hoa màu…Qua đó, rèn luỵện tập dượt họ.
Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng cách mạng ở thành thị, vận động công nhân tham gia khởi nghĩa.

Thực hiện nghị quyết Hội nghị, trong các năm 1943 – 1944, ở Bắc Kì các đoàn thể Việt Minh được xây dựng và củng cố cả ở nông thôn và thành thị. Ở Hà Nội, tồ chức Việt Minh được thành lập trong nhiều nhà máy, trường học, khu phố, nhu nhà máy xe lửa Gia Lâm, nhà máy sửa chữa ô tô Avia, xưởng đóng tàu, trường Bưởi, trường Gia Long, trường kĩ nghệ thực hành…nhiều cuộc bãi công đòi tăng lương của công nhân nổ ra ở Hà Nội, Hải Phòng, uông bí, nam định, việt trì…

Nông dân các tỉnh đồng bằng Bắc Kì đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu, chồng cướp thóc, cướp đất…Tổ chức Việt Minh đã phát triển ở hầu khắp các huyện.

Ở Bắc Sơn – Vũ Nhai, cứu quốc quân hoạt động mạnh mẽ gây cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ ra nhiều huyện thuộc các tỉnh Thái Nguyên, tuyên quang, vĩnh yên, phú thọ, bắc ninh, Bắc Giang…Trong quá trình đó, lực lượng cứu quốc quân phát triển thêm một trung đội nữa – Trung đội cứu quốc quân III. Ngày 25 – 2 – 1944, lễ thành lập trung đội cứu quốc quân III được tổ chức trọng thể tại khu rừng Khuổi Kịch [Sơn Dương, Tuyên Quang]. Trung đội có 30 cán bộ, chiến sĩ.

Ở Cao Bằng, khắp nơi trong tỉnh sôi nổi chuẩn bị khởi nghĩa, thành lập thêm các đội tự vệ vũ trang, đội du kích, mở liên tiếp các lớp huấn luyện quân sự, chính trị…Khu căn cứ được mở rộng ra các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn.
Năm 1943, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng cử ra 19 đội xung phong “Nam tiến” gặp đội “Bắc tiến” của cứu quốc quân ở chợ Đồn [Bắc cạn]. hai trung tâm căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai đã được nối liền với nhau bằng một hành lang chính trị, những căn cứ liên đoàn.

Để đẩy mạnh hơn nữa việc kởi nghĩa, ngày 7 – 5 – 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”.

Ngày 10 – 8 – 1944, kêu gọi toàn dân “sắm vũ khí, đuổi thù chung”.

Đáp lại kêu gọi của Đảng và Việt Minh, nhân dân khắp nơi góp tiền mua vũ khí, ra sức huấn luyện quân sự, củng cố và phát triển đội tự vệ.

Tháng 10 – 1944, thực dân Pháp mở cuộc càn quét lớn vào vùng Vũ Nhai [Thái Nguyên]. Cấp ủy Đảng địa phương phát động quần chúng khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa nổ ra khi chưa có thời cơ, làm cho lực lượng cách mạng bộc lộ sớm, bị cô lập và tổn thất lớn. thường vụ Trung ương Đảng đã nghiêm khắc phê bình lãnh đạo Đảng bộ địa phương và kịp thời chỉ thị chuyển hướng hoạt động để bảo toàn lực lượng.

Cũng trong thời gian này, liên tỉnh ủy Cao – Bắc – Lạng chủ trương phát động chiến tranh du kích trong phạm vi 3 tỉnh. Khi công việc chuẩn bị nổi dậy hoàn thành, Hồ Chí Minh từ trung quốc trở lại Cao Bằng, đã quyết định hoãn, vì kế hoạch đó “mới chỉ căn cứ vào tình hình địa phương mà chưa căn cứ vào tình hình cụ thể trong cả nước, mới chỉ thấy bộ phận mà chưa thấy toàn cục".

Hồ Chí Minh đã nhận định: “bây giờ thời kì cách mạng hòa bình đã qua, nhưng thời kì toàn dân khởi nghĩa chưa tới. nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị không đủ để đấy mạnh phong trào đi tới. nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ pahỉ từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới có thế đấy manh phong trào tiến lên.

Người và Trung ương Đảng ra “Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền Giải Phóng quân”. Nó là đội quân tuyên truyền, nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Đội có nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, vận động nhân dân nổi dậy, gây dựng cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sắp tới.

Thực hiện chỉ thị này, ngày 22 – 12 1944, Võ Nguyên Giáp đứng ra thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân trong khu rừng Sau Cạo nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám [thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng] Sau ngày thành lập, Đội xuất quân giành được chiến thắng đầu tiên, tiêu diệt gọn hai đồn Phay Khắt và Nà Ngần [Cao Bằng] trong hai ngày 25 và 26 – 12 – 1944.

III. KHỞI NGHĨA VŨ TRANG GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ HOÀN THIỆN QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ CỦA ĐẢNG CHO TỔNG KHỞI NGHĨA.

1. Cao trào kháng Nhật cứu nước và gấp rút chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền [tháng 3-1945 đến giữa tháng 8-1945].

a. Cao trào kháng Nhật cứu nước [tháng 3-1945 đến giữa tháng 8-1945].

* Nguyên nhân.

- Bối cảnh lịch sử:

Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô đang truy kích phátxít Đức trên chiến trường châu Âu, giải phóng nhiều nước ở Đông Âu và tiến như vũ bão về phía Béclin. Số phận của phátxít Đức sắp kết liễu. Ở Tây Âu, Anh - Mỹ đã mở mặt trận thứ hai, đổ quân lên đất Pháp và tiến về phía Tây nước Đức quốc xã. Công nhân Pari nổi dậy, nước Pháp được giải phóng, Chính phủ Đờ Gôn về Pari.

Ở mặt trận Thái Bình Dương, phát xít Nhật cũng rất nguy khốn. Quân Anh đánh lùi quân Nhật ở Miến Điện. Quân Mỹ đổ bộ lên Philíppin. Đường biển đến các căn cứ ở Đông Nam Á của Nhật bị quân Đồng minh khống chế. Sống chết Nhật cũng phải giữ lấy con đường bộ duy nhất nối liền từ Mãn Châu xuyên qua Đông Dương xuống Đông Nam Á. Nhật rất lo sợ về việc quân Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương, cắt quân Nhật trên lục địa Viễn Đông thành hai khúc.

Lực lượng thực dân Pháp theo phái Đờ Gôn ở Đông Dương ngóc đầu dậy, hoạt động ráo riết, chuẩn bị đón thời cơ khi quân Đồng minh đổ bộ lên Đông Dương sẽ đánh Nhật nhằm khôi phục lại quyền thống trị của chúng trên bán đảo này. Mâu thuẫn đối kháng giữa Nhật và Pháp ở Đông Dương càng trở nên gay gắt. "Cả hai quân thù Nhật- Pháp đều đang sửa soạn tiến tới chỗ tao sống mày chết, quyết liệt cùng nhau"

Tình thế thất bại của phátxít Nhật ở Thái Bình Dương buộc chúng phải làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương và trừ mối họa bị quân Pháp đánh vào sau lưng khi quân Đồng minh đổ bộ lên Đông Dương, đồng thời giữ cầu nối liền các thuộc địa của chúng. Ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng, lật đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Quân Pháp chống cự rất yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng.

- Chủ trương của Đảng.

Dự đoán trước tình hình Nhật sắp sửa lật Pháp ở Đông Dương, Tổng Bí thư Trường Chinh triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại làng Đình Bảng [Từ Sơn, Bắc Ninh], ngay trước lúc Nhật nổ súng. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Toàn bộ những nhận định cơ bản về tình hình và chủ trương mới của Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng được thể hiện tập trung trong bản Chỉ thị lịch sử đó.

Bản chỉ thị nhận định rằng cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi [chính trị khủng hoảng do cuộc đảo chính gây ra, nạn đói ghê gớm và chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt].

Chỉ thị xác định kẻ thù cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương sau cuộc đảo chính là phátxít Nhật, vì vậy phải thay khẩu hiệu "đánh đuổi phátxít Nhật-Pháp" bằng khẩu hiệu "đánh đuổi phátxít Nhật" và đưa ra khẩu hiệu "thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương" để chống lại chính phủ bù nhìn Việt gian thân Nhật.

Chỉ thị chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa nhằm động viên mau chóng quần chúng lên trận địa cách mạng, tập dượt quần chúng tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Muốn vậy, phải thực hiện những hình thức tuyên truyền và đấu tranh cao hơn và mạnh bạo hơn như tuyên truyền xung phong có vũ trang, biểu tình tuần hành thị uy, bãi công chính trị, tổ chức quần chúng đánh phá các kho thóc để giải quyết nạn đói, đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc, tổ chức bộ đội, du kích, thành lập căn cứ địa cách mạng, phát động du kích chiến tranh ở những nơi có điều kiện.

Phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa. Đó là phương pháp duy nhất của dân tộc để đóng vai trò chủ động trong việc đánh đuổi quân Nhật và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi có đủ điều kiện.

Chỉ thị cũng dự kiến những hoàn cảnh thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa như khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật đã bám chắc, tiến sâu trên đất ta và quân Nhật đã kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần. Chỉ thị còn nêu rõ rằng, dù sao ta vẫn không được ỷ lại vào người và tự bó tay mình trong khi tình thế biến chuyển thuận lợi, mà phải nêu cao tinh thần dựa vào sức mình là chính.

Bản chỉ thị ngày 12 -3-1945 thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của Đảng. Đó là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh với khẩu hiệu "Đánh đuổi phátxít Nhật" thay cho khẩu hiệu "Đánh đuổi Nhật, Pháp" trong cao trào kháng Nhật, cứu nước, trực tiếp dẫn đến thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

*. Diễn biến cao trào:

Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội dung và hình thức.

Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều nơi ở vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.

Ở Bắc Giang, quần chúng nổi dậy thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng ở nhiều làng. Chính quyền cách mạng tịch thu ruộng đất thuộc đồn điền Táctaranh [Tartarin], chia cho nông dân nghèo và những gia đình có công với cách mạng. Đội du kích Bắc Giang được thành lập. Ở Hưng Yên, đội tự vệ chiến đấu đánh chiếm đồn Bần, thu toàn bộ vũ khí của địch. Ở Quảng Ngãi, cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Ba Tơ. Đội du kích Ba Tơ được thành lập. Đây là đội vũ trang thoát ly đầu tiên do Đảng tổ chức và lãnh đạo ở miền Trung.

Hàng ngàn chiến sĩ cách mạng bị địch giam giữ trong các nhà tù Nghĩa Lộ, Sơn La, Hoả Lò, Buôn Ma Thuột, Hội An... nhân cơ hội Nhật-Pháp bắn nhau đã vượt ngục ra ngoài hoạt động.

Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển mạnh ở cả nông thôn và thành thị, nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Hơn 2 triệu đồng bào chết đói. Hàng triệu người khác sống ngắc ngoải. Đó là hậu quả của chính sách bóc lột, vơ vét tàn bạo của bọn phátxít Nhật - Pháp.

Xuất phát từ lợi ích sống còn trước mắt của quần chúng, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu "phá kho thóc, giải quyết nạn đói". Chủ trương đó đáp ứng đúng nguyện vọng cấp bách của quần chúng. Trong một thời gian ngắn, Đảng đã động viên được hàng triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng, "thổi bùng ngọn lửa căm thù trong đông đảo nhân dân và phát động quần chúng vùng dậy với khí thế cách mạng hừng hực tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền".

Cao trào chống Nhật, cứu nước không những động viên được đông đảo quần chúng công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, viên chức mà còn lôi kéo cả tư sản dân tộc và một số địa chủ nhỏ. Binh lính, cảnh sát của chính quyền Trần Trọng Kim cũng dao động, một số ngả theo cách mạng hoặc ủng hộ cách mạng. Một số lý trưởng, chánh tổng, chánh phó tổng, tri phủ, tri huyện và cả một số tỉnh trưởng cũng tìm cách liên lạc với Việt Minh... Bộ máy chính quyền thống trị nhiều nơi tê liệt.

Thực hiện khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận, mở rộng căn cứ địa cách mạng để thúc đẩy mạnh mẽ việc chuẩn bị lực lượng tiến lên tổng khởi nghĩa, là điểm độc đáo và sáng tạo của Đảng ta trong tiến trình lãnh đạo chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở một nước vốn là thuộc địa.

b. Gấp rút chuẩn bị giành chính quyền

Ngày 16 tháng 4 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về việc tổ chức Uỷ ban giải phóng Việt Nam.

Giữa lúc cao trào kháng Nhật cứu nước đang cuồn cuộn dâng lên, ngày 15-5-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà [Bắc Giang], do Trường Chinh chủ trì. Hội nghị nhận định: tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Hội nghị chủ trương thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân, xây dựng các chiến khu trong cả nước, phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang, mở trường đào tạo cán bộ quân sự và chính trị.

Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào [Tuyên Quang]. Người chỉ thị phải gấp rút chuẩn bị Đại hội quốc dân. Người cũng chỉ thị thành lập "khu giải phóng". Ngày 4-6-1945, khu giải phóng chính thức được thành lập gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận thuộc Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Ủy ban lâm thời khu giải phóng được thành lập. Khu giải phóng trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.

Các cuộc nổi dậy của quần chúng và các cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang diễn ra liên tiếp. Chính quyền cách mạng ở nhiều địa phương lần lượt ra đời. Nhiều chiến khu mới được xây dựng như chiến khu Vần - Hiền Lương ở vùng giáp giới hai tỉnh Phú Thọ và Yên Bái, chiến khu Đông Triều [Quảng Yên], chiến khu Hoà - Ninh - Thanh, chiến khu Vĩnh Tuy và Đầu Rái [Quảng Ngãi]... Các căn cứ địa cách mạng là bàn đạp để phát triển lực lượng cách mạng, là hậu phương của các lực lượng vũ trang, là ngọn cờ hiệu triệu và cổ vũ phong trào cách mạng cả nước.

Cùng với khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận, thực hiện chiến tranh du kích ở những nơi có điều kiện, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ. Trong toàn quốc đã nổ ra nhiều cuộc míttinh, biểu tình, diễn thuyết xung phong ở các chợ, bến đò, xí nghiệp, trường học, rạp chiếu bóng. Ở nhiều địa phương, quần chúng cách mạng đã cảnh cáo bọn quan lại, tổng lý cường hào cố ý chống lại cách mạng, trừng trị bọn Việt gian. Ở nhiều thị xã, thành phố và ngay cả Hà Nội, các đội danh dự Việt Minh ra sức hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác trừ gian, táo bạo trừ khử một số tên tay sai đắc lực của địch, kích thích tinh thần cách mạng của quần chúng.

Các tổ chức cứu quốc, các đội tự vệ cứu quốc được thành lập ở nhiều thôn xóm và phố phường. Khắp nơi quần chúng nô nức tự vũ trang. Không khí sửa soạn tiến nhanh tới khởi nghĩa sục sôi trong cả nước.

Trong thời kỳ gấp rút chuẩn bị tổng khởi nghĩa, Đảng rất coi trọng cuộc đấu tranh để thống nhất đường lối, tăng cường sự nhất trí về tư tưởng và hành động trong Đảng. Trung ương Đảng đã phát hiện kịp thời và phê phán nghiêm khắc quan điểm mơ hồ, lệch lạc chớm nở trong một số cán bộ, đảng viên ở miền Trung khi nêu chủ trương là lợi dụng và cải tổ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, nuôi hy vọng giành độc lập bằng con đường thương lượng với Nhật. Chủ trương đó không nhằm đúng vào kẻ thù chính trước mắt cần tập trung đánh đổ là phátxít Nhật và bè lũ tay sai, đi chệch mục tiêu khởi nghĩa giành chính quyền do Đảng vạch ra. Trung ương Đảng cũng phê phán tư tưởng "tả" khuynh và hữu khuynh của một số cán bộ đảng viên hoạt động ở Nam Kỳ, trong các nhóm Tiền phong và Giải phóng; kêu gọi các đồng chí đó hãy kíp gạt bỏ thành kiến, đi vào đường lối của Đảng.

Đồng thời Trung ương Đảng kiên quyết vạch trần những thủ đoạn lừa bịp của phátxít Nhật và các đảng phái chính trị tay sai Nhật, những luận điệu khiêu khích phá hoại của bọn tơrốtkít, làm cho cán bộ và nhân dân thấy rõ đối với Nhật chỉ có một cách là toàn dân đoàn kết, cầm vũ khí chiến đấu, mới tự quyết định được số phận của mình trong những ngày khởi nghĩa sắp đến.

2. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 giành chính quyền.

a. Thời cơ cách mạng chín muồi, Đảng Cộng sản Đông dương kịp thời chớp thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa.

Chiến tranh thế giới thứ hai đi đến hồi kết thúc. Ở châu Âu, tháng 5-1945, Quân đội Liên Xô đã tiêu diệt hoàn toàn bọn phát xít Đức tại sào huyệt của chúng và buộc chúng đầu hàng vô điều kiện. Tại châu Á, tháng 8-1945, Quân đội Liên Xô tiến công như vũ bão, đánh bại hơn 1 triệu quân Quan Đông tinh nhuệ của Nhật tại Mãn Châu. Ngày 6 và 9/8, Mĩ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirosima và Nagasaki của Nhật Bản..Trước sự tấn công dồn dập của phe Đồng minh, Chính phủ Nhật đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh không điều kiện. Ở Đông Dương, binh lính Nhật hoang mang đến cực độ, chia rẽ và tê liệt, hơn 7 vạn quân Nhật đang chờ quân Đồng minh vào giải giáp. Chính phủ Trần Trọng Kim đứng trước tình thế tuyệt vọng, tạo thời cơ trực tiếp cho cách mạng nước ta.

Tuy nhiên quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa Đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương tước vũ khí phát xít Nhật. Vì thế vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh. Phải gấp rút hành động, không được do dự, lừng chừng. Trước tình thế vô cùng khẩn cấp và thuận lợi đó, Đảng kịp thời quyết định tổng khởi nghĩa.

Ngày 12-8-1945 Uỷ ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong khu. Ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp ở Tân Trào, gồm đại biểu các đảng bộ trong nước và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài. Hội nghị quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền từ tay phátxít Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập! Chính quyền nhân dân! Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh. Phải chộp lấy những căn cứ chính [cả ở các đô thị] trước khi quân Đồng minh vào, thành lập uỷ ban nhân dân ở những nơi đã giành được quyền làm chủ...

Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối ngoại cần thi hành sau khi giành được chính quyền. Về đối nội, sẽ lấy 10 chính sách lớn của Việt Minh làm chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng. Về đối ngoại, thực hiện nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn bớt thù, triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp - Anh và Mỹ - Tưởng, hết sức tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù trong một lúc; phải tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, của nhân dân các nước trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và nhân dân Trung Quốc.

Hội nghị còn quyết định các vấn đề về công tác vận động quần chúng, đào tạo, sử dụng và phân phối cán bộ và các vấn đề về công tác Đảng. Tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bổ sung thêm một số uỷ viên. Ngay đêm 13-8-1945, ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra bản “Quân lệnh số 1” phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước.

Tiếp sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, ngày16-8-1945 Đại hội quốc dân cũng họp tại Tân Trào. Về dự Đại hội có khoảng 60 đại biểu của các giới, các đảng phái chính trị, các đoàn thể quần chúng cứu quốc, các dân tộc, các tôn giáo trong nước và đại biểu kiều bào ở nước ngoài. Đại hội nhất trí tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Sự có mặt của Hồ Chí Minh đem lại cho các đại biểu dự Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc dân một niềm tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa và tiền đồ tươi sáng của cách mạng nước ta. Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước:

"Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ.Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!" - Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr. 554.

.

Hưởng ứng chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và lời hiệu triệu của Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước, triệu người như một nhất tề nổi dậy, với tinh thần cách mạng tiến công liên tục và dũng cảm, với ý chí dù có hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập.

b. Diễn biến Tổng khởi nghĩa:

Từ ngày 14-8-1945 trở đi, các đơn vị Giải phóng quân lần lượt tiến công các đồn Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái, v.v., hỗ trợ quần chúng tiến lên giành chính quyền ở tỉnh lỵ. Ngày 16-8-1945, một đơn vị Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy kéo về bao vây, tiến công quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên. Cũng từ ngày 14 đến ngày 18-8 ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và miền Nam, quần chúng cách mạng đã nổi dậy giành chính quyền ở cấp xã và huyện. Ngày 18 tháng 8 nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam đã giành được chính quyền ở tỉnh lỵ.

Tại Hà Nội, ngày 17-8 Đảng bộ Hà Nội bí mật huy động quần chúng trong các tổ chức cứu quốc ở nội và ngoại thành, chủ yếu là công nhân, thanh niên và tự vệ cứu quốc để biến cuộc míttinh của Tổng hội viên chức thành cuộc míttinh kêu gọi nhân dân ủng hộ Việt Minh, hăng hái tham gia khởi nghĩa. Cuộc míttinh liền biến thành một cuộc biểu tình tuần hành, rầm rộ diễu qua các phố đông người, tiến đến trước phủ toàn quyền cũ, nơi viên tư lệnh quân Nhật đóng, rồi chia thành từng toán nhỏ, đi cổ động chương trình Việt Minh khắp các phố. Sau cuộc biểu dương lực lượng, thành uỷ Hà Nội nhận định chúng ta đã có đủ điều kiện để có thể quyết định phát động tổng khởi nghĩa. Sáng ngày 19-8, quần chúng rầm rộ kéo đến quảng trường Nhà hát thành phố để dự cuộc míttinh lớn do Mặt trận Việt Minh tổ chức. Ủy ban quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa của Việt Minh. Quần chúng cách mạng chia thành nhiều đoàn đi chiếm phủ khâm sai, tòa thị chính, trại bảo an binh, sở cảnh sát và các công sở của chính quyền bù nhìn. Binh lính đứng về phía cách mạng. Trước khí thế áp đảo của quần chúng khởi nghĩa, hơn một vạn quân Nhật ở Hà Nội tê liệt, không dám chống cự. Chính quyền về tay nhân dân.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ngày 19-8 tạo điều kiện thuận lợi lớn cho quá trình tổng khởi nghĩa đang tiếp diễn trong cả nước.

Ngày 23-8, ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế huy động quần chúng nông dân từ các huyện đã giành được chính quyền ở ngoại thành, kết hợp với công nhân, nhân dân lao động, thanh niên và các tầng lớp khác trong nội thành xuống đường biểu dương lực lượng. Quần chúng lần lượt chiếm các công sở không vấp phải sức kháng cự nào.

Ở Nam Kỳ, được tin Hà Nội và Tân An [tỉnh khởi nghĩa thí điểm của Xứ ủy] đã về tay Việt Minh, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa chiếm Sài Gòn và các tỉnh. Trong đêm 24-8 các lực lượng khởi nghĩa của công nhân, nông dân, thanh niên với gậy tầm vông vót nhọn và giáo mác, từ các tỉnh xung quanh rầm rập kéo về Sài Gòn. Sáng 25-8, hơn 1 triệu người biểu tình tuần hành thị uy. Quân khởi nghĩa chiếm các công sở quan trọng. Quân Nhật hoàn toàn tê liệt, không dám kháng cự. Bọn phản cách mạng ở sở mật thám Catina chống cự yếu ớt, nhưng bị đè bẹp. Cuộc khởi nghĩa thành công nhanh chóng. Mọi sinh hoạt trong thành phố đều giữ được bình thường.

Thắng lợi của khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các đô thị khác đập tan các cơ quan đầu não của kẻ thù có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng trong phạm vi cả nước. Ngày 30-8-1945, một cuộc míttinh gồm hàng vạn người tham gia ở Ngọ Môn, thành phố Huế, chứng kiến Bảo Đại đọc lời thoái vị và giao nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhờ có sự chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại nổ ra đúng thời cơ nên Cách mạng Tháng Tám đã giành được thắng lợi nhanh, gọn, ít đổ máu. Chỉ trong vòng 15 ngày [từ 14 đến 28-8] cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công. Lần đầu tiên trong lịch sử, chính quyền cả nước về tay nhân dân.

3. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời:

Ngày 25-8-1945, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Ủy ban dân tộc giải phóng về đến Hà Nội. Ngày 28-8-1945, Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam tuyên bố tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một chính phủ thể hiện chính sách đoàn kết rộng rãi của Đảng đối với các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước, các nhân sĩ tiến bộ. Nhiều ủy viên Việt Minh trong Chính phủ đã tự nguyện rút khỏi Chính phủ, tạo điều kiện để mời thêm nhiều nhân sĩ ngoài Việt Minh tham gia "Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân" - Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, 2002, t.6, tr. 160

Ngày 2-9-1945, Lễ độc lập được tổ chức trọng thể tại Quảng trường Ba Đình. Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Trước cuộc míttinh của hàng chục vạn đồng bào thủ đô, thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Bản tuyên ngôn nêu rõ:

"Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do" - Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, 2002, t.3, tr. 555, 557..

"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị tư tưởng lớn và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Đó là thiên anh hùng ca chiến đấu và chiến thắng, chứa chan sức mạnh và niềm tin, tràn đầy lòng tự hào và ý chí đấu tranh của nhân dân ta trong sự nghiệp giành và giữ nền độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.

III. NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI Ý NGHĨA LỊCH SỬ, BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945.

1. Nguyên nhân thắng lợi.

- Cách mạng Tháng Tám thành công do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định, đó là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khôn khéo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo có phương pháp; chiến lược, chiến thuật cách mạng thích hợp và linh hoạt. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám là đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, trải qua ba cao trào cách mạng lớn: Cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh [1930 - 1931], cao trào dân chủ [1936 - 1939], cao trào cứu nước trong chiến tranh thế giới thứ hai [1939 - 1945]. Qua đấu tranh gian khổ, với nhiều hy sinh to lớn, Đảng ta đã từng bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng được lực lượng xung quanh mình, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phân hóa lực lượng kẻ thù, xác định kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt để có sách lược khôn khéo tập hợp lực lượng. Đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, phương châm, phương pháp, sách lược cách mạng mềm dẽo, linh hoạt đã lôi cuốn, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân thành một khối thống nhất, hun đúc bầu nhiệt huyết, làm bùng cháy ngọn lửa cách mạng trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Trong quá trình vận động cách mạng, Đảng ta đã coi trọng cả đấu tranh chính trị lẫn đấu tranh vũ trang, kết hợp chặt chẽ, linh hoạt, không chỉ chú ý đưa nhân dân vào các tổ chức chính trị, Đảng còn từng bước vũ trang cho nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Lực lượng vũ trang đó, được nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc, có chỗ đứng vững chắc là các căn cứ địa cách mạng. Vì thế, cho đến ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, tuy ta chưa có đội quân chủ lực mạnh nhưng đã có đủ các loại lực lượng vũ trang phát triển khắp nơi, ta có ưu thế về lực lượng chính trị so với kẻ thù; Đảng đã phát huy ưu thế đó, chớp đúng thời cơ lịch sử ngàn năm có một, với nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức khởi nghĩa khéo léo, tài tình, Đảng đã đưa cuộc Tổng khởi nghĩa đến thắng lợi trọn vẹn trong cả nước.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là sự vận dụng thời cơ cách mạng chín muồi, lực lượng cách mạng đã được chuẩn bị chu đáo cộng với sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Đảng, biết nắm lấy thời cơ, biết sử dụng lực lượng cách mạng đúng lúc, kết hợp chính trị và vũ trang, lấy lực lượng chính trị của nhân dân giữ vai trò quyết định, kết hợp nông thôn và thành thị, kết hợp các hình thức đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp, từ thấp lên cao, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn, đó chính là nguyên nhân chủ yếu đưa cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi.

- Nguyên nhân thứ hai rất quan trọng, đó là tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất nước, nghe theo tiếng gọi của Đảng, quyết vùng lên đánh đổ bọn đế quốc, phát xít cướp nước, bọn vua quan phong kiến, tay sai bán nước. Cuộc Tổng khởi nghĩa năm 1945 là thành tựu tuyệt vời của tinh thần, ý chí, trí tuệ của con người Việt Nam. Tinh thần, trí tuệ ấy xuất hiện từ buổi đầu lịch sử dân tộc, đã được nâng lên một tầm cao mới sau 15 năm đấu tranh quật cường dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mácxít - Lêninnít chân chính.

- Nguyên nhân thứ ba là Đảng ta tiến hành cuộc cách mạng Tháng Tám trong bối cảnh quốc tế thuận lợi; đó là việc quân đội Liên Xô và đồng minh đã đánh bại phát xít Đức, Ý, Nhật, thắng lợi đó đã tạo điều kiện cho các lực lượng bị áp bức, yêu hòa bình và các lực lượng tiến bộ trên thế giới có điều kiện để giành thắng lợi khi biết lợi dụng được thời cơ ngàn năm có một này. Trong bối cảnh ở nước ta, quân Pháp bị Nhật hất chân, quân Nhật lại bị Hồng quân Liên Xô và quân đồng minh đánh cho bại trận, đang hoang mang cao độ và đang tan rã, quân đội các nước đồng minh chưa kịp vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật.

- Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng để đi đến thắng lợi, đã có biết bao nhiêu đồng bào, đồng chí đã không hề tiếc xương máu, hy sinh oanh liệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Chính họ đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của dân tộc lên trên hết, đã tin tưởng sâu sắc vào tương lai của Đảng, của dân tộc, đã hy sinh tất cả, đem xương máu vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay". Đó cũng là một nguyên nhân quan trọng để đưa cuộc cách mạng chúng ta đến thành công.

2. Ý nghĩa lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám và sự khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Cách mạng Tháng Tám thành công, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội; có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng.

Thứ nhất, thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân, đế quốc trong gần một thế kỷ, lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế mấy nghìn năm, lập nên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ; Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật, bất hợp pháp trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào một cuộc trường chinh mới với những biến đổi cách mạng lớn lao và sâu sắc; kỷ nguyên mới của dân tộc là kỷ nguyên đấu tranh giành độc lập, thống nhất và phục hưng đất nước, kỷ nguyên kết hợp chặt chẽ độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, mà chủ thể của sự nghiệp vĩ đại này không có ai khác là con người Việt Nam, là cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn mang trong mình khí phách quật cường của mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Dân tộc có độc lập thì con người mới tự do, hạnh phúc; không thể thực hiện được các quyền con người khi quyền độc lập dân tộc của cả một cộng đồng bị chà đạp; khi đất nước được độc lập thì con người mới được giải phóng, mới có thể cùng nhau xây dựng Nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Độc lập, tự do, hạnh phúc - những nội dung ấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên đã gắn bó quyền dân tộc với quyền của mỗi con người; đó cũng là động lực thúc đẩy toàn dân tộc vượt qua muôn vàn thử thách hiểm nguy để giành và giữ chính quyền non trẻ, để tiến hành 30 năm trường kỳ kháng chiến và chiến thắng hai đế quốc hung bạo nhất, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng đúng đắn và đầy sáng tạo của Đảng ta đã gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Cách mạng Tháng Tám đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam; đây là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với những tư tưởng của Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh, với xu thế của thời đại hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, với thắng lợi này, cách mạng nước ta đã chuyển sang một bước ngoặt mới, nước ta không những trở thành một nước độc lập, tự do mà còn trở thành một trong những nước đi tiên phong trong việc xây dựng chế độ xã hội mới - chế độ dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện hoài bão, ước mơ của biết bao thế hệ người Việt Nam xưa và nay.

Thứ tư,thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám còn khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước phong kiến và nửa thuộc địa lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội. Đây là sự phát triển rất sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta; Cách mạng Tháng Tám như một quả bom có sức công phá mạnh làm sụp đổ một mảng quan trọng thành trì của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức bóc lột vùng dậy, báo hiệu một kỷ nguyên mới của loài người: Kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội; đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

3. Bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám

Cách mạng Tháng Tám cho ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, nhưng có thể nói những bài học kinh nghiệm lớn nhất, sâu sắc nhất đó là:

Thứ nhất, có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin - đỉnh cao trí tuệ của thời đại được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng, đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn cách mạng của đất nước, đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp, hình thức đấu tranh phong phú, linh hoạt, biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng đúng lúc, phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại để dẫn dắt quần chúng tiến lên giành và giữ chính quyền. Cách mạng Tháng Tám khẳng định rằng: Nếu không có một đảng cách mạng, một lãnh tụ kiệt xuất, một bộ tham mưu tài giỏi, lý luận tiên tiến, tư tưởng thống nhất, tổ chức chặt chẽ, đường lối đúng đắn và hợp lòng dân thì khó tập hợp được sức mạnh của toàn dân tộc để làm nên cuộc cách mạng long trời lở đất, chỉ trong vòng nửa tháng đã giành thắng lợi và xác lập chính quyền dân chủ nhân dân trong phạm vi toàn quốc. Thực tiễn lịch sử 82 năm qua lại càng khẳng định, sự lãnh đạo đúng đắn của một đảng luôn luôn là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Điều đó nói lên rằng, muốn tiến hành một cuộc cách mạng xã hội sâu sắc và triệt để không thể thiếu vai trò lãnh đạo của một đảng Mácxít - Lêninnít và một đảng muốn giữ được vai trò lãnh đạo cách mạng cần phải giải quyết tốt mấy vấn đề cơ bản của cách mạng trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân như sau:

- Quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, giữa mục tiêu dân tộc và mục tiêu dân chủ, giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp.

- Quan hệ giữa mục tiêu chiến lược lâu dài và mục tiêu cụ thể trước mắt, giành thắng lợi từng bước, khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.

- Quan hệ giữa chiến lược và sách lược, phương pháp cách mạng, sử dụng đúng đắn các phương pháp đấu tranh phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể.

- Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, giữa xây dựng Đảng và phát triển lực lượng cách mạng của quần chúng được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất.

- Quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giữa xây dựng lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh bên trong, nêu cao ý chí tự lực tự cường, độc lập tự chủ và sáng tạo với tranh thủ những điều kiện và thời cơ thuận lợi do tình hình thế giới đem lại.

- Quan hệ giữa chủ động chớp thời cơ và đẩy lùi nguy cơ…

Đó là những vấn đề cơ bản trong đường lối cách mạng của Đảng ta nhằm phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc đứng lên tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, giành thắng lợi hoàn toàn. Đây cũng là những kinh nghiệm quý báu để Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ suốt 30 năm, tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu quan trọng.

Thứ hai, vấn đề giành và giữ chính quyền, đó là mục tiêu của bất cứ một cuộc cách mạng nào; nhưng cái độc đáo của cuộc Cách mạng Tháng Tám, mang bản sắc Việt Nam, một sự sáng tạo của Đảng ta là không phải đợi đến khi phát động Tổng khởi nghĩa toàn quốc mới đặt vấn đề giành chính quyền về tay nhân dân.

Tin tưởng mạnh mẽ ở lực lượng cách mạng của nhân dân, ngay từ tháng 5 năm 1941, tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám, Đảng ta đã chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang với các hình thức và quy mô thích hợp, giành chính quyền từng bộ phận, thành lập và mở rộng các căn cứ địa cách mạng và sẵn sàng chuyển sang hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.

Bài học lớn của việc giành và giữ chính quyền chính là Đảng ta biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo nhân dân tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công; lực lượng cách mạng có được chính là nhờ Đảng nắm bắt đúng nguyện vọng của quần chúng, biết gắn lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc với nhau, có mục tiêu chính trị rõ ràng, phương pháp cách mạng đúng đắn.

Thứ ba, vấn đề nắm bắt thời cơ ngàn năm có một, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thời; bất cứ một cuộc cách mạng nào đều phải biết tạo ra thời cơ và nắm bắt thời cơ; chọn đúng thời cơ là một khoa học và một nghệ thuật; điều này đã được thể hiện rất rõ trong cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương tháng 3 năm 1945: "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ngày 13 tháng 8 năm 1945 hiệu triệu toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Chọn thời điểm ngày 13 tháng 8 để phát động Tổng khởi nghĩa là vô cùng sáng suốt; bởi vì, vào thời điểm đó, cách mạng đã lên tới cao trào, lực lượng cách mạng đã lôi kéo được cả những tầng lớp trung gian, lừng chừng; lúc đó, quân Nhật bại trận, mất tinh thần cao độ, chỉ ngồi chờ quân đồng minh đến tước vũ khí, chính quyền tay sai tan rã và đã tỏ thái độ đầu hàng lực lượng cách mạng. Thời cơ khởi nghĩa ngàn năm có một được chọn một cách chính xác trong khoảng 15 ngày trước khi quân Tưởng và quân Anh đổ bộ vào Đông Dương. Nếu phát động Tổng khởi nghĩa sớm hơn, nhân dân ta sẽ tổn hại nhiều xương máu; nếu phát động Tổng khởi nghĩa muộn hơn khi quân đồng minh đã vào Đông Dương thì cách mạng Việt Nam sẽ mất đi thế chủ động của mình và sẽ gặp nhiều khó khăn khác.

Thứ tư, vấn đề xây dựng và sử dụng sức mạnh của cả một cuộc cách mạng. Vận dụng những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, thể hiện trong khẩu hiệu đấu tranh từng thời kỳ như: Độc lập dân tộc, người cày có ruộng, mười chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, chủ trương phá kho thóc của Nhật cứu đói cho dân và hàng loạt hình thức vận động, tập hợp quần chúng khác. Chính vì thế, Đảng ta đã tập hợp và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân dựa trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và trí thức, tạo nên nguồn động lực mạnh mẽ đưa cách mạng tiến lên; sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng - cuộc tổng khởi nghĩa điển hình dựa vào sức mạnh toàn dân, chủ yếu là sức mạnh đấu tranh chính trị của nhân dân để giành chính quyền một cách nhanh chóng trong cả nước; dưới ánh sáng của đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Bác Hồ, lòng yêu nước và sức mạnh của toàn dân được thổi lên trong Cách mạng Tháng Tám đã tiếp tục được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống đế quốc xâm lược và trong công cuộc đổi mới đất nước ngày nay.

PHẦN II. MỘT SỐ CÂU HỎI LUYỆN TẬP TRONG CHUYÊN ĐỀ

Câu 1. Ti sao trong 3 năm liên tiếp 1939, 1940, 1941, Ban Chp hành Trung ương Đng đu triu tp hi nghị ? Từ việc trình bày ni dung chính ca các Hội ngh, hãy cho biết vn đ quan trng nht được các hi nghị đề cập đến gì

- Trong 3 năm 1939, 1940 và 1941, Ban chấp hành Trung ương Đng đu triu tập hội ngh xuất phát từ nhng biến chuyn ca tình hình thế giới và trong nước òi hi Đng Cộng sn Đông Dương phải đ ra nhng nhiệm vụ cp thiết trước mắt nhằm thc hin mc tiêu chiến lược lâu dài].

+ Tháng 11 - 1939 : Hi nghị Ban Chp hành Trung ương Đng Cộng sn Đông Dương được triệu tp tại Điểm [Hc Môn - Gia Đnh] đã phân ch tính chất ca cuộc Chiến tranh thế giới th hai, tình hình thế gii và Đông Dương xác định mc tiêu chiến lưc trước mt là đánh đuổi đế quốc và tay sai, gnh độc lp dân tc với vic đ ra các sách lưc c th

+ Tháng 11 - 1940 : Hi nghị Ban Chấp hành Trung ương Đng Cộng sn Đông Dương đưc triu tp tại Đình Bng [Bắc Ninh] vào lúc xy ra cuc xung đt gia thực dân Pháp và Thái Lan, x y Nam kì chuẩn bị phát động cuc khi nghĩa ch trương mi : xác đnh kẻ thù chính [Pháp, Nhật], chuẩn b v mặt lực lưng cũng như thành lập các căn cứ địa đ làm cuc cách mng gii phóng dân tc

+ Tháng 5 - 1941 : Hi nghị Ban Chấp hành Trung ương Đng Cộng sn Đông ơng đưc triệu tập tại Pắc Bó [Cao Bằng] vi schủ trì ca Nguyễn Ái Quốc nhiệm vụ chủ yếu trưc mắt là gii phóng dân tc cũng như đ ra các nhim vụ cn làm

- Vn đ quan trng đưc các hội nghị đề cập phi đặt nhiệm vụ giải phóng dân tc lên hàng đu. Đây là vic th hiện s nhy bén v chính trị và năng lực lãnh đo ca Đảng.

Câu 2. Lập bảng so sánh Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám [ 10- 19 / 5 / 1941 ] với Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu [ 6 / 11 / 1939 ].

ĐÁP ÁN.

Nội dung so sánh.

Hội nghị trung ương lần thứ 6.[ 6 - 11- 1939]

Hội nghị trung ương lần thứ 8.

[ 10-19/5/ 1941].

Tình hình thế giới.

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Nhật lăm le nhảy vào Đông Dương.

Phát xít Đức chuẩn bị tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh thay đổi.

Tình hình trong nước.

Thực dân Pháp thực hiện chính sách phát xít hoá, tăng cường bóc lột. Mâu thuẫn dân tộc gay gắt.

Nhật - Pháp ra sức áp bức, bóc lột. Mâu thuẫn dân tộc gay gắt hơn bao giờ hết. Nhân dân ta ngày càng cách mạng hoá. 28-1 - 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng.

Xác định nhiệm vụ. mục tiêu cách mạng.

- Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

-Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất của đế quốc, Việt gian cho dân cày.

- Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

- Tiếp tục tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, giảm tô, giảm thuế, chia lại ruộng công tiến tới thực hiện người cày có ruộng.

- Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật sẽ thành lập Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Vấn đề đoàn kết dân tộc.

Lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương.

Lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh [ Việt Minh]. Thay tên các Hội Phản đế thành Hội Cứu quốc, giúp đỡ cho việc thành lập mặt trận ở Lào và Căm pu chia.

Phương pháp cách mạng.

Chuyển từ đấu tranh công khai, hợp pháp là chủ yếu sang bí mật, bất hợp pháp.

Chuẩn bị điều kiện tiến tới vũ trang khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng , toàn dân. Hình thái: từ khởi nghiã từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.

Ý nghĩa

Bước đầu chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng

Hoàn chỉnh chủ trương được đề ra từ Hội nghị Trung ương tháng 11 - 1939 nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là đọc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo để thực hiện mục tiêu ấy.

Câu 3. Trình bày nguyên nhân ra đời, Sự ra đời, phát triển và vai trò của Mặt trận Việt Minh ?

a. Nguyên nhân.

- Do yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Chiến tranh thế giới II bùng nổ, nhật vào Đông Dương. Pháp, nhật câu kết bóc lột nhân dân ta. Mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với Pháp- Nhật và tay sai ngày càng gay gắt. Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết, cần phải huy động lực lượng toàn dân tộc, sức mạnh toàn dân vào cuộc đấu tranh.

- Do yêu cầu giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương.

Ở Đông Dương có 3 quốc gia dân tộc cùng đoàn kết chống kẻ thù chung nhưng mỗi nước có đặc điểm riêng về truyền thống, trình độ phát triển….

Cần thực hiện vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước để thực hiện quyền dân tộc tự quyết, phát huy sức mạnh của mỗi dân tộc trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình, đập tan luận điệu xuyên tạc của kẻ thù về vấn đề dân tộc và tạo ra sự đoàn kết 3 dân tộc chống kẻ thù chung.

- Do cần thiết phối hợp với lực lượng chống phát xít trên thế giới.

Lập mặt trận Việt Minh góp phần vào đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.

b.Sự ra đời.

- Sau khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập, chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Tring ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8

[ 10 đến 19- 5 - 1941]. Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước : Lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh [ Việt Minh]. Thay tên các Hội Phản đế thành Hội Cứu quốc, giúp đỡ cho việc thành lập mặt trận ở Lào và Căm pu chia.

- Ngày 19 - 5 -1941, Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập nhằm “ liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”.

c.Sự phát triển.

- Cao Bằng là nơi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thí điểm cuộc vận động xây dựng Mặt trận Việt Minh. đến năm 1942, khắp 9 châu của Cao Bằng đều có hội Cứu quốc, Uỷ ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban Việt Minh lâm thời liên tỉnh Cao- Bắc - Lạng được thành lập.

- Các địa phương khác: hầu hết các hội Phản đế chuyển thành các hội Cứu quốc, nhiều hội Cứu quốc mới được thành lập, đoàn kết không chỉ công nhân, nông dân mà cả tiểu tư sản, tư sản dân tộc, binh lính người Việt yêu nước trong quân dội Pháp, những ngoại kiều ở đông dương đấu tranh chống phát xít.

d.Vai trò của Mặt trận Việt Minh.

Trong 10 năm tồn tại [ 1941 - 1951], Mặt trận Việt Minh có nhiều đóng góp cho cách mạng Việt Nam.

- Đối với Cách mạng tháng Tám:

* Trong xây dựng lực lượng.

+ Mặt trận Việt Minh đã tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng trong quần chúng, lên án tội ác của phát xít Pháp - Nhật,

+ Là nơi tập hợp, giác ngộ, rèn luyện lực lượng chính trị hùng hậu cho CM tháng Tám.

Mặt trận Việt Minh có công lớn trong xây dựng căn cứ địa, lực lượng vũ trang cách mạng. Lực lượng này ngày càng lớn mạnh tích cực tham gia vào đấu tranh giành chính quyền.

+ Tích cự tham gia xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Tháng 6.1945 khu giải phóng Việt Bắc ra đời, 10 chính sách của VM được ban bố, góp phần xây dựng VB thành hình ảnh thu nhỏ của nước Vn mới.

*Với cao trào kháng Nhật cứu nước:

Trong cao trào kháng Nhật cứu nước: Mặt trận Việt Minh tổ chức khởi nghĩa từng phần ở một số địa phương, ngoài ra còn các hình thức đấu tranh khác: biểu tình, tuần hành, căng biểu ngữ, rải truyền đơn, phá kho thóc của Nhật, các đội danh dự của Việt Minh đã trừ khử những tên tay sai gian ác... tập dượt cho quần chúng, tạo tiền đề cho Cách mạng tháng Tám.

* Với TKN: Mặt trận Việt Minh triệu tập, tiến hành thành công Đại hội Quốc dân ở Tân Trào; huy động toàn dân tham gia Tổng khởi nghĩa thành công.

- Sau Cách mạng tháng Tám:

Mặt trận Việt Minh tiếp tục củng cố khối đoàn kết toàn dân trong mặt trận để xây dựng và bảo vệ chế độ mới: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, củng cố chính quyền nhân dân, chống thù trong giặc ngoài, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Trong kháng chiến chống Pháp:

+ Mặt trận Việt Minh và Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam đã đoàn kết toàn dân cả miền xuôi và miền núi, cả vùng tự do và vùng tạm chiếm. Mặt trận đã là một trong những trụ cột của nhà nước dân chủ nhân dân, là sức mạnh của cuộc kháng chiến kiến quốc, là áo giáp vững bền của Đảng, góp phần đập tan âm mưu chia rẽ phá hoại của kẻ thù.

+ Ngày 3 - 3- 1951, Mặt trận Việt Minh thống nhất với Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam thành Mặt trận Liên - Việt nhằm củng cố thêm khối đoàn kết toàn dân.

Mặt trận Việt Minh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, vai trò lịch sử của mình, có đóng góp to lớn trong xây dựng khối đoàn kết dân tộc.

Câu 4. Trình bày quá trình chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám.

ĐÁP ÁN.

Chuẩn bị gồm 5 nội dung:

- Chuẩn bị về chủ trương đường lối.

- Xây dựng lực lượng cách mạng.

- Xây dựng căn cứ cách mạng.

- Chuẩn bị cho quần chúng tập dượt đấu tranh.

- Chuẩn bị bộ máy lãnh đạo.

Nội dung cụ thể.

1. Chuẩn bị về chủ trương đường lối.

a. Các Hội nghị trung ương Đảng về chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng.

- Hội nghị Trung ương lần thứ 6 [ 11 - 1939].

- Hội nghị Trung ương lần thứ 7 [ 11 - 1940].

- Hội nghị Trung ương lần thứ 8 [ 5 - 1941].

b. Nội dung chuyển hướng.

- Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc.Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, giảm tô, giảm thuế, thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công tiến tới thực hiện người cày có ruộng.

- Mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất [ Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, Mặt trận Việt Minh].

- Chuẩn bị điều kiện tiến tới vũ trang khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng , toàn dân. Hình thái: từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.

c.Ý nghĩa. Sự chuẩn bị về chủ trương đường lối là sự chuẩn bị tiên quyết đối với thành công của Cách mạng tháng Tám.

2. Xây dựng lực lượng cách mạng.

a. Xây dựng lực lượng chính trị.

19 - 5 - 1941,Mặt trận Việt Minh thành lập với thành phần rộng rãi, gồm nhiều tổ chức quần chúng lấy tên là hội Cứu quốc. Mặt trận Việt Minh là cầu nối giữa đảng và quần chúng. Mặt trận Việt Minh đã củng cố khối đoàn kết toàn dân, xây dựng lực lượng chính trị hùng hậu cho cách mạng.

b. Xây dựng lực lượng vũ trang.

- Du kích Bắc Sơn cùng một số đội du kích ở Thái Nguyên phát triển thành Cứu quốc quân [ từ tháng 2- 1941 đến tháng 2 - 1944 phát triển thành 3 trung đội].

- Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập đội tự vệ vũ trang để chuẩm bị cho việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Người còn tổ chức các lớp huấn luyện chính trị, quân sự, biên soạn các tài liệu về cách đánh du kích...

- 22 - 12 - 1941, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập nhằm kết hợp đấu tranh quân sự với chính trị. Đội đã hạ các đồn Phay Khắt, Nà Ngần.

- Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kì: thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Lập Uỷ ban Quân sự cách mạng Bắc Kì để chỉ huy các chiến khu miền Bắc và giúp dỡ toàn quốc về quân sự.

c.Ý nghĩa.

Với lực lượng chính trị và vũ trang, Đảng kết hợp lực lượng chính trị với vũ trang để tiến hành Tổng khởi nghĩa.

3. Xây dựng căn cứ địa cách mạng.

a. Tầm quan trọng.

Căn cứ địa là nơi đứng chân của cách mạng, nơi cung cấp sức người, sức của; nơi xuất phát để đánh địch, nơi rút lui để tự bảo vệ.

b. Quá trình xây dựng.

- Vùng Bắc Sơn - Vũ Nhai được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11 - 1940 chủ trương xây dựng thành căn cứ địa cách mạng. Năm 1941, sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa. Đó là hai căn cứ đầu tiên của cách mạng nước ta. Năm 1943, ta nối liền hai căn cứ địa để phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi

- Tháng 6 - 1945, khu giải phóng Việt Bắc thành lập gồm 6 tỉnh thượng du [ Cao - Bắc - Lạng - Hà - Tuyên - Thái] và một số vùng thuộc các tỉnh lân cận. Đó là căn cứ địa chính của cách mạng cả nước, là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.

- Trong cao trào kháng Nhật cứu nước, nhiều căn cứ địa xuất hiện: Ba Tơ, Nghĩa Lộ...

4. Chuẩn bị cho quần chúng tập dượt đấu tranh.

a.Tầm quan trọng.

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, song quần chúng phải được giác ngộ, tổ chức, tập dượt đấu tranh mới tạo thành sức mạnh cách mạng.

b.Quá trình tập dượt.

Diễn ra rất lâu dài qua các phong trào đấu tranh thời kì : phong trào cách mạng 1930 - 1931, cuộc vận động dân chủ 1935 - 1939, cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945, đặc biệt là cao trào tiền khởi nghĩa. Quần chúng được tập hợp thành tổ chức,được rèn luyện từ các hình thức đấu tranh mức độ thấp [ bãi công, bãi thị, bãi khoá, biểu tình, mít tinh, căng biểu ngữ, rải truyền đơn, phá phách, bất hợp tác...] đến hình thức cao như chiến tranh du kích, khởi nghĩa từng phần. Quần chúng đã sẵn sàng đứng lên tổng nhởi nghĩa khi có thời cơ.

5. Chuẩn bị bộ máy lãnh đạo.

- Ngày 13 tháng 8 - 1945, khi nhận được những thông tin về việc Nhật Bản sắp đầu hàng Đồng minh, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc để lãnh đạo ...

- Từ ngày14 đến ngày15 - 8, Hội nghị của Đảng thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa và quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền.

- - Từ ngày16 đến ngày17 - 8, Đại hội Quốc dân triệu tập ở Tân trào. Đại hội tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử ra Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đại hội đã chuẩn bị những công việc cuối cùng cho Tổng khởi nghĩa.

Câu 5. Tại sao nói: Cách mạng tháng Tám nổ ra đúng thời cơ và Đảng ta đã kiên quyết hành động đưa cách mạng đến thắng lợi?

ĐÁP ÁN.

a. Cơ sở lí luận.

Cách mạng muốn thắng lợi phải có sự chuẩn bị lực lượng và nổ ra đúng thời cơ. Thời cơ gồm 3 điều kiện sau:

- Đảng [ đội tiên phong ] đã sẵn sàng.

- Quần chúng nhân dân không cam chịu bị thống trị như cũ nữa và thể hiện rõ tính tích cực cách mạng của mình.

- Kẻ thù không thể thống trị bình thường như cũ nữa mà lâm vào khủng hoảng trầm trọng.

Khi thời cơ xuất hiện, phải nhận thức đúng thời cơ và kiên quyết hành động đưa cách mạng đến thắng lợi.

b. Biểu hiện trong Cách mạng tháng Tám .

- Nổ ra đúng thời cơ

+ Đảng Cộng sản Đông Dương đã sẵn sàng lãnh đạo cách mạng thể hiện ở các Hội nghị Trung ương 11- 1939, 11 - 1940, 5 - 1941, Hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương từ đêm 9 đến ngày 12 - 3 - 1945, kịp thời vạch ra đường lối đúng đắn cho cách mạng.

+ Quần chúng nung nấu căm thù đối với giặc Nhật và tay sai, đã vùng lên đấu tranh quyết liệt, nhất là trong cao trào tiền khởi nghĩa.

+ Phát xít Đức bị tiêu diệt. Phát xít Nhật bị cô lập, thất bại liên tiếp. Ngày 8 tháng 8 - 1945, Liên xô tuyên chiến với Nhật Bản. Ngày 9 tháng 8, quân đội Xô viết mở màn chiến dịch tổng công kích đạo quân Quan Đông của Nhật B.ản ở Đông Bắc Trung Quốc. Trưa ngày 15 tháng 8 - 1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện

Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã. Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim hoang mang. Quân Đồng minh chưa kịp vào Đông Dương. Điều kiện khách quan thuận lợi cho tổng khởi nghĩa đã đến.

- Đảng ta nắm bắt được thời cơ đã kiên quyết hành động : Ngày 13 tháng 8 - 1945, khi nhận được những thông tin về việc Nhật Bản sắp đầu hàng Đồng minh, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Uỷ ban Khởi nghĩa toàn quốc, đêm 13 - 8, Uỷ ban Khởi nghĩa ra ”Quõn lệnh số 1 ”, chớnh thức phỏt lẹnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân đã quyết định phát động toàn dân vùng lên Tổng khởi nghĩa.

”Lúc này, thời cơ thuận lợi của cách mạng đã đến, dù có hy sinh đến đâu, dù có phải thiêu cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành độc lập tự do” [ Hồ Chớ Minh].

Câu 6. Những biểu hiện nào chứng tỏ Cách mạng tháng Tám ở nước ta đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước ?

a. Chủ trương về khởi nghĩa vũ trang của Đảng ta trong Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 [ 5 - 1941 ] .

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 [ 10 đến 19 tháng 5 năm 1941] xác định khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân “ với lực lượng sẵn có, ta có thể tiến hành một cuộc khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương, cũng có thể giành thắng lợi mà tiến lên một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”.

Điểm nổi bật trong chủ trương khởi nghĩa vũ trang của Hội nghị 8 là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.

b. Chủ trương đó được vận dụng trong cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở nước ta năm 1945 .

- Khởi nghĩa từng phần [ từ giữa tháng 3 đến trước Tổng khởi nghĩa]:

+ Khi Nhật đảo chính Pháp, Hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng thông qua chỉ thị “ Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị đã chỉ rõ cuộc đảo chính tạo ra khủng hoảng chính trị nhưng thời cơ tổng khởi nghĩa chưa chín muồi, kẻ thù cụ thể trước mắt, khấu hiệu cách mạng, phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa với hình thức đấu tranh từ bãi công, phá phách ... đến hình thức cao nhất là chiến tranh du kích, khởi nghĩa từng phần.

+ Một số cuộc khởi nghĩa từng phần ở địa phương đã nổ ra : ở Cao -Bắc- Lạng, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quânCứu quốc quân đã phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện và thành lập chính quyền nhân dân ở đó. ở Quảng Ngãi, tù chính trị nhà lao Ba Tơ đã nổi dậy, chiếm đồn binh giặc, thành lập chính quyền cách mạng và đội du kích Ba Tơ.

- Tổng khởi nghĩa.

Khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện, bọn Nhật và tay sai ở Đông Dương hoang mang, rệu rã, thời cơ vô cùng thuận lợi xuất hiện. Chớp thời cơ, Đảng ta họp Hội nghị toàn quốc quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc trước khi quân Đồng minh vào.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, và các Uỷ ban Việt Minh, nhân dân cả nước nhất tề vùng lên Tổng khởi nghĩa từ ngày 14 tháng 8 đến ngày 28 tháng 8, giành được chính quyền trong cả nước, trong đó thắng lợi ở Hà Nội [ 19 - 8 ], Huế [ 23 - 8 ], Sài Gòn [ 25 - 8 ] có ý nghĩa quyết định. Ngày 2 - 9- 1945, thay mặt Chính phủ trung ương lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

c.Nhận xét: Đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa là một đặc điểm nổi bật, là sự sáng tạo lớn của Đảng ta trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Câu 7. VềqQuá trình khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong toàn quốc của nhân dân Việt Nam năm 1945:

- Nêu đặc điểm nổi bật.

-Trình bày những nét chính về diễn biến của quá trình đó ?

ĐÁP ÁN.

a. Đặc điểm nổi bật.

- Thời gian: Cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong toàn quốc của nhân dân Việt Nam năm 1945 bắt đầu từ sau khi có chỉ thị “ Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”của Ban thường vụ Trung ương Đảng [ 12 tháng 3] với cao trào kháng Nhật cứu nước, kết thúc ngày 28- 8- 1945.

-Đặc điểm:Cuộc khởi nghĩa vũ trang có nhiều đặc điểm, trong đó đặc điểm nổi bật nhất là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa.

b.Những nét chính về diễn biến của quá trình khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

- Khởi nghĩa từng phần trong cao trào “ Kháng Nhật cứu nước”:

+ Bối cảnh:

Ngày 9/ 3/ 1945, Nhật đảo chính Pháp gây nên cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc trong hàng ngũ kẻ thù.Ban thường vụ Trung ương Đảng chủ trương phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, làm tiền dề cho Tổng khởi nghĩa và sẵn sàng chuyển sang Tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện.

+ Đặc điểm của cao trào “ Kháng Nhật cứu nước”: diễn ra mạnh mẽ trên cả nước, phong phú, đa dạng về nội dung, hình thức, kết hợp hỗ trợ lẫn nhau, trong đó nổi bật là chiến tranh du kích, khởi nghĩa từng phần lập chính quyền bộ phận:

* Cao- Bắc- Lạng: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với nhân dân nổi dậy giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện. Quân cách mạng đã mở rộng công tác vũ trang tuyên truyền, thành lập chính quyền nhân dân, củng cố các tổ chức Cứu quốc.

* Ngày 4/ 6 / 1945, khu giải phóng Việt Bắc được thành lập [ Cao- Bắc- Lạng- Hà- Tuyên- Thái].Uỷ ban Việt Minh lâm thời khu giải phóng đã thi hành 10 chính sách củaViệt Minh đem lại quyền lợi cho nhân dân. Khu giải phóng là hình ảnh thu nhỏ của nước Vịêt Nam mới.

* Khởi nghĩa từng phần nổ ra trong nhiều địa phương: 12/3 tù chính trị nhà lao Ba Tơ nổi dậy, chiếm đồn binh giặc, thành lập chính quyền cách mạng và đội du kích Ba Tơ.Các cuộc khởi nghĩa từng phần dẫn tới sự ra đời nhiều chiến khu trên cả nước.

* Ngoài ra, trong cao trào tiền khởi nghĩa còn có các phong trào phá kho thóc của Nhật để giải quyết nạn đói, tuyên truyền xung phong…

+ Ý nghĩa: Cao trào là cuộc tổng diễn tập của cách mạng,tạo tiền đề cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám.

- Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.

+ Điều kiện khởi nghĩa chín muồi:

* Cao trào kháng Nhật cứu nước đã đưa hàng triệu nhân dân lên trận tuyến dấu tranh, sẵn sàng đứng lên Tổng khởi nghĩa.

* Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện, bọn Nhật và chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim hoang mang, tan rã.

* Đảng Cộng sản Đông Dương quyết tâm lãnh đạo toàn dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền: Hội nghị toàn quốc của Đảng [ 13/ 8/1945], Đại hội quốc dân Tân Trào [ 16/ 8/1945] quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trog toàn quốc.

+ Nét chính Tổng khởi nghĩa:

* Chớp thời cơ, từ 14/8 à 28/8, nhân dân cả nước đã nhất tề nổi dậy giành chính quyền, trong đó thắng lợi khởi nghĩa ở Hà Nội [19/8], Huế [23/8], Sài Gòn[25/8] có ý nghĩa quyết định.

* Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 là cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ ra trong thời cơ lịch sử ngàn năm có một.

* Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Trung ương lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,mở ra kỉ nguyên mới trong lịch sử dân tộc.

Câu 8. Chủ trương về khởi nghĩa vũ trang của Đảng ta trong Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 [ 5 - 1941 ] ? Chủ trương đó được vận dụng trong cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở nước ta năm 1945 như thế nào ?

ĐÁP ÁN.

a. Chủ trương về khởi nghĩa vũ trang của Đảng ta trong Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 [ 5 - 1941 ] .

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 [ 10 đến 19 tháng 5 năm 1941] xác định khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân “ với lực lượng sẵn có, ta có thể tiến hành một cuộc khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương, cũng có thể giành thắng lợi mà tiến lên một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”.

Điểm nổi bật trong chủ trương khởi nghĩa vũ trang của Hội nghị 8 là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.

b. Chủ trương đó được vận dụng trong cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở nước ta năm 1945 .

- Khởi nghĩa từng phần [ từ giữa tháng 3 đến trước Tổng khởi nghĩa]:

+ Khi Nhật đảo chính Pháp, Hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng thông qua chỉ thị “ Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị đã chỉ rõ cuộc đảo chính tạo ra khủng hoảng chính trị nhưng thời cơ tổng khởi nghĩa chưa chín muồi, kẻ thù cụ thể trước mắt, khấu hiệu cách mạng, phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa với hình thức đấu tranh từ bãi công, phá phách ... đến hình thức cao nhất là chiến tranh du kích, khởi nghĩa từng phần.

+ Một số cuộc khởi nghĩa từng phần ở địa phương đã nổ ra : ở Cao -Bắc- Lạng, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quânCứu quốc quân đã phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện và thành lập chính quyền nhân dân ở đó. ở Quảng Ngãi, tù chính trị nhà lao Ba Tơ đã nổi dậy, chiếm đồn binh giặc, thành lập chính quyền cách mạng và đội du kích Ba Tơ.

- Tổng khởi nghĩa.

Khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện, bọn Nhật và tay sai ở Đông Dương hoang mang, rệu rã, thời cơ vô cùng thuận lợi xuất hiện. Chớp thời cơ, Đảng ta họp Hội nghị toàn quốc quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc trước khi quân Đồng minh vào.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, và các Uỷ ban Việt Minh, nhân dân cả nước nhất tề vùng lên Tổng khởi nghĩa từ ngày 14 tháng 8 đến ngày 28 tháng 8, giành được chính quyền trong cả nước, trong đó thắng lợi ở Hà Nội [ 19 - 8 ], Huế [ 23 - 8 ], Sài Gòn [ 25 - 8 ] có ý nghĩa quyết định. Ngày 2 - 9- 1945, thay mặt Chính phủ trung ương lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

c.Nhận xét: Đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa là một đặc điểm nổi bật, là sự sáng tạo lớn của Đảng ta trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Câu 9. Nêu hoàn cảnh ra đời, vai trò của các mặt trận dân tộc thống nhất đối với cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.

ĐÁP ÁN.

a. Tầm quan trọng của mặt trận.

Trong lịch sử dân tộc, đoàn kết là một truyền thống quý báu, là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi.Kế thừa và phát huy trền thống đó, Đảng ta chủ trương xây dựng khối liên minh công nông vững chắc, làm nòng cốt để tập hợp các giai cấp, tầng lớp yêu nước trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi.

b. Các mặt trận dân tộc thống nhất ởViệt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.

- Thời kì 1930 - 1935.

+ Cuối năm 1930, khi phong trào cách mạng dâng cao, quyết liệt, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra chỉ thị lập “ Hội phản đế đồng minh Đông Dương” với tư tưởng: lấy công nông làm động lực chính để đoàn kết toàn dân thành một tổ chức lực lượng thật rộng rãi, coi đó là điều kiện quyết định thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc.

+ Phong trào cách mạng 1930 - 1931 sớm bị đàn áp và từ 1932 - 1935 chúng ta phải đấu tranh phục hồi phong trào, chưa thành lập được mặt trận nhưng đã xây dựng được khối liên minh công nông làm cơ sở cho mặt trận hình thành ở giai đoạn sau.

- Thời kì 1936 - 1939.

+ Trước chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước, tháng 7 - 1936 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương nhằm đoàn kết rộng rãi các lực lượng chống bọn thực dân phản động thuộc địa và tay sai, đòi các quyền dân sinh dân chủ trước mắt. Đến tháng 3 - 1938, Đảng ta đổi tên mặt trận thành Mặt trận Thống nhất dân chủ Đông Dương.

+ Thông qua mặt trận, Đảng ta đã động viên, tập hợp tổ chức được đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu người, đưa họ lên trận tuyến đấu tranh, chuẩn bị cho thời kì cách mạng sau.

- Thời kì 1939 - 1945.

+ Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Nhật lăm le nhảy vào Đông Dương. Thực dân Pháp phát xít hoá bộ máy thống trị, ra sức bóc lột phục vụ nhu cầu chiến tranh. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương [ 11 - 1939 ] chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương gồm các Hội phản đế nhằm đoàn kết mọi lực lượng chống kẻ thù chủ yếu trước mắt là bọn đế quốc và tay sai.

+ Tháng 5 - 1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 chủ trương nêu cao hơn nữa vấn đề dân tộc, tập trung mọi lực lượng của dân tộc thực hiện cho kì được yêu cầu cấp bách là giải phóng dân tộc nên đã thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh [ Việt Minh ] gồm các hội Cứu quốc.

+ Hai mặt trận trên đã xây dựng được lực lượng chính trị hùng hậu cho cách mạng, quần chúng được rèn luyện trong các hình thức đấu tranh từ thấp đến cao, trên nền tảng đó mà xây dựng lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám 1945.

c. Kết luận.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng từ 1930 - 1945, Đảng ta luôn coi trọng việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân thông qua Mặt trận và các tổ chức quần chúng. Hình thức tổ chức mặt trận được thay đổi linh hoạt qua từng thời kì nhằm đáp ứng được yêu cầu của cách mạng.

Câu 10. Nêu vai trò của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945?

Vai trò vĩ đại của của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

- Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ [9/1939], nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng [6/1940]..., với tầm nhìn sâu rộng và sự nhạy bén thời cuộc, Nguyễn Ái Quốc nhận định thời cơ cho cách mạng Việt Nam đang đến gần... Ngày 28/01/1941, Người về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

- - Tại Hội nghị lần thứ 8 BCHTƯ Đảng [5/1941] do Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì, Người đã cùng với Trung ương Đảng hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được đề ra từ Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo thực hiện mục tiêu ấy...

Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 8 BCHTƯ Đảng có ý nghĩa quyết định thắng lợi của Cách mạng tháng Tám sau này.

- Người đã trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở Cao- Bắc– Lạng, xây dựng vùng này thành căn cứ địa cách mạng cho cả nước và làm cơ sở liên lạc với phong trào cách mạng thế giới...

- Ngày 19/05/1941, Người thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh[gọi tắt là Việt Minh], nhằm tập hợp hết thảy các lực lượng yêu nước đấu tranh giành độc lập dân tộc. Mặt trận Việt Minh có vai trò hết sức to lớn trong việc chuẩn bị cũng như trong tiến hành khởi nghĩa...

- Đi đôi với việc xây dựng lực lượng chính trị, Người chú trọng xây dựng lực lượng quân sự[tổ chức các lớp huấn luyện chính trị, quân sự, biên soạn tài liệu về chiến thuật du kích, chỉ thị tổ chức “Nam tiến”..., thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân [22/12/1944]...]. Người là cha đẻ của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Lực lượng vũ trang phối hợp với lực lượng chính trị thúc đẩy cách mạng phát triển...

- Sau ngày Nhật đảo chính, hất cẳng Pháp, độc chiếm Đông Dương[sự kiện mà Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã dự kiến từ trước], Người cùng Trung ương Đảng phát động cao trào “Kháng Nhật cứu nước” làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa...

- Người còn chỉ thị thành lập Khu giải phóng Việt Bắc [6/1945], đề ra 10 chính sách xây dung Khu giải phóng thành căn cứ địa cách mạng cho cả nước. Người trực tiếp lãnh đạo Khu giải phóng, mầm mống của nước Việt Nam mới đang hình thành...

- Nhận được tin Nhật Bản sắp đầu hàng, Người cùng Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập “Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc”, ra “Quân lệnh số 1”...phát lệnh Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong cả nước trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương...

+ Tại Hội nghị toàn quốc của Đảng [14-15/08/1945, tại Tân Trào- Tuyên Quang], Người cùng Trung ương Đảng vạch ra những phương châm, nguyên tắc tiến hành khởi nghĩa và quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền...

+ Người chủ toạ Đại hội quốc dân [16-17/08/1945, tại Tân Trào- Tuyên Quang], tranh thủ được sự nhất trí hoàn toàn của Đại hội đối với chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và Mặt trận Việt Minh. Người đảm nhận trọng trách lãnh đạo Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam mà Đại hội quốc dân đã uỷ thác...

+ Người gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Người cùng Trung ương Đảng lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu ...

- Ngày 02/09/1945, tại Quảng trường Ba Đình [Hà Nội], thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập do Người thảo ra, trịnh trọng tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập, đánh dấu thắng lợi hoàn toàn của Cách mạng tháng Tám 1945.

Câu 11. Qua việc phân tich những bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám, hãy làm rõ tính đúng đắn, sáng tạo của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc.

a.Đặt vấn đề: Cách mạng tháng Tám để lại nhiều bài học kinh nghiệm phong phú, qu‎‎ý báu; trong đó có hai bài học kinh nghiệm liên quan đến hai điểm sáng tạo của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo: Vấn đề xác định nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền, lực lượng cách mạng tư sản dân quyền.

b. Nội dung :

- Bài học thứ nhất của Cách mạng tháng Tám: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn, sáng tạo nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đưa nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai lên hàng đầu, nhằm tập trung lực lượng để thực hiện cho kì được yêu cầu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho Tổ quốc.

- Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt: Đánh đổ bọn đế quốc Pháp, bọn phong kiến và tư sản phản cách mạng, làm cho nước Việt Nam được độc lập...tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn phản cách mạng chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất, đem lại ruộng đất cho nông dân.

Các nội dung đó bao hàm cả nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, nhưng nhiệm vụ hàng đầu là chống đế quốc và tay sai giành độc lập tự do cho toàn thể dân tộc.

Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã xác định dúng hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với bọn đế quốc Pháp và tay sai nên nêu được hai nhiệm vụ cơ bản , trong đó mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn dân tộc nên nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc.

- Bài học thứ hai của Cách mạng tháng Tám: Đánh gía đúng và biết tập hợp , tổ chức lực lượng các giai cấp cách mạng, trong đó công nông là đội quân chủ lực. trên cơ sở liên minh công nông, biết khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, phân hoá và cô lập cao độ kẻ thù rồi tiến lên đánh đổ chúng.

- Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt: Lực lượng để đánh đổ đế quốc và phong kiến là công nông, tiểu tư sản; với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam chưa ra mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập.

Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã đánh giá đúng khả năng cách mạng của mỗi giai cấp, tầng lớp của Việt Nam, vì thế mở rộng tối đa lực lượng cách mạng, cô lập cao độ kẻ thù.

c.Nhận xét:

Những bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám là minh chứng cho tính đúng đắn, sáng tạo của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt. Những bài học đó sẽ được Đảng ta tiếp tục vận dụng sáng tạo trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ

Câu 12. Ti sao ngày 9 - 3 - 1945, Nht đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương ? Nêu chủ trương ca Ban Thường v Trung ương Đảng Cng sn Đông ơng đ ra trong chỉ thị Nht Pháp bn nhau và hành đng ca chúng ta”.

a] Ti sao Nhật đảo chính Pháp ?

- Ngày 22 - 9 - 1940, Nhật chính thc nhy vào Đông ơng, thc dânPháp đã câu kết với Nhật để đàn áp nhân dân Đông ơng nhưng sự cấu kết này ch tạm thi. Càng về sau mâu thuẫn Nht Pháp càng sâu sắc vì hai tên đế quc không thể ăn chung mt miếng mi béo b.

- Đầu năm 1945, Chiến tranh thế gii thứ hai bước vào giai đon kết thúc, phe phát xít liên tiếp thất bại trên các chiến trường, th đô Pari ca Pháp được gii png, chính qu yn Đờ Gôn lên cm quyn. mặt trận Thái Bình Dương, Nhật bị khn đn. Đông ơng, thc dân Pháp mun nhân hội đó ngóc đầu dy.

- Nhật bị tấn công liên tiếp, chỉ còn con đường duy nhất đi xuống các căn cứ phía Nam là qua Đông Dương nên phải giữ nơi này.

Để trừ hu ha v sau, Nht bt nglàm cuc đảo chính vào đêm 9 - 3 - 1945.

- Ti 9 - 3 - 1945, Nhật đo chính Pháp, Pháp đu hàng. Nhật tuyên b : “giúp các dân tc Đông ơng xây dựng nn độc lp”, dng Chính phủ bù nhìn Trn Trng Kim, đưa Bảo Đại làm Quc trưng”. Thc cht là độc chiếm Đông Dương, ng ng vơ vét, bóc lt và đàn áp man

nhng ngưi ch mng.

b] Chủ trương ca Ban Thưng v Trung ương Đảng…

- Nht đảo chính Pháp tạo nên cuộc khng hoảng chính trị sâu sắc. Tình hình đó rất thun li cho các mng Đông Dương phát trin nhanh chóng, mnh m hơn na. Chiến tranh thế gii li đang đi vào giai đon kết thúc. Thời cơ tng khởi nghĩa nhất định nhanh chóng đi đến chín mui.

- Nắm vững tình hình trên, ngày 12 - 3 - 1945, Ban Thường v Trung ương Đng Cộng sn Đông Dương ra ch thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành đng ca chúng ta, nhn đnh :

+ Kẻ thù chính ca nhân dân Đông Dương: phát xít Nhật.

+ Khẩu hiệu: Đánh đui phát xít Nht.

+ Hình thc đấu tranh: từ bất hợp tác bãi công, bãi th đến biu nh, thuy, vũ trang du kích và sn sàng chuyn qua tng khởi nghĩa khi điều kin.

+ Ch trương Phát động mt cao trào kháng Nht cu nước mnh mẽ làm tin đề cho cuc tng khởi nghĩa.

- Bản chỉ thị này đã th hiện sự lãnh đo sáng sut, kiên quyết, kp thi ca Đng Cộng sn Đông Dương, kim ch nam cho mi hành động ca Đảng và Mặt trận Việt Minh trong cao trào kháng Nhật cu nước, trc tiếp dẫn đến thắng li ca cuộc Tng khởi nghĩa tng Tám 1945.

Câu 13. Hãy phân tích bài hc kinh nghiệm v bo lực cách mạng và khởi nghĩa vũ trang trong cuộc Tng khi nghĩa tháng Tám 1945.

- Thấu sut tư ng cách mng bo lực ca ch nghĩa Mác Lênin, coi bo lc ch mng là bo lc ca qun chúng, ra sức xây dng lc lưng chính trị qun cng làm s, đến mt giai đoạn cần thiết khéo kết hợp xây dng lc lưng chính tr với lực lưng trang.

- Trong quá trình xây dựng lc lưng, kết hợp gia đu tranh chính trị với vũ trang mức độ thích hợp, kết hợp vi phong trào nông thôn phong trào thành th; khi điu kin t tiến hành khi nghĩa từng phn, tiến lên tng khi nghĩa.

- Bạo lc trong cuc Cách mng tháng Tám 1945 chính là bạo lc ca quân đội chính trị hùng hậu ca qun chúng, lc lưng trang làm nòng ct xung kích, đã đp tan b máy thng trị, giành được thng li cho cách mng.

- Trên sở chun bị lc lưng chu đáo, nắm vng và vn dng sáng tạo quan điểm bạo lực cách mng ca ch nghĩa Mác Lênin, chủ động nắm bt thi cơ, Đảng Cng sản Đông ơng đã kp thi h quyết tâm chính xác, lãnh đạo toàn dân ni dy giành chính quyền. Sức mnh tổng hợp ca việc kết hợp lc lưng chính trquần chúng vi lc lưng vũ trang, trong đó lc lưng ca đo quân chính trị qun chúng là lc lưng to ln nhất, đã đưa cách mạng đến thắng li.

Câu 14. Trình bày và nhận xét v chủ trương tập hp lc lượng và ch trương chuẩn bị khi nghĩa vũ trang giành chính quyền được đề ra ti Hi nghị ln thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đng Cộng sản Đông Dương [5 1941].

a] Chủ trương tập hp lực lưng :

- Ch trương thành lập Mt trận Vit Nam đc lập đồng minh, đi tên các Hội Phn đế thành Hi Cứu quc, nhằm tập hợp rng rãi mi tầng lp, giai cp nhân yêu nước.

- Nhn xét : Ch trương trên đã huy đng đến mc cao nhất lực lưng toàn dân tc thực hin nhiệm v số mt là giải phóng dân tc, giành độc lp, t do. Khc phc hn chế ca Lun ơng chính trị tháng 10 - 1930 và khng định ch trương đúng đắn trong ơng lĩnh chính trị đầu tiên ca Đảng, góp phn trc tiếp đưa ch mng tháng Tám đến thành công. b] Chủ trương khởi nghĩa trang giành chính quyền :

- Hội nghị xác đnh hình thái ca cuc khởi nưc ta đi từ khởi nghĩa tng phn tiến lên tng khi nghĩa kết luận : chun bị khi nghĩa là nhiệm v trung tâm ca toàn Đng, toàn dân trong giai đon hin ti.

- Nhn xét : Đây mt ch trương đúng đn, sáng to phù hp với thực tin cách mng Việt Nam, nhằm gii quyết mc tiêu s mt ca ch mng là gii phóng dân tộc, góp phần trc tiếp đưa ch mng tháng Tám đến thành công.

- Mục tiêu đu tranh: tạm gác các khẩu hiệu “độc lp dân tc” và “cách mng rung đt”, chỉ đòi các quyn tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Nhưng đó cũng quyn lợi ca dân tc.

- V lc lưng: hết sc rng i, bao gồm mọi lc lưng dân ch, k cả mt b phn nhng người Pháp có xu hướng chống phát xít, nhưng lc lưng đông đo nhất vẫn là lc lưng dân tộc.

- Phong trào dân ch là mt giai đoạn chuẩn bị cho cuc cách mạng giải phóng dân tc sau y.

Vì nhng lý do trên, phong trào 1936 1939 là mt cuc vn đng dân ch, nhưng vn mang nh cht dân tộc.

Câu 19. Li dụng mâu thun trong hàng ngũ k thù, tp hp mọi tng lớp yêu nước y dựng khối đn kết toàn dân trong các Mặt trận dân tc thng nht, đã được Đng Cng sn Đông Dương xúc tiến như thế nào trong nhng năm 1936 - 1945?

Để phát huy sc mnh của đông đảo toàn dân, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ k thù, trong q trình nh đo cách mạng từ năm 1936 đến

1945, Đảng Cộng sn Đông ơng đã tp hợp mọi tng lớp yêu nước xây dng khối đại đoàn kết toàn dân trong các Mt trn dân tộc thng nhất phù hp theo tng thi kì.

a] Thời kì 1936 - 1939 :

- Đng Cộng sản Đông Dương thành lập Mặt trận Thng nht Nhân dân Phn đế rng rãi bao gm các giai cấp, các đng phái, các đoàn thể chính trị tín ngưng tôn giáo khác nhau, các dân tc x Đông Dương đ cùng nhau tranh đu đòi quyn lợi hàng ngày cho toàn dân, chng chế đ thuc đa vô nhân đạo...

- Tháng 3 - 1938, Đảng đổi tên “Mặt trn Thống nhất Nhân dân Phản đế thành Mt trn Dân ch Đông ơng vi các hình thc tổ chức và đấu tranh linh hoạt nhằm đng viên hàng triệu quần chúng vào trn tuyến đấu tranh đòi các quyền dân ch, dân sinh, chuẩn b đưa qun chúng tiến lên trn chiến cao hơn.

b] Thời kì 1939 - 1945 :

- Hi nghị Ban Chấp hành Trung ương Đng tháng 11 - 1939 chủ trương thành lập “Mặt trận Thống nht Dân tộc phn đế Đông ơng” thay cho mt trận Dân ch Đông ơng không còn phù hp vi nh hình và nhiệm v mi ; xác định gii png dân tc nhiệm v hàng đu và cấp bách ca cách mng Đông Dương ; tm gác khẩu hiệu cách mng rung đt, ch đ ra khẩu hiệu tịch thu rung đt ca đ quc và lập và địa chủ phản bội quyn lợi dân tc, chng tô cao, lãi nng. Khẩu hiệu lập chính quyền xô viết công, nông, bình được thay thế bằng khẩu hiệu lp chính quyn dân chủ cng hoà.

- Tháng 5 - 1941, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương nhn đnh : quyền li sinh tồn ca cả dân tc, Đng phải nêu cao ngọn cờ dân tc, khơi dy mnh mẽ chí khí cách mng, tinh thần yêu nước trong mi tng lớp nhân dân, tập trung mi lc lưng dân tộc th hin cho đưc nhim v ct yếu là gii phóng dân tộc, cu t quc. Ngày 19 - 5 - 1941, “Việt Nam đc lập đng minh hi gi tắt là Mặt trận Vit Minh ra đi... Các gii qun chúng đưc t chc tập hp trong các hội cứu quc : Công nhân cu quc, Nông dân cứu quốc, thanh niên cứu quc, phụ n cứu quc... Năm tháng sau, Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ ca Vit Minh đưc công b chính thc. Chương trình cứu nước ca Việt Minh được đông đo c tng lớp nhân dân ng h- Sau khi ra đi, Việt Minh đã thiết lập các tổ chc khắp nông thôn, thành thị có h thng từ trung ương đến cơ sở. Mt s t chc chính tryêu nước ra đời tham gia làm thành viên Mt trận Vit Minh như Đảng Dân chủ Vit Nam [tháng 6 - 1944]. Lực lưng chính tr qun chúng ngày càng đông đo được rèn luyện trong đu tranh chng Pháp - Nhật theo khẩu hiệu ca mặt trn Việt Minh

Câu 20. Nêu nhng bài hc kinh nghiệm ca Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Vit Nam. Suy nghĩ của em về vic vn dụng nhng bài hc kinh nghim đó trong công cuc bảo vệ T quốc và toàn vẹn lãnh th nước ta hiện nay.

a. Bài học kinh nghiệm:

- Đảng phải đường lối đúng đắn, trên sở vn dng sáng to ch nghĩa Mác – Lê nin vào thc tiễn cách mạng Việt Nam; nắm bắt tình hình thế giới trong nước để đề ra chủ trương, biện pháp cách mạng phù hợp.

- Đảng tập hợp, tổ chc các lc lượng yêu nước rộng rãi trong mặt trn dân tộc thống nhất Mặt trận Việt Minh, trên s khi liên minh công nông; phân hóa và lập kẻ thù để tiến lên đánh bại hoàn toàn chúng.

- Trong ch đạo khởi nghĩa, Đảng linh hoạt kết hp đu tranh chính trị với đu tranh trang, tiến hành khởi nghĩa tng phn, dự đoán chớp thời Tổng khởi nghĩa trong cả nưc.

b. Suy nghĩ của em…

Học sinh cơ bản trình bày các ý sau:

- Giữ vng sự lãnh đạo của Đng, kiên trì đường lối đc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội, bảo vệ toàn vn lãnh th.

- Tập hợp đoàn kết toàn dân, phát huy sc mạnh tổng hợp của dân tộc thời đại, kiên trì đường li hòa bình, phát huy sc mạnh toàn diện trên tất cả các mặt trận, từ kinh tế, chính trị, quân s, ngoại giao, văn hóa, giáo dc.

- Đng thi, bài học chớp thời của Cách mạng tháng Tám cũng đòi hỏi chúng ta vận dụng, tận dng được nhng điu kiện hội nhp, mở ca tranh thủ cơ hội từ bên ngoài để phát triển đất nước, kết hợp sức mạnh của dân tộc với tăng cường đoàn kết quốc tế.

Câu 21. Trong tình hình lịch sử nào của thời kỳ 1939-1945, Đảng Cộng sản Đông Dương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu? Phân tích ý nghĩa của chủ trương này. Chủ trương này có mâu thuẩn với mục tiêu chống đế quốc và chống phong kiến được đề ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930 không? Vì sao?

1- Tình hình lịch sử... [1,5 điểm]

a- Tháng 9-1939 chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ Phát xít Đức lần lượt xâm chiếm các nước Châu Âu. Pháp thất bại [6-1940], LX tham gia chiến tranh [6-1941]. Ở Viễn Đông, Nhật tiến hành xâm chiếm các nước, gây ra cuộc chiến tranh ở châu Á- Thái Bình Dương [12-1941].

b- Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến, phát xít hóa bộ máy thống trị, đàn áp phong trào CM của nhân dân ta, chĩa mũi nhọn vào Đảng CSDD.... Tiếp đó, từ tháng 9-1940, Pháp đã cấu kết với Nhật đàn áp và bóc lột nhân dân ta, làm cho mâu thuẩn giữa dân tộc VN với đế quốc PX trở nên gay gắt hơn lúc nào hết.

c- Đảng ta trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, đã thực hiện sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Chủ trương đó được thể hiện trong nghị quyết Trung ương 6 [11-1939], NQTW7 [11-1940] và NQTW8 [5-1841]

2- Ý nghĩa của chủ trương trên: [2 điểm]

a- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ đúng đắn giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ của cách mạng nước ta, khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

b- Làm phân hóa hàng ngũ kẻ thù, lôi kéo được một bộ phận giai cấp địa chủ phong kiến yêu nước đi theo CM.

c- Khơi dậy được tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước của đông đảo giai cấp, tầng lớp XH, nhằm đoàn kết tập hợp những người yêu nước trong một Mặt trận thống nhất để chĩa mũi nhọn vào đế quốc PX, giải phóng dân tộc.

3- Chủ trương có mâu thuẩn..... [1,5 điểm]

a- Chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu không mâu thuẩn với mục tiêu chống đế quốc và chống PK được đề ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.

b- Vì chủ truương này phù hợp với mục tiêu nhiệm vụ do Cương lĩnh đầu tiên đề ra, bao hàm cả nhiệm vụ chống đế quốc và chống PK nhưng nổi bật là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai phản động, giành độc lập tự do cho toàn thể dân tộc.

Câu 22. Trong "Tuyên ngôn độc lập" [2-9-1945] có đoạn viết: " Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập". Căn cứ vào những cơ sở nào mà Hồ Chí Minh đã khẳng định như vậy?

1- Ngày 2-9-1945, trong lể tuyên bố độc lập, Hồ Chí Minh đã nói: “nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập ". Lời khẳng định đó có cơ sở pháp lý quốc tế và lịch sử của nó

2- Tự do, độc lập, bình đẳng, mưu cầu hạnh phúc là quyền thiêng liêng của tất cả các dân tộc trên thế giới. Chân lý đó được thể hiện trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ [1776] và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp [1781] đã được toàn thể nhân loại trên thế giới thừa nhận: “ Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".; " người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi " do đó, dân tộc Việt Nam cũng có quyền hưởng tự do và độc lập.

3- Từ ngày thực dân Pháp xâm lược [1858] đến khi cách mạng tháng Tám thành công [1945], dân tộc Việt Nam đã trải qua hơn 80 năm đấu tranh gian khổ chống Pháp rồi chống Nhật với các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, theo khuynh hướng dân chủ tư sản, và cuối cùng là phong trào cách mạng vô sản. Đặc biệt trong thời kỳ 1939- 1945, Đảng ta, dân tộc ta đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tích cực chuẩn bị về mọi mặt và kịp thời chớp lấy thời cơ, tự mình giành độc lập từ tay Nhật, tự mình giải phóng cho mình.

Do đó, nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập vào cuối tháng 8-1945. Bản tuyên ngôn độc lập [2-9-1945] chính là thành quả phấn đấu, hy sinh của nhiều thế hệ người Việt Nam yêu nước mới có được.

Câu 23. Hãy trình bày ngắn gọn hai sự kiện thể hiện rõ nhất về mối quan hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1945.

Trình bày 2 sự kiện thể hiện rõ nhất mối quan hệ…..

-Sự kiện 1: Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và Hội nghị Ban Thường vụ TƯ Đảng……

*Trước nguy cơ bị tấn công từ nhiều phía, đêm 9-3-1945 phát xít Nhật đã đảo chính Pháp trên toàn ĐD và quân Pháp thất bại nhanh chóng. ĐD trở thành thuộc địa độc chiếm của Nhật………..

*Ngay đêm 9-3-1945, Thường vụ TƯ Đảng đã họp tại Đình Bảng[Từ Sơn-BN] và ngày 12-3-1945 ra chỉ thị “ Nhật- Pháp bắn nhau……..”….

-Sự kiện 2: Nhật đầu hàng Đồng minh và Hội nghị toàn quốc của Đảng:

*Đầu tháng 8-1945, Đồng minh tấn công mạnh mẽ FX Nhật; ngày 6 và 9-8 Mĩ ném hai quả bom……..ngày 8-8-1945 Liên Xô tuyên chiến……..đến ngày 15-8-1945 Nhật tuyên bố đầu hàng……làm quân Nhật ở ĐD rệu rã, chính quyền tay sai hoang mang…

*Khi nghe tin Nhật chuẩn bị đầu hàng, ngày 14,15-8-1945 Hội nghị Toàn quốc

Câu 24. Nhiệm vụ trung tâm của thời kì cách mạng 1939-1945 là gì? Nêu nội dung sự kiện đã đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này?

a.Nhiệm vụ trung tâm của thời kì cách mạng 1939-1945 là đấu tranh giải phóng dân tộc.

b.Sự kiện đã đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là Hội nghị BCH TƯ Đảng cộng sản Đông Dương tháng 11/1939, được tổ chức tại Bà Điểm – Hóc Môn [Gia Định], do đồng chí Nguyễn Văn Cừ chủ trì.

- Nội dung

+ Xác định nhiệm vụ, mục tiêu trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.

+ Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và bọn địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc chống địa tô cao, lãi nặng.

+ Thành lập chính quyền dân chủ cộng hoà thay cho chính quyền xô viết công, nông, binh.

+ Chuyển từ đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh dân chủ sang đòi lật đổ chính quyền đế quốc và tay sai, từ đấu tranh công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp sang đấu tranh bí mật, bất hợp pháp.

+ Thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.

- Ý nghĩa: đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, mọi nhiệm vụ khác phải phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Câu 25. Đảng Cộng sản Đông Dương đã có chủ trương gì để tập hợp lực lượng cách mạng trong những năm 1939 - 1945? Chủ trương đó được kế thừa như thế nào trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay? Phát biểu suy nghĩ của em về vai trò của việc đoàn kết dân tộc.

Chủ trương tập hợp lực lượng của Đảng Cộng sản Đông Dương từ 1939 - 1945

- Taị hội nghị BCH TW Đảng tháng 11/1939:

Để thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc, phong kiến tay sai, giải phóng dân tộc, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Đảng chủ trương thành lập mặt trận “Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương” [gọi tắt là Mặt trận phản đế Đông Dương] thay cho mặt trận dân chủ Đông Dương…

- Tại hội nghị BCHTW Đảng tháng 5/1941:

+ Đầu năm 1941, tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến mau lẹ. Đứng trước yêu cầu giải phóng dân tộc ngày càng cấp thiết, hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5/1941 được triệu tập, hội nghị đã xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc…Hội nghị quyết định thành lập mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh [Việt Minh] thay cho Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, thay tên các hội phản đế thành các hội Cứu quốc và giúp đỡ việc thành lập mặt trận ở Lào, Campuchia.

+ Đảng chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương. Đây là chủ trương sáng tạo nhằm phát huy sức mạnh tự lực mỗi nước Đông Dương, nâng cao hơn nữa ý thức đoàn kết và sức mạnh dân tộc.

- Từ sau hội nghị BCHTW tháng 5 - 1941, Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng toàn diện bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Đến trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Đảng đã tập hợp được lực lượng cách mạng hùng hậu: hầu khắp cả nước đều có tổ chức của Việt Minh, các lực lượng vũ trang được hợp nhất thành Việt Nam giải phóng quân...

- Trong tháng Tám năm 1945, khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, thời cơ cách mạng đã chín muồi. Để phát động lệnh tổng khởi nghĩa trên cả nước, Đảng đã triệu tập Đại hội quốc dân tại Tân Trào - Sơn Dương - Tuyên Quang [ngày 16 và 17 tháng 8 năm 1945],…thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh đứng đầu. Nhờ đó, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết, quyết tâm đứng lên tổng khởi nghĩa, giành chính quyền thắng lợi.

Chủ trương đó được kế thừa như thế nào trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay?

- Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đóng vai trò thiết thực, đoàn kết nhân dân thực hiện các quyền làm chủ của nhân dân, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia,… từng bước thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước…

Phát biểu suy nghĩ về vai trò của việc đoàn kết dân tộc:

Học sinh phát biểu suy nghĩ cá nhân, nhưng cần nêu được: đoàn kết là cội nguồn tạo nên sức mạnh của dân tộc…

Câu 26:Tóm tắt sự bùng nổ và lan rộng của cuộc chiến tranh thế giới ll [1939-1941] và nêu ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam.

a] Chiến tranh thế giới ll bùng nổ:

· Tóm tắt sự kiện:

- Ngày 1/9/1939, Đức tấn công Ba Lan. Ngày 3/9/1939, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức.

Ở Viễn Đông, Nhật mở rộng xâm lược Trung Quốc, tiến sát biên giới Việt-Trung, uy hiếp Đông Dương. Cuối năm 1941, Nhật gây chiến tranh Thái Bình Dương, tiến công hạm đội Mĩ ở cảng Trân Châu rồi chiếm các thuộc địa của Mĩ và Anh ở trên biển và trong đất liền.

- Chính phủ Pháp ngả dần sang phái hữu -> phản động Pháp ở Đông Dương ngóc đầu dậy chống phá cách mạng, đàn áp phong trào dân chủ, đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. Chúng thi hành chính sách kinh tế chỉ huy nhằm vơ vét tiền của để bỏ vào cuộc chiến tranh đế quốc mà nước Pháp cũng tham gia.

· Ảnh hưởng: Khả năng hoạt động hợp pháp công khai không còn nữa, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc tay sai phát triển gay gắt. Đảng rút vào hoạt động bí mật, trung ương Đảng họp hội nghị tháng 11/1939 quyết định đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, đưa nhân dân bước vào cuộc vận động trực tiếp giải phóng dân tộc.

b] Chiến tranh thế giới ll lan rộng:

· Tóm tắt sự kiện:

- Tháng 6/1940, Đức chiếm nước Pháp, chính phủ Đờ-gôn bỏ chạy, chính phủ phản động Pê-tanh lên cầm quyền. Đức chuyển hướng tấn công về phía Đông chiếm các nước Đông Âu và Nam Âu, biến tất cả các quốc gia này thành thuộc địa của chúng. Tháng 6/1941, Đức huy động lực lượng lớn 2 triệu quân, 2000 xe tăng, 2000 đại bác ồ ạt tiến công vào Liên Xô. Lúc đầu hồng quân Liên Xô buộc phải rút lui.

- Ở châu Á, Nhật gây sức ép buộc Pháp ở Đông Dương phải nhượng bộ:

o Phải đóng cửa biên giới Việt-Trung.

o Thừa nhận, chấp nhận có những đặc quyền đặc biệt ở Đông Dương.

o Cho Nhật đưa quân vào phía Bắc sông Hồng và sử dụng sân bay ở Bắc Kì [9/1940].

o Tháng 9/1940, Nhật vào Đông Dương. Tháng 8/1941, Nhật-Pháp kí hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương, cam kết hợp tác với Nhật trên mọi phương diện.

· Ảnh hưởng: Những điều này khiến nhân dân Đông Dương phải chịu cảnh “1 cổ 2 tròng”, mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc Pháp, phát xít Nhật và tay sai vô cùng gay gắt.

KẾT LUẬN

Cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945 với kết quả là sự thành công của Cách mạng tháng Tám là một phần của lịch sử cuộc đấu tranh oanh liệt của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh để giành lại nền độc lập dân tộc, thiết lập một chính quyền mới, đưa người dân lao động lên nắm quyền làm chủ vận mệnh đất nước. Cuộc Cách mạng này là kết quả cuẩ cuộc đấu tranh đầy gian khổ, là sự tiếp nối của truyền thống yêu nước quật cường, tinh thần đoàn kết của dân tộc; thể hiện nhãn quan chính trị nhạy bén, sự sáng tạo của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh. Các nhân tố ấy cùng với những điều kiện khách quan thuận lợi đã làm nên chiến tích vĩ đại mở ra bước ngoặt vĩ đại của lịch sử dân tộc.

Quá trình vận động giải phóng dân tộc 1939-1945 với thành quả là cuộc Cách mạng tháng Tám đã để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Tinh thần bất diệt ấy cần được phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay: Kiên định mục tiêu, lí tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; tranh thủ thời cơ thuận lợi, chủ động khắc phục khó khăn, đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Với kinh nghiệm nhỏ mà tôi tích lũy được trong quá trình trực tiếp giảng dạy tại trường phổ thông tôi đã mạnh dạn viết chuyên đề " Cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945" Mặc dù đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên chuyên đề " Cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945" là một vấn đề khó, phức tạp, kiến thức của bản thân còn hạn hẹp nên chuyên đề còn một số hạn chế. Với tinh thần cầu thị và học hỏi tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các đồng nghiệp để chuyên đề được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình lịch sử Việt Nam, NxbGD 2000.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Nxb sự thật, 2002.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

4. Tài liệu ôn thi HSG môn Lịch sử, NxbGD,2016

5. Một số nội dung khó môn Lịch sử, NxbGD,2017

Video liên quan

Chủ Đề