Công văn thay đổi tài khoản trong hợp đồng năm 2024

Căn cứ Hợp đồng dịch vụ số: ………….. đã ký ngày …./…./20…., hai bên thỏa thuận và bổ sung các nội dung ghi trong bảng kê của Phụ lục này vào Hợp đồng. Bên B cam kết thực hiện các công việc được ghi theo các bảng kê dưới đây theo yêu cầu bên A, cụ thể:

Trước hết Công ty TNHH Một thành viên Dịch vụ công ích quận Gò Vấp xin trân trọng cảm ơn sự tin cậy và sự hợp tác của Quý khách hàng, Quý công ty và Quý đối tác trong suốt thời gian qua

Công ty chúng tôi xin thông báo kể từ ngày 02/02/2017 tài khoản của công ty chúng tôi tại ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - chi nhánh 9 sẽ thay đổi như sau:

Tài khoản cũ: 102010000159102

Tài khoản mới: 114000007639

Kính mong quý khách hàng, Quý công ty thực hiện giao dịch thanh toán với công ty chúng tôi thông qua tài khoản mới kể từ ngày 07/02/2017.

Hiện tại công trình thi công đã gần hoàn thiện, có biên bản nghiệm thu, có bảng thanh toán giá trị khối lượng hoàn thành [03a] đã được ký xác nhận giữa chủ đầu tư và nhà thầu.

Tuy nhiên, để thuận tiện cho công tác thanh toán tiền mua vật liệu và tiền thuê máy thi công, chủ đầu tư [BQLDA] và nhà thầu đã ký phụ lục hợp đồng thỏa thuận thanh toán trực tiếp từ chủ đầu tư cho đơn vị cung cấp vật liệu và thuê máy [có hợp đồng giữa nhà thầu và đơn vị mua bán vật liệu và thuê máy thi công].

Ông Chính hỏi, trong trường hợp này phụ lục hợp đồng ký có đúng quy định không? Việc chuyển tiền thanh toán cho đơn vị khác ngoài hợp đồng ký ban đầu có được không?

Về vấn đề này, Bộ Xây dựng trả lời như sau:

Việc thanh toán hợp đồng xây dựng được thực hiện theo nội dung hợp đồng đã ký kết giữa các bên, phù hợp với hồ sơ mời thầu, hồ sơ dự thầu và quy định của pháp luật áp dụng cho hợp đồng đó.

Theo quy định của pháp luật về hợp đồng xây dựng thì một trong những nguyên tắc ký kết hợp đồng xây dựng là “Tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, không trái pháp luật và đạo đức xã hội”. Do đó, trường hợp các bên có thỏa thuận chủ đầu tư trực tiếp thanh toán cho đơn vị cung cấp vật liệu và thuê máy thi công trên cơ sở đề xuất của nhà thầu chính thì các bên căn cứ thỏa thuận hợp đồng để thực hiện, đảm bảo tuân thủ đúng quy định pháp luật, quản lý chặt chẽ nguồn vốn đầu tư, tránh thất thoát.

Tình huống: Công ty Việt Nam [Nguyên đơn - Bên bán] ký hợp đồng mua bán với Công ty Mỹ [Bị đơn - Bên mua]. Trong quá trình thực hiện, các Bên có thư từ trao đổi liên quan đến một khoản tiền phải thực hiện trong hợp đồng. Khi có tranh chấp, trên cơ sở quy định về đề nghị, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, Hội đồng Trọng tài xác định các bên chưa đạt được thỏa thuận về nội dung trong thư được trao đổi.

Ý kiến: Trong quá trình thực hiện hợp đồng, không hiếm trường hợp các bên đưa ra những đề xuất, trao đổi theo hướng làm thay đổi những nội dung mà các bên đã giao kết. Những đề xuất, trao đổi này được xử lý như thế nào? Trong vụ việc trên, vào ngày 10/11/2011, Bên mua gửi cho Bên bán một văn bản đề nghị được tạm giữ một khoản tiền và đồng ý thanh toán các khoản tiền sau: 112.850 USD cho PO 8161; 112.224 USD cho PO 8181; và 57.302 USD cho PO 8205. Cùng ngày, Bên bán gửi cho Bên mua một văn bản đồng ý để Bên mua tạm giữ khoản tiền mà Bên mua đưa ra nhưng có ghi rõ Bên mua sẽ thanh toán các khoản sau: 117.936 USD cho PO 8161; 112.224 USD cho PO 8181; và 57.302 USD cho PO 8205. Ở đây, các Bên đã thống nhất về nội dung trong văn thư trao đổi không? Theo Hội đồng Trọng tài, “hai Thư đề nghị này chỉ có chữ ký của đại diện của Bên đưa ra Thư đề nghị và có nội dung không thống nhất với nhau [lời đề nghị của một Bên không được Bên kia chấp nhận toàn bộ]. Do đó, hai Thư đề nghị này không ràng buộc các Bên trên cơ sở Điều 396 Bộ luật dân sự năm 2005 theo đó chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị”. Như vậy, Hội đồng Trọng tài đã dựa vào các quy định về giao kết hợp đồng để cho rằng các bên chưa đạt được thống nhất nên những nội dung trong thư trao đổi không ràng buộc các bên. Thực ra, thư của Bên mua gửi cho Bên bán như nêu trên hoàn toàn có thể được coi là một lời đề nghị giao kết hợp đồng [để thay đổi những nội dung của hợp đồng đã tồn tại giữa các bên] trên cơ sở khoản 1 Điều 390 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 1 Điều 386 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể” và “đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng”. Ở trường hợp này, Bên mua đã đưa ra đề xuất và gửi cho Bên bán [chủ thể được xác định] và nếu Bên bán đồng ý đề xuất của Bên mua thì những nội dung trong đề xuất của Bên mua ràng buộc cả hai bên [làm thay đổi một số nội dung của hợp đồng đang tồn tại giữa các Bên]. Tuy nhiên, bản thân lời đề nghị giao kết hợp đồng chưa đủ để tạo ra hợp đồng [nhằm thay đổi hợp đồng đang tồn tại]. Để lời đề nghị ràng buộc các Bên, lời đề nghị này phải được chấp nhận theo các yêu cầu của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Cụ thể, theo Điều 396 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 393 Bộ luật dân sự năm 2015, “chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị”. Trong vụ việc trên, Bên bán đã trả lời chấp nhận nhưng tại sao Hội đồng Trọng tài lại cho rằng nội dung các thư trên không ràng buộc các Bên? Thực ra, bản thân việc trả lời chấp nhận chưa đủ. Với quy định trên, để trả lời chấp nhận được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng [để thay đổi hợp đồng đang tồn tại] thì nội dung trả lời phải đáp ứng điều kiện là “chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị”. Ở đây, Bên bán có trả lời chấp nhận đề xuất của Bên mua nhưng lại không “chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị” mà có đưa ra sự điều chỉnh so với lời đề nghị như lời đề nghị có nội dung “112.850 USD cho PO 8161” còn lời chấp nhận có nội dung “117.936 USD cho PO 8161”. Vì thế, lời chấp nhận của Bên bán không được coi là một lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng [để sửa đổi hợp đồng đang tồn tại]. Từ vụ việc trên, doanh nghiệp có thể rút ra hai điểm đáng lưu ý sau: Thứ nhất, đề xuất và chấp nhận đề xuất thay đổi nội dung hợp đồng đang tồn tại chịu sự điều chỉnh của các quy định chung về đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng [ở đây là đề nghị và chấp nhận sửa đổi hợp đồng đang tồn tại]. Thứ hai, để chấp nhận ràng buộc các bên sau lời đề nghị thì lời chấp nhận phải có nội dung là chấp nhận toàn bộ nội dung lời đề nghị. Do đó, nếu bên được đề nghị chỉ chấp nhận một phần hay chấp nhận nhưng có thay đổi so với lời đề nghị thì đây không là lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng để tạo ra một hợp đồng mới [lúc này lời chấp nhận có thể được coi là một lời đề nghị giao kết mới trên cơ sở Điều 395 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 392 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới”].

Về đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, xem Chủ đề số 1.

Chủ Đề