Cổ thi phật tổ để một phong nghĩa là gì năm 2024

l�m quan tới chức Kinh Doanh Tiết Độ Sứ, nguy�n qu�n ở Th�i Ch�u thuộc tỉnh Triết Giang c� vợ l� M�ng Thị.

Cả hai vợ chồng đều l� người hiền l�nh hay l�m việc bố đức thi �n, cứu gi�p những người c�ng khốn n�n d�n ch�ng xưng tụng l� L� THIỆN NH�N. V� lớn tuổi m� chưa c� con n�n cả hai mới đến ch�a Quốc Thanh ở n�i Thi�n Thai m� cầu nguyện. Sau đ�, b� M�ng Thị mang thai v� cậu b� được sinh ra.

Thấm tho�t c�ng tử đ� l�n 7 tuổi, t�nh t�nh hiền hậu, trọn ng�y biếng n�i �t cười lại kh�ng th�ch chuyện chơi đ�a c�ng đồng bạn m� chỉ thường hay một m�nh nhắm mắt ngồi lặng, kh�c hẳn mọi đứa trẻ tầm thường. Cậu L� tuy c�n nhỏ xong rất mực th�ng minh, bất cứ s�ch g� chỉ liếc mắt xem qua l� thuộc, học một biết mười.Thầy dạy học phải thường thầm khen đ�y l� một trẻ kỳ t�i, sau sẽ l� một bậc gi�p �ch cho đời. Năm cậu 14 tuổi đ� l�u th�ng c�c s�ch Tứ thư, Ngũ kinh, B�ch gia, Chư Tử, hằng ng�y c�ng bạn th�n, ng�m thơ b�n luận, lời lẽ tinh tường v� c� � tứ cao xa. Một điểm đặc biệt l� cậu chỉ th�ch đọc Kinh s�ch Phật m� hễ đọc đ�u nhớ đấy, tr� tuệ minh mẫn v� c�ng.

Cha mất n�n Cậu L� kh�ng đi thi, ở nh� chịu tang; chỉ ngồi xem kinh s�ch v� th�m nhập mọi lẽ huyền vi của Đạo. Năm mười t�m tuổi, mẹ Cậu L� lại qua đời. Sau khi ch�n cất,Cậu L�bỏ nh� ra đi, để lại b�i thơ như sau:

�Vơi vơi trời nước thảm m�nh m�ng

Quyết độ quần sinh tho�t khỏi v�ng.

Hiến c�i th�n n�y c�ng vạn hữu

D�nh cho kiếp kh�c chứng hư kh�ng.

Đ�i sen khuya sớm kh�u nguồn gi�c

Cảnh tịnh h�m mai tỉnh giấc nồng.

Đi�n đảo mặc cho người tế thế

Ri�ng m�nh tự toại chốn non bồng�.

Cậu L� đi tới T�y Hồ, l�n ngọn n�i Phi Lai v�o ch�a Linh Ẩn [Ling Yin Temple] ở H�ng Ch�u [Hangzhou]xin được thế ph�t đi tu. Ho� thượng trụ tr� ch�a Linh Ẩn vốn l� một vị cao tăng đạo hiệu Nguy�n Kh�ng [Venerable Huiyuan, or �Master Xiatang�], d�ng tuệ nh�n nh�n biết ngay l� kim th�n La H�n gi�ng ph�m v�ng sắc chỉ của Phật đầu thai cứu đời, nhưng v� mang x�c ph�m, c�n m� chưa thật tỉnh, sợ ng�y sau sa ng� trong cuộc đời � trược. Nguy�n Kh�ng liền lấy tay vỗ l�n đầu Cậu L� ba c�i. Cậu L� ngộ được, dường như c� sức mạnh nhiệm mầu mở cửa tr� tuệ, liền quỳ lạy Nguy�n Kh�ng l�m lễ b�i sư. Nguy�n Kh�ng dạy giữ trai giới, sau đ� xuống t�c cho Cậu, đặt ph�p hiệu l� Đạo Tế [Daoji] c� nghĩa l� �cứu tế d�n ch�ng, gi�p người đắc Đạo.�

Sư ĐẠO TẾ sực tỉnh mộng đời, nhớ được tiền th�n của m�nh, nhưng sợ người trần b�y lắm điều ghen gh�t, phải giả dạng kh�ng đi�n để che mắt tục, ra ngo�i th� l�m việc cứu gi�p kẻ khốn c�ng, khuy�n dạy ch�ng sinh, nhưng khi ở trong ch�a miếu th� giả dạng cuồng dại hay l�m điều lầm lỗi vi phạm giới cấm.

C�ng việc của Đạo Tế l� nấu ăn cho c�c tăng nh�n trong ch�a. �ng l�m việc si�ng năng, cẩn thận. Tuy nhi�n, kh�ng giống như đa số c�c tăng nh�n kh�c, Đạo Tế ăn mặc luộm thuộm, r�ch rưới, thỉnh thoảng lại c�n ăn thịt, uống rượu...

T�m lại, �ng khiến c�c nh� sư kh�c lấy l�m kh� chịu v� đặt cho �ng biệt danh �H�a Thượng Đi�n�[TẾ ĐI�N]. Chỉ c� vị H�a Thượng trụ tr� ch�a Linh Ẩn vốn l� một cao tăng đạo hiệu NGUY�N KH�NG mới biết �ng l� kim th�n La h�n [Taming Dragon Arhat]gi�ng ph�m đầu thai cứu đời.

NGUY�N KH�NG �m thầm bảo vệ để �ng kh�ng bị trục xuất khỏi ch�a. Mặc d� t�nh t�nh cổ qu�i kỳ dị, sư Đạo tế rất thật th�, tốt bụng v� tuyệt đối tu�n thủ gi�o l� nh� Phật. �ng gi�p đỡ những kẻ khốn c�ng, viện trợ người đang hoạn nạn v� đ�i khi c�n cứu mạng họ. Người đời gọi sư l� Tế C�ng hoặc �Tế Đi�n H�a Thượng�. C� rất nhiều giai thoại về những kỳ t�ch của sư. Sư Đạo tế được m� tả l� một nh� sư ăn mặc r�ch rưới nhưng lu�n vui vẻ, tay tr�i cầm quạt mo, tay phải cầm một bầu rượu, hoặc tr�ng hạt niệm Phật, hoặc thỉnh thoảng l� một b� rơm kh�. Sư c� ph�p thần th�ng si�u việt nhưng chỉ triển hiện khi cần thiết.

Cuộc sống của vị Thiền sư n�y c� nhiều điều kỳ b� kh�c đời v� cũng kh�c với đời sống tu h�nh của Tăng ch�ng đương thời. T�nh t�nh cuồng ph�ng, n�n người đời gọi �ng l� "Tế �i�n", nhưng thật ra lại l� người rất "tỉnh", từ bi v� ưa gi�p đời. Sau khi H�a thượng trụ tr� qua đời, sư Đạo Tế v�o n�i Hổ Kh�u, ch�a Tịnh Từ [Jingci Temple] tiếp tục học v� h�nh Đạo. Sư l� đệ tử nối Ph�p của Thiền sư Huệ Viễn Hạt Đường, thuộc đời thứ 13 t�ng L�m Tế, ph�i Dương Kỳ.

Ng�y 16 th�ng 5 năm Khai Hy thứ 2 đời Nam Tống [năm 1206], Tế Đi�n ngồi tọa ngay ngắn rồi vi�n tịch tại ch�a Tịnh Từ, để lại b�i kệ như sau :

Lục thập ni�n lai lang tạ Đ�ng b�ch đả đảo t�y b�ch Ư kim thu thập quy lai Y cựu thi�n thanh hủy b�ch

Tạm dịch:

Ngổn ngang bề bộn s�u mươi năm Tường đ�ng lớn mạnh đổ tường t�y Nay thu xếp ổn về nơi cũ Trời xanh nước biếc vẫn như xưa

六十年来狼藉,- Sixty years� life in disorder 东壁打到西壁。- From east to west, I fight always 如今收拾归来,- Today, I review and return 依旧水连天碧。- All is same as those before

Sau khi Tế C�ng chết, an t�ng ở b�n suối Hổ B�o Tuyền [Running Tiger Spring Area], n�i Đại Từ Sơn ph�a t�y H�ng Ch�u. Một thiền viện rộng lớn được x�y dựng ở v�ng n�y để tưởng nhớ Ng�i. Đ� l� Th�p viện Tế C�ng [Jigong Tayuan]

TIẾT 2.TƯ TƯỞNG CỦA TẾ C�NG HOẠT PHẬT

Tế Đi�n theo truyền thuyết giống như đến c�i trần vui chơi, v� cũng để gi�o h�a cho con người thấy tất cả đều chỉ l� tr� ảo gi�c của sắc th�n, của chữ nghĩa, của tư tưởng, ch�ng đều l� ảo mộng."Mặt thật" của v� sinh l� v� tử- Điều quan trọng, tư tưởng đều l� vọng thức, chẳng can g� đến T�m; con người thường lầm Thức l� T�m. � l� nhớ, đối cảnh khởi vọng đều l� vọng thức, chẳng can g� đến Thi�n T�m c� kh�ng chẳng nhiễm.

Theo truyền thuyết, ng�i l� Kim Th�n La H�n h�a th�n, l� Gi�ng Long t�n giả. Ng�i th�ng hiểu s�u xa, liễu ngộ Phật Ph�p.�Mu�n ph�p vốn xuất hiện bởi t�m� [Vạn ph�p duy t�m sở hiện].Tu thẳng trong t�m kh�ng nhờ phương tiện, n�n n�i: �Tu t�m bất tu khẩu, tố c� tự tại Phật� � l� tu bằng ch�nh t�m m�nh chứ đừng chỉ tu qua lời n�i. Đ� l� v� c�c tăng ni thời ấy c� �giới khẩu� nhưng kh�ng c� �giới t�m� n�n ng�i cảnh tỉnh để gi�p họ gi�c ngộ. Khi bị người kh�c chất vấn v� sao l�m h�a thượng rồi c�n vẫn ham rượu thịt, Tế Đi�n đọc mấy c�u thơ n�y:

Cổ thi Phật Tổ để một phong Dạy khuy�n tu miệng lẫn tu l�ng Người nay tu miệng, l�ng kh�ng sửa Bần tăng l�ng sửa, miệng th� kh�ng.

Ng�i thần th�ng quảng đại, cứu nh�n độ thế khắp nơi. Đối với phường giả thiện chuy�n l�m điều �c, ng�i thường giễu cợt để khiến bọn họ tỉnh ngộ. Nhưng đối với hạng l�m �c kh�ng biết hối c�i, ng�i thẳng tay đả k�ch kh�ng ngần ngại trừng phạt, khiến người đời rất ngưỡng mộ gọi ng�i l� Th�nh tăng. Người đời sau t�n l� Phật Sống hẳn chẳng phải do sự ngẫu nhi�n. Cuộc đời của ng�i được viết th�nh truyện v� dựng th�nh phim rất nhiều. Truyện kể về lời dạy của Ng�i như sau:

  1. L�c xưa, ta ở tr�n trời qu�n xem thấy những người tu h�nh xuất gia, miệng ăn chay thanh tịnh, m� t�m �m ấp quỷ thai [trong t�m ẩn giấu những niệm đầu chẳng thể bảo với người kh�c]. Thiện tri thức khai ngộ Phật ph�p �t c�, đều l� mưu sinh kiếm sống. Ta chẳng nỡ để cho tuệ mệnh phật m�n như d�y muốn đứt, do đ� m� đầu thai hạ ph�m, h�a danh �Tu Duy�n� phổ độ quần sanh, giả đi�n giả kh�ng, du h� nh�n gian, chuy�n m�n � t�c qu�i � với những h�a thượng ấy, nghịch ph�p độ chơn nh�n. Do vậy một số những kẻ tuệ mỏng tr� cạn tưởng rằng kẻ Tăng đi�n ta đ�y l� ma quỷ của Phật m�n, n�o biết rằng th�n đi�n t�m chẳng đi�n.Thật ra những kẻ giả Từ giả Bi đ� mới l� cầu c�ng dường duy tr� cuộc sống. Tế Đi�n ta đến một c�i b�n ph� vỡ ch�n cơm của họ, do đ� những Tăng nh�n l�c bấy giờ giận ta, mắng ta, hận ta. M�i đến nay, Phật m�n vẫn c� tồn thi�n kiến với ta, tưởng rằng ta l� �h�a thượng bất tịnh�, chẳng biết rằng ta l� La H�n h�a sinh, thể của nhật quang, th�n t�ng tam muội chơn đạo, do đ� trong miệng huyễn h�a một c�i, ruột xương chẳng c� t� g�, mượn v�o đ� m� ch�m biếm mỉa mai c�c tăng lữ đồng tu m� th�i, đấy gọi l� �ăn kh�ng, uống kh�ng chẳng m�i vị �.
  1. Người đời gặp ta, ai ai cũng cười, ta ch�nh l� Phật Như �, Phật Hoan hỷ! Người đời �chẳng b�i lạy Hoạt Phật � [Phật sống], lại b�i � Tử Phật � [Phật chết], đ�ng thương thay! Người đời thường cười ta đi�n đi�n kh�ng kh�ng, nay giải th�ch c�i l� ấy như sau: c�i gọi �đi�n kh�ng� l� tinh thần thất thường, lời n�i h�nh động chẳng c� ch�t trật tự, giống kẻ ngốc nghếch ngờ nghệch vậy. Phật ta tuy l� vẻ bề ngo�i tr�ng đi�n kh�ng, nhưng trong t�m ta một dải chơn kh�ng, tất cả lời n�i h�nh động đều xuất ph�t từ tự nhi�n; v� lại lời n�i c� thể khuy�n người đời hướng thiện, h�nh động th� l� độ ch�ng sanh quay đầu về bờ,ho�n to�n kh�c với người đ� n�i đến ở trước. C� c�u rằng �đại tr� nhược ngu�[người c� tr� tuệ cực cao thường thường th� vẻ bề ngo�i tr�ng giống như rất b�nh ph�m].
  1. Tế Đi�n ta th� chỉ một c�i t�m x�ch tử n�y [t�m trẻ sơ sinh], người ta V� Ng�, v� quải v� ngại, muốn cười th� cười, muốn kh�c th� kh�c, muốn say th� say, muốn ngủ th� ngủ, nhất bổn thi�n nhi�n dựa theo thi�n t�nh m� h�nh;kh�c xa với những người th�ng minh trong thi�n hạ t�m cơ đa đoan [giảo hoạt nham hiểm mu�n m�u mu�n vẻ ], lo lắng vướng bận v� hạn, suốt ng�y trong l�ng bận đ�ng bận t�y, bận ho�i chẳng nghỉ, chỉ v� tư lợi, thật l� kh�c biệt rất xa như giữa đất với trời. Chưa biết l� người đời c� tin chăng?

Kẻ đi�n như ta đ�y tr�i lại c� thể ti�u dao tự tại; những người tự cho m�nh th�ng minh m� l�m bừa l�m bậy tr�i lại bị đọa v�o biển khổ. Đấy l� ta tuy ngu nhưng thật chẳng ngu; họ tuy tr� nhưng thật chẳng tr�. Do vậy m� ta n�i rằng: ta tuy đi�n nhưng thật chẳng đi�n, tr�i lại, những người tinh thần t�n loạn, tranh đoạt tr�n đời chẳng ngưng, tuy l� chẳng đi�n nhưng thật lại đi�n!

X� hội hiện nay v� sao lại loạn như thế, bởi v� đều đ� đem quan niệm về tội phước [LUẬT NH�N QUẢ] vứt bỏ đi rồi. Nếu như ch�ng ta chẳng tin c� quỷ thần, chẳng tin rằng c� Ti�n Phật, như vậy l�m việc g�, chỉ cần người kh�c chẳng nh�n thấy th� được rồi, như thế sẽ dễ d�ng l�m ra những việc đi ngược lại với thi�n l� lương t�m.

  1. C�i chổi n�y của L�o nạp v� c�i chổi của nh�n gian kh�ng giống nhau. C�i chổi của nh�n gian l� qu�t trừ những r�c bẩn tr�n đất; c�i chổi n�y của ta l� chuy�n qu�t những r�c bẩn trong t�m người,một c�i l� hữu h�nh, một c�i l� v� h�nh; c�i hữu h�nh l� qu�t trừ những r�c bẩn tr�n đất, c�i v� h�nh l� qu�t trừ những r�c bẩn của nh�n t�m; thế nhưng người đời chỉ biết qu�t trừ những r�c bẩn tr�n đất, m� chẳng biết qu�t trừ những r�c bẩn của t�m linh, chẳng phải l� cực k� đ�ng tiếc đấy sao?
  1. Hiện nay đ�u đ�u cũng l�m Tế c�ng, ai mới giống Tế c�ng thật? L�m sao m� ph�n biện đ�y? Tế c�ng thật sự l� c�ng t�m nhất phiến, đạo l�, l� luận r� r�ng, chẳng quản những thị phi của người đời, chỉ quản việc l�m thế n�o th�ng đạt con đường của tự t�nh.

� TẾ � ch�nh l� gi�p đỡ, � C�NG � ch�nh l� v� tư, � HOẠT � ch�nh l� bất tử - kh�ng chết, � PHẬT � ch�nh l� bậc gi�c ngộ, Thi�n t�m Phật t�nh. Ch�ng ta phải tế thế cứu nh�n, ch�ng ta phải độ h�a những ch�ng sanh tr�n thế giới; duy chỉ c� d�ng c�i t�m v� tư mới c� thể, bởi v� c�i t�m v� tư l� bất tử, l� c�i thi�n t�m ch�n thật đang tồn tại, cho n�n đấy l� � nghĩa của 4 chữ � Tế C�ng Hoạt Phật �.

  1. Mượn v�o việc b�i lạy c�i h�nh tượng n�y, nhắc nhở với con rằng nội t�m của c�c con c� một vị thầy, chớ c� chạy ra b�n ngo�i đi b�i sư, biết kh�ng? Khiến cho con hiểu rằng vị thầy thật sự chẳng ở b�n ngo�i, cũng chẳng phải l� ở Phật đường. Thế nhưng chớ c� hiểu lầm, lấy việc noi theo Tế C�ng l�m l� do m� ăn thịt uống rượu, mạo danh lừa gạt khắp nơi; đấy l� dối m�nh gạt người, cũng l� hại người hại m�nh, hiểu kh�ng?

C�NG ĐẠO [sự c�ng ch�nh, c�ng bằng] tự ở nh�n t�m, chẳng c� ri�ng tư, chẳng c� thi�n vị, c�ng c�ng ch�nh ch�nh, tế nguy ph� khốn [cứu tế những người khốn khổ nguy nan], t�m địa từ bi mới l� � Tế C�ng đồ � [học tr� của Tế C�ng ].

  1. Đối đ�i với người kh�ng thể qu� đặc biệt; qu� đặc biệt th� c� thị thị phi phi; nếu dựa theo ti�u chuẩn c�ng bằng c�ng ch�nh th� l� v� Thầy m� h�nh đạo, thay Thầy m� h�nh đạo.

Thay Thầy h�nh đạo ch�nh l� � C�NG �, thay Ma h�nh đạo ch�nh l� � TƯ �, khi tư t�m tu�n tr�o ra th� l� khế nhập ma đạo, hiểu kh�ng? Vị thầy thật sự ở trong t�m con; diệu tr� tuệ của con ch�nh l� thầy của con; con c� tr� tuệ ph�n biện th� ch�nh l� thầy.

Hy vọng rằng trong t�m của c�c con kh�ng chỉ l� Tế C�ng thầy đ�y, m� phải thật sự c� thể đi �Tế� c�ng phổ độ ch�ng sanh; duy chỉ c� ch�nh kỷ mới c� thể th�nh Nh�n, tự bản th�n m�nh chẳng c� những h�nh vi, niệm đầu tốt đẹp th� l�m thế n�o đi cảm h�a người kh�c. Ch�nh kỉ trước ti�n phải lấy th�n m�nh l�m gương cho người kh�c noi theo. Những người của c�i ph�m v� sao lại đau khổ? Bởi v� c� tư t�m, c� tư t�m chẳng c� c�ng t�m th� đau khổ rồi. H�y đem c�i nh�n t�nh [t�nh cảm ri�ng tư con người] trong t�m ch�ng ta, đem t�nh y�u trong t�m ch�ng ta h�a th�nh đạo t�nh, h�a th�nh t�nh y�u bao la rộng lớn.

  1. �Tế C�ng Hoạt Phật� n�y l� � nghĩa g�? L� nhất t�m đều l� c�ng t�m, to�n bộ đều v� ch�ng sanh, do đ� m� người ta mới gọi �ng ta l� Hoạt Phật. Con người chết rồi sẽ th�nh Phật, th�nh Ti�n, th�nh Quỷ, th�nh người hiển lộ chỉ thị r� điều m� con đ� l�m. Ở thế gian chẳng c� l�m việc g� THIỆN, TỐT, trở về rồi c� thể th�nh Phật kh�ng? kh�ng thể. Muốn học Thầy rất đơn giản, chỉ cần con tế c�ng, bảo đảm con l�m Phật sống. C�c con đều c� �Phật t�nh� th� n�n h�nh Phật sự [l�m việc của Phật ]. Một người chẳng c� c�ng đạo, chẳng n�i c�ng l�, tại thế bị người ta khinh thường, qua đời c�ng bị Thần từ bỏ, do vậy ta bảo rằng �Tế c�ng th�nh đạo, Tế Tư thất đạo�.

Người nay tu đạo, c� người một đồng chẳng xả, xảo ng�n lệnh sắc [n�i những lời rất khiến người ta ưa th�ch, cảm động, sắc mặt ra vẻ rất h�a thiện, thế nhưng một ch�t cũng chẳng th�nh khẩn], hủy b�ng những t�n gi�o kh�c, họ đều l� tự tư tự lợi, cho rằng tất cả đều l� m�nh tốt?

Linh Sơn nhất mạch, vạn gi�o quy t�ng, T�m l� Đạo, rời c�i c�ng t�m n�y th� chẳng c� Phật; biết tu Đại Đạo, si�ng h�nh đức nghiệp th� vạn nh� sanh Phật. Hy vọng rằng ch�ng sanh thi�n hạ học tập tinh thần của Thầy

.

PHẦN HAI

NAM B�NH PHẬT TỔ [NAM B�NH VƯƠNG PHẬT]

南屏佛祖 [南屏王佛]

TIẾT 1.NAM B�NH PHẬT TỔ [NAM B�NH VƯƠNG PHẬT] L� AI?

Nam: Phương Nam, nước Việt Nam, người Việt Nam.

B�nh: che chở, ngăn che [b�nh phong].

Phật Tổ: vị Phật lớn.

Vương Phật: vị Phật l�m vua.

Nam B�nh Phật Tổ l� vị Phật lớn che chở nước Việt Nam.

Nam B�nh Vương Phật l� vị Phật vua che chở nước Việt Nam.

Nơi Điện Thờ Phật Mẫu ở Tr� Gi�c Cung, Địa Linh Động [khi xưa l� Trường Qui Thiện], c� thờ bức họa Nam B�nh Phật Tổ, đặt tại vị tr� ng� ngay v�o bửu điện thờ Đức Phật Mẫu. B�o �n Từ, v� c�c Điện Thờ Phật Mẫu kh�c đều kh�ng c� thờ Nam B�nh Phật Tổ. Đ�y l� nơi duy nhứt thờ Nam B�nh Phật Tổ.

Nh�n bức họa Nam B�nh Phật Tổ tr�n b�n thờ, ch�ng ta thấy Ng�i mặc �o tr�ng, tay rộng, m�u n�u lợt pha v�ng, tay mặt cầm quạt, ch�n mang thảo h�i, c� d�ng dấp như một �ng Ti�n; Ng�i lại cầm b�nh b�t nơi tay tr�i, v� c� v�nh tai d�i th�ng xuống như tai Phật; Ng�i c� r�u l�n ph�n tr�n miệng v� c�m, lại đội m�o giống như m�o của �ng quan nơi triều đ�nh. Do đ�, ch�ng ta thấy nơi Ng�i như c� sự phối hợp của Tam gi�o: Nho gi�o, Ti�n gi�o v� Phật gi�o.

Ph�a tr�n bức họa l� 4 chữ Nho lớn: 南屏佛祖 [Nam B�nh Phật Tổ] viết theo h�ng ngang. B�n cạnh đứng của bức họa c� hai h�ng chữ Nho thẳng đứng, ch�p ra như sau:

有濟於人有濟於物誰謂其顛

錯有我佛佛其有靈馨香拜乞

Hữu tế ư nhơn, hữu tế ư vật, th�y vị kỳ đi�n,

Th�c hữu ng� Phật, Phật kỳ hữu linh, hinh hương b�i khất.

Giải nghĩa:

Hữu tế ư nhơn: c� cứu gi�p người.

Hữu tế ư vật: c� cứu gi�p vật.

Th�y: ai.

Vị: Bảo rằng.

Kỳ: hư tự.

Đi�n: kh�ng.

Th�c hữu ng� Phật: lầm c� ta l� Phật.

Th�c: lầm.

Phật kỳ hữu linh: Phật ấy c� linh thi�ng.

Hinh: m�i thơm bay xa.

Hương: c�y nhang.

B�i: lạy.

Khất: xin.

Hai c�u chữ Nho tr�n kh�ng phải l� hai c�u liễn đối, n�n trong bức họa viết hai h�ng kh�ng bằng nhau, h�ng ngo�i c� 16 chữ v� h�ng trong c� 8 chữ, nghĩa l�:

C� cứu gi�p người, c� cứu gi�p vật, ai bảo ấy đi�n?

Lầm c� ta l� Phật, Phật ấy c� linh, đốt nhang thơm v�i lạy cầu xin.

TIẾT 2.V� SAO THỜ NAM B�NH PHẬT TỔ?

  1. NGUỒN GỐC BỨC HỌA NAM B�NH PHẬT TỔ

T�c giả Đức Nguy�n v� nh�m bạn nghi�n cứu c�u đối trong t�n gi�o cao Đ�i c� hỏi một v�i vị l�o th�nh của Trường Qui Thiện về nguồn gốc bức họa Nam B�nh Phật Tổ th� qu� vị ấy đều trả lời rằng: "Trong chuyến Đức Phạm Hộ Ph�p � du, sang Đ�i Loan, rồi qua Nhựt Bổn để rước x�c tro của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để về nước, c� người T�u ở Đ�i Loan đem tặng Đức Phạm Hộ Ph�p bức họa Nam B�nh Phật Tổ nầy."

Ch�ng t�i liền kiểm tra lại bằng c�ch đọc trở lại rất kỹ tập "Nhựt K� � Du" do �ng Sĩ Tải B�i Quang Cao ghi lại, ch�ng t�i kh�ng thấy c� chỗ n�o n�i về vụ người Đ�i Loan tặng bức họa Nam B�nh Phật Tổ cho Đức Phạm Hộ Ph�p.

Rất may l�c đ�, �ng B�i Quang Cao [b�y giờ l� Gi�m Đạo Cao] c�n sống khỏe mạnh, n�n ch�ng t�i trực tiếp đến hỏi �ng Cao.Trong chuyến � du nầy, Đức Phạm Hộ Ph�p đem �ng Cao theo l�m thơ k�, ki�m nh�n vi�n nhiếp ảnh v� quay phim, cho n�n tất cả việc xảy ra, �ng Cao đều hay biết để ghi nhựt k�. �ng Sĩ Tải B�i Quang Cao x�c nhận một c�ch quả quyết với ch�ng t�i hai ba lần rằng, nhứt định kh�ng c� người T�u n�o đem tặng cho Đức Phạm Hộ Ph�p bức họa Nam B�nh Phật Tổ, bởi v� đ�y l� sự kiện lớn tốt đẹp, đ�u cần phải giấu giếm.

Mặt kh�c, ch�ng t�i lại d� hỏi về vấn đề thời gian: Đức Phạm Hộ Ph�p trao cho Trường Qui Thiện bức họa Nam B�nh Phật Tổ v�o ng�y th�ng năm n�o?

Ch�ng t�i được cho biết chắc chắn l� Đức Phạm Hộ Ph�p đem giao bức họa Nam B�nh Phật Tổ cho Ban Gi�m Đốc Trường Qui Thiện v�o năm Canh Dần [1950], kh�ng nhớ r� ng�y n�o nhưng trước ng�y l�m Lễ Sinh Nhựt mừng Lục tuần Đức Phạm Hộ Ph�p [ng�y m�ng 5 th�ng 5 năm Canh Dần] v� Đức Ng�i dạy đặt tại vị tr� như ch�ng ta thấy hiện nay.

So s�nh về thời gian, ch�ng ta thấy, bức họa nầy đ� c� từ năm 1950, m� Đức Phạm Hộ Ph�p � du khởi h�nh v�o ng�y 1-8-Gi�p Ngọ [dl 28-8-1954] v� trở về ng�y 16-9-Gi�p Ngọ.

Kết luận: Bức họa Nam B�nh Phật Tổ c� trước ng�y Đức Phạm Hộ Ph�p đi Đ�i Loan tới hơn 4 năm.

Ch�ng t�i may mắn gặp �ng L�nh Nhạc Huỳnh Minh Mẫn, �ng thuật lại cho ch�ng t�i nghe như sau: v�o khoảng năm 1950, Đức Phạm Hộ Ph�p sai �ng đi S�i G�n, đến nh� Ng�i Tiếp Ph�p Trương Văn Tr�ng để lấy bức họa Nam B�nh Phật Tổ đem về T�a Th�nh cho Đức Ng�i. Khi đến nơi, gặp Ng�i Tiếp Ph�p, tr�nh b�y c�ng việc, th� Ng�i Tiếp Ph�p mở tủ lấy ra hai bức họa, cuốn tr�n lại, g�i thật kỹ, giao cho �ng đem về Đức Phạm Hộ Ph�p. Sau đ�, Đức Ng�i đem xuống giao cho Trường Qui Thiện một tấm để thờ nơi Đền Thờ Đức Phật Mẫu, c�n một tấm th� giao cho Đầu ph�ng Trần Th�i Lang thờ nơi Hộ Ph�p Tịnh Đường ở Địa Linh Động.

Nhờ sự tiết lộ của �ng L�nh Nhạc Mẫn, ch�ng t�i liền t�m đến nh� người con trai của Ng�i Tiếp Ph�p l� �ng Trương Minh T�nh ở S�i G�n, ch�ng t�i được �ng T�nh cho biết, Ng�i Tiếp Ph�p cũng c� một bức họa Nam B�nh Phật Tổ, lộng kiếng treo nơi ph�ng kh�ch, nhưng m�u �o tr�ng l� m�u xanh chớ kh�ng phải m�u n�u v�ng lợt, thời gian qu� l�u n�n bức họa nầy bị mối ăn hư hết, rất uổng, v� �ng T�nh cũng cho biết, bức họa nầy h�nh như do �ng Lỗ B� Hiền tặng Ng�i Tiếp Ph�p.

II. � NGHĨA SỰ THỜ NAM B�NH PHẬT TỔ:

[do Đức Phạm Hộ Ph�p giải th�ch]

1.V�o năm Nh�m Th�n [1952], anh em thợ hồ khi x�y dựng B�o �n Từ, c� bạch hỏi Đức Hộ Ph�p về việc thờ Đức Nam B�nh Phật Tổ. Đức Hộ Ph�p dạy như sau:

- Khu�n bao h�nh chữ nhựt ở tấm v�ch ngo�i ng� v�o Điện Thờ Phật Mẫu, để trống, sau nầy sẽ đắp h�nh Nam B�nh Vương Phật, cũng như Đền Th�nh c� h�nh Hộ Ph�p ngự tr�n ngai tr�ng v�o B�t Qu�i Đ�i đ� vậy.

-Xin Thầy cho biết h�nh Nam B�nh Phật Tổ thế n�o để sau nầy mấy con đắp.

- Chừng n�o c� Điện Thờ Phật Mẫu [ĐTPM] th� Thầy sẽ cho biết, kh�ng c� g� lạ. Đền Th�nh l� Bạch Ngọc Kinh tại thế c� h�nh Hộ Ph�p mặc Thi�n phục kh�i gi�p, th� nơi ĐTPM, lẽ dĩ nhi�n h�nh của Ng�i kh�ng mặc Thi�n phục, chỉ mặc �o c� sa nh� Phật m� th�i. Nơi Tr� Gi�c Cung, Thầy c� dạy thờ Nam B�nh Vương Phật trong ĐTPM rồi.

  1. Đ�n cơ tại Cung Đạo T�a Th�nh đ�m 26-6-Nh�m T� [4-8-1972] l�c 20 giờ, Ph� loan: Hiến Ph�p - Khai Đạo.

Ng�i Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa bạch hỏi Đức Hộ Ph�p:

"Nơi B�o �n Từ T�a Th�nh thờ Phật Mẫu, ph�a ngo�i đối diện với bửu điện th� kh�ng c� tượng chi hết, chỉ ở Địa Linh Động c� tượng thờ vị Nam B�nh Phật Tổ. Xin Đức Ng�i chỉ gi�o."

- "N�n đặt v�o một nghi tiết ri�ng biệt, v� Đấng ấy c� c�ng mở Đạo tại VN."

-"Nơi c�c Điện Thờ Phật Mẫu sau nầy cũng phải thờ hay kh�ng?"

- "D�ng ri�ng một chỗ cho Người m� th�i."

Qua lời giải th�ch của Đức Phạm Hộ Ph�p: một l� với anh em thợ hồ v�o năm 1952 l�c Đức Ng�i c�n sinh tiền, hai l� với Ng�i Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa v�o năm 1972 khi Đức Ng�i đ� qui Thi�n gi�ng cơ giải đ�p, ch�ng ta thấy c� hai điểm quan trọng để thờ Nam B�nh Phật Tổ v� nhận biết Ng�i l� ai:

  1. Nơi T�a Th�nh thờ Đức Ch� T�n, c� Hộ Ph�p mặc Thi�n phục với kh�i gi�p [v� đ�y triều nghi của Đức Ch� T�n] đứng ở Hiệp Thi�n Đ�i nh�n thẳng v�o B�t Qu�i Đ�i, th� nơi Điện Thờ Phật Mẫu [ĐTPM] cũng tương tự như vậy, c� tượng Nam B�nh Vương Phật, nhưng kh�ng mặc kh�i gi�p, chỉ mặc �o c� sa [v� Đức Phật Mẫu kh�ng c� triều nghi, chỉ c� t�nh Mẹ con], đứng đối diện với bửu điện thờ Phật Mẫu. Như vậy, Nam B�nh Vương Phật ch�nh l� Phạm Hộ Ph�p.
  1. Thờ Nam B�nh Phật Tổ v� Đấng ấy c� c�ng mở Đạo tại nước Việt Nam. Khi khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ [Đạo Cao Đ�i], c�ng buổi đầu c� nhiều vị chức sắc Đại Thi�n Phong, nhưng người c� c�ng lớn nhất, được to�n thể t�n đồ thương y�u v� k�nh trọng nhất chắc chắn l� ng�i Phạm Hộ Ph�p.

III. C�NG NGHIỆP CỦA PHẠM HỘ PH�P [1890-1959]

HỘ PH�P PHẠM C�NG TẮC 1930

HỘ PH�P PHẠM C�NG TẮC 1954

Nếu viết về c�ng nghiệp của Đức Ng�i Phạm Hộ Ph�p, hẳn phải viết ri�ng một quyển s�ch dầy. Ở đ�y, ch�ng t�i chỉ ghi lại những n�t ch�nh.

  1. Nắm b� ph�p Đạo:

Triết l� của Đạo Cao Đ�i do Thượng Đế m� c�. Triết học của Đạo Cao Đ�i do Hộ Ph�p Phạm C�ng Tắc m� n�n h�nh. Ng�i nắm b� ph�p của Đạo [Master of Cao Đ�i Esoterism].

  1. Ng�i nắm quyền Ch� T�n tại thế để ban h�nh:

Lu�t Lệ chung c�c Hội; Nội Luật Hội Nhơn Sanh; Nội Luật Hội Th�nh trong ba Hội Lập Quyền Vạn Linh. Kh�ng c� ba luật nầy th� kh�ng c� quyền Vạn Linh trong Đạo Cao Đ�i.

Đặc biệt l� Đạo Luật Mậu Dần "1938" đề lập ra tứ trụ của h�nh ch�nh T�n gi�o Cao Đ�i l�: H�NH CH�NH, PHƯỚC THIỆN, PHỔ TẾ V� T�A ĐẠO.

  1. Lập Cơ quan truyền gi�o Hải ngoại [1927]

tại thủ đ� Pnom Penh, Campuchia

  1. Lập c�c phẩm Chức sắc HTĐ dưới Thập nhị Thời Qu�n
  1. Lập Cơ Quan Phước Thiện

Ng�y 10 th�ng 12-năm 1938, Ng�i c�ng Đức Gi�o T�ng L� Th�i Bạch ban h�nh Đạo Nghị Định số 48/PT th�nh lập Cơ quan Phước Thiện với 12 phẩm cấp chức sắc gọi l� Thập nhị đẳng cấp thi�ng li�ng. Cơ quan Phước Thiện n�y l� cơ quan tạo lập c�c cơ sở kinh tế v� l�m ra của cải vật chất cho t�n gi�o Cao Đ�i, nhằm hỗ trợ c�c sinh hoạt trong đạo v� cứu trợ từ thiện đối với trẻ em mồ c�i, người gi� cả neo đơn, nạn nh�n bị chiến tranh, thi�n tai�

  1. X�y dựng ba Cung, ba Động

Ng�i c�n cho x�y dựng 3 Cung 3 Động, l�m Tịnh Thất truyền B� ph�p luyện đạo cho c�c vị t�n đồ tu chơn.

-Năm 1947, x�y cất Tr� Huệ Cung- Thi�n Hỷ động l�m tịnh thất cho nữ ph�i v� ho�n th�nh ng�y 22 th�ng 01 năm 1951.

-Ng�y 29 th�ng 12 năm 1954, th�nh lập Tr� Gi�c cung- Địa Linh động l�m Tịnh thất

-Ng�y 23 th�ng 11 năm 1954, đ�ch th�n l�n n�i B� Đen để chọn chỗ x�y dựng tịnh thất lấy t�n l� Vạn Ph�p Cung - Nhơn H�a động d�ng l�m tịnh thất cho nam ph�i.

  1. X�y dựng c�c cơ sở ch�nh yếu trong t�n gi�o Cao Đ�i:

nhiều cơ sở vật chất được x�y dựng trong thời gian ng�i cầm quyền l�nh đạo như: Đền Th�nh, B�o �n Từ [Điện Thờ Phật Mẫu tạm], c�c dinh thự cơ quan trong nội � T�a Th�nh. C�n một số cơ sở kh�c đ� được qui hoạch sẵn cho hậu tấn thực thi. Đến nay những cơ sở n�y vẫn chưa được khởi c�ng x�y dựng. Trong số n�y c� thể kể ra Vạn Ph�p Cung [nh� tịnh cho Nam ph�i], Điện Thờ Phật Mẫu ch�nh thức; s�n bay gần Tr� Huệ Cung. Tr� Huệ Cung ch�nh l� Tịnh Thất đầu ti�n của t�n gi�o Cao Đ�i. Ngo�i ra, c�n c� Khổ Hiền Trang, Th�nh Thất Đ� Lạt cũ�

  1. Cất chợ Long Hoa

Kể từ năm 1947 trở về sau, chiến tranh khắp nơi khiến cho c�c t�n đồ Cao Đ�i từ khắp c�c nơi đổ dồn về v�ng Th�nh địa T�y Ninh lập nghiệp c�ng l�c c�ng đ�ng. N�n ng�y 12 th�ng 11 năm Nh�m Th�n [dl 28 th�ng 12 năm 1952], ng�i cho khởi c�ng x�y dựng chợ Long Hoa theo vị tr� v� bản vẽ của ng�i để t�n đồ Cao Đ�i c� nơi bu�n b�n l�m ăn. Ng�y nay, đ�y l� ng�i chợ lớn nhất của tỉnh T�y Ninh v� được dổi t�n lại l� Trung t�m thương mại Long Hoa. Chợ nằm tại huyện H�a Th�nh, c�ch T�a Th�nh T�y Ninh khoảng 1 km.

  1. Một gi�o chủ nhiệt th�nh

Ngo�i nhiệm vụ l�nh đạo Hội Th�nh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ T�a Th�nh T�y Ninh, ng�i c�n thuyết đạo, giảng ch�n l� cho nhơn sanh. Chưa kể đến những b�i diễn văn trong c�c buổi lễ t�n gi�o, những b�i giảng đạo của ng�i về CON ĐƯỜNG THI�NG LI�NG HẰNG SỐNG v� B� PH�P đ� được Ban Tốc K� T�a Th�nh T�y Ninh ghi lại v� ph�t h�nh. T�n đồ Cao Đ�i xem t�i liệu n�y l� rất quan trọng bởi v� nội dung của những b�i thuyết giảng n�y chứa đựng triết l� v� c�c phương c�ch tu tập ch�nh thức rất đặc trưng của Đạo Cao Đ�i. Trong quyển Con Đường Thi�ng Li�ng Hằng Sống, ng�i kể lại cho ch�ng ta h�nh tr�nh của linh hồn sau khi bỏ x�c.

Rất ly kỳ v� hữu �ch cho to�n thể t�n đồ hiểu biết để chuẩn bị cho ng�y về, v� chết rồi chỉ mang theo hai điều: TỘI, v� PHƯỚC.

  1. Một nh� quy hoạch x�y dựng

Ch�nh ng�i l� người khởi c�ng x�y dựng T�a Th�nh v�o năm 1936 v� tổ chức lễ kh�nh th�nh T�a Th�nh T�y Ninh v�o năm1955. To� Th�nh l� Tổ đ�nh, l� cơsở quan trọng nhất của t�n gi�o Cao Đ�i. Thiếu thể ph�p n�y, đạo Cao Đ�i kh�ng thể n�o ph�t triển th�nh một t�n gi�o c� qui củ được. Điều quan trọng l� to�n bộ c�ng thức v� phương �n x�y dựng một thế giới mới "B�C �I, C�NG BẰNG" đ� được ng�i k� gởi v�o c�c c�ng tr�nh kiến tr�c�B� ph�p của t�n gi�o Cao Đ�i v� Kinh DỊCH được gửi gắm qua kiến tr�c T�a Th�nh. Ai chịu t�m hiểu, ắt sẽ thấy.

- Bố tr� hạ tầng ở Th�nh Địa T�y Ninh như một nh� quy hoạch đ� thị đại t�i v� khu vực n�y trước đ�y l� rừng.Nhưng Ng�i đ� nh�n thấy trước sau n�y sẽ th�nh khu d�n cư đ�ng đ�c, phồn thịnh n�n đường x� được qui hoạch rộng r�i, thẳng tấp.

Thể ph�p T�n gi�o "như ăn chay- thực h�nh nh�n nghĩa" đ� được đưa v�o x� hội v� ho� tan v�o l�ng cư d�n Th�nh địa Cao Đ�i tạo n�n nết sống văn h�a trong x� hội v� con người T�y Ninh n�i ri�ng v� to�n thể t�n đồ Cao Đ�i tr�n thế giới n�i chung cho đến ng�y h�m nay. Dấu ấn r� nhất l� ở v�ng Th�nh địa, nơi c� nhiều người l�m việc nghĩa " Tự nguyện gi�p đỡ người kh�c m� kh�ng nhận tiền", điều hiếm nơi n�o c� được. Tang lễ được cử h�nh long trọng v� ho�n to�n miễn ph� kh�ng ph�n biệt gi�u ngh�o....V�ng n�y cũng l� nơi c� tỉ lệ người ăn chay cao nhất Việt Nam v� cả thế giới...

N�i t�m lại, cuộc đời của Hộ Ph�p Phạm C�ng Tắc gần như l� lịch sử của t�n gi�o Cao Đ�i trong 31 năm đầu ti�n, kể từ l�c sơ khởi nền Đạo năm 1925 cho đến năm 1956 khi ng�i rời khỏi T�a Th�nh T�y Ninh, lưu vong sang Campuchia. Đ� l� do chủ trương ch�nh s�ch H�A B�NH CHUNG SỐNG, thống nhất đất nước bằng NH�N NGHĨA & T�NH THƯƠNG, nghịch hẳn với chủ trương của ch�nh quyền l�c bấy giờ. Giống như đức Jesus đ� đổ m�u để cứu lo�i người, Ng�i Phạm C�ng Tắc phải rời Th�nh địa sống lưu vong nơi đất kh�ch qu� người, trăm điều khổ t�m. Ng�i ra đi v� muốn đem lại sự an b�nh cho t�n đồ n�i ri�ng v� v� h�a b�nh cho nh�n loại n�i chung.

Ng�i được xem l� một trong những m�n đệ y�u �i nhứt đầu ti�n của Đức Cao Đ�i, lại l� người trẻ tuổi được Đức Cao Đ�i đặt v�o phẩm vị cao qu� nhứt của Hiệp Thi�n Đ�i. Ba mươi bảy tuổi đắc phong Hộ Ph�p, v� kể từ đ�, ng�i xả th�n h�nh đạo cho đến ng�y sức t�n, lực kiệt, trở về thi�ng li�ng vị. Cho n�n c�ng nghiệp của ng�i đối với đạo Cao Đ�i to lớn nhất so với tất cả c�c Chức sắc cao cấp cầm quyền điều khiển nền Đạo thuở ban đầu. Trong Nội � T�a Th�nh T�y Ninh, cũng như trong khắp v�ng Th�nh địa T�y Ninh, từ những Đền thờ đến c�c dinh thự, từ những con đường lớn hay nhỏ đến c�c c�y cầu, từ những ng�i chợ đến c�c khu nh� ở trật tự khang trang, từ những ng�i trường dạy trẻ em nh� Đạo cho đến c�c Y Viện, Dưỡng L�o, C� Nhi Viện, vv... đ�u đ�u cũng đều thấy c� những dấu t�ch nhắc nhở c�ng nghiệp khai ph�, ph�t triển t�n gi�o Cao Đ�i của ng�i.Thể x�c tuy đ� mất, h�nh b�ng tuy đ� khuất, nhưng trong l�ng của mỗi t�n đồ Cao Đ�i trong nhiều thế hệ sẽ m�i m�i ghi khắc h�nh ảnh sống động của Đức ng�i Phạm Hộ ph�p..

Ch�nh v� thế, tuy Ng�i kh�ng ch�nh thức nhận hậu kiếp của Nam B�nh Vương Phật l� Hộ Ph�p Phạm C�ng Tắc, nhưng tất cả ch�ng ta đều hiểu: vị Phật lớn c� c�ng mở Đạo, che chở nước Việt Nam, Nam B�nh Vương Phật ch�nh l� Đức Phạm Hộ Ph�p.

IV. HUYỀN DIỆU KHI QUY THI�N

Ng�i quy Thi�n v�o ng�y m�ng 10 th�ng 4 năm Kỷ Hợi [ng�y 17 th�ng 5 năm 1959] hưởng thọ 70 tuổi tại Nam Vang. Hằng năm, ng�y quy Thi�n n�y được cử h�nh long trọng v� th�nh k�nh tại Nội � T�a th�nh, c�c Th�nh Thất trong v� ngo�i nước.

  1. Đ�n hạc cất tiếng tr�n kh�ng trung

Kh�ng giờ đ�m 16/05/1959 tại thủ đ� Phnom Penh c� một đ�n Hạc cất tiếng vinh diệu tr�n kh�ng trung, tất cả T�n đồ Cao ��i v� nhơn d�n Phnom Penh đồng hướng về đ�n Hạc đang bay tr�n m�y, tuy đ�m khuya nhưng Trời vẫn s�ng lạ thường.

C�c đồng tử tiếp nhận lời truyền giảng của �ức Ngự M� Thi�n Qu�n [Hộ Ph�p Phạm C�ng Tắc] từ tr�n kh�ng trung vọng xuống trần ho�n. Người để ngửa đ�i tay ban ph�p l�nh cho Nh�n loại, Người d�ng huyền diệu th�ng truyền cơ mầu nhiệm, ban ph�p gi�c ngộ đến những xứ biết t�n vinh �ấng Thượng �ế v� Người hứa với Nhơn loại:

"Bần �ạo c�n phải trở lại một lần nữa v� chưa định đến nơi n�o".

Sự kỳ diệu nầy cho ph�p người đời li�n tưởng đến ng�y thọ khổ của �ức Ch�a J�sus Christ tr�n Thập Tự Gi� v� Ch�a cũng t�i l�m sau khi tho�t x�c để đem đến cho lo�i người một niềm tin v� hy vọng v� bi�n ở �ấng Cứu Thế.

�ức Hộ Ph�p Phạm C�ng Tắc cưỡi con hạc bay v�o trung t�m kh�ng gian hướng T�y l�c 5 giờ s�ng ng�y 24/05/1959, bay lượn được ba v�ng tr�n kh�ng trung rồi biến mất, nhưng Người vẫn để lại một con Hạc oai phong đậu b�n m�i �iện Phật Mẫu, Trấn �ạo Kim Bi�n. Sau 12 ng�y qui Thi�n, li�n đ�i �ức Hộ Ph�p được di chuyển v�o Tr�ng-Thi�n, to�n đạo vẫn thấy con Hạc ấy đậu b�n m�i �iện Phật Mẫu nhưng n� biến mất tự l�c n�o kh�ng ai r�? K� giả Giang Kim v� họa sĩ Hữu �ịnh thực hiện bức tranh ch�n dung �ức Hộ Ph�p Phạm C�ng Tắc cưỡi hạc bay tr�n m�y v� được in ra nhiều bức ảnh gửi đến Trấn �ạo Kim Bi�n ph�n phối. To�n t�n đồ c� cơ hội chi�m ngưỡng v� thỉnh di ảnh �ức Hộ Ph�p cưỡi hạc tr�n kh�ng trung để lưu niệm v� ghi dấu ấn hiển linh của �ức Ngự M� Thi�n Qu�n [�ức Hộ Ph�p Phạm C�ng Tắc] khi qui Thi�n.

  1. Nữ Đồng Tử Sarah Barthel tại Paris đ� nghe được tiếng n�i từ c�i thi�ng li�ng

Ngay sau khi Đức Hộ Ph�p Phạm C�ng Tắc qui Thi�n, ở b�n nước Ph�p, Nữ Đồng Tử Sarah Barthel tại thủ đ� Paris, đ� nghe được tiếng n�i từ c�i thi�ng li�ng về sự liễu đạo của vị Gi�o chủ Đạo Cao Đ�i. B� ghi lại trong b�i Chứng Nghiệm, đăng tr�n b�o Le Lien des Cercles d'Etudes số 4 th�ng 5-6 năm 1959, xuất bản tại Paris, được dịch ra sau đ�y:

SỰ QUI THI�N của VỊ GI�O CHỦ HO�N CẦU của ĐẠO CAO Đ�I: HỘ PH�P PHẠM C�NG TẮC.

Để li�n hiệp tất cả đệ tử Thần Linh thế giới,

Ch�ng ta h�y than kh�c, nhưng vẫn hy vọng!

Hỡi c�c đệ tử Thần Linh T�y phương!

Đối với anh chị em ta b�n phương Đ�ng v� Viễn Đ�ng, ch�ng ta c� bổn phận l� hiệp tinh thần trong việc hợp t�c huynh đệ để t�m biết về v� h�nh.

Một tiếng n�i tr�n kh�ng trung n�i với t�i:

"Sở dĩ đạo đức đưa tới một đời sống hạnh ph�c l� v� đạo đức l� một t�nh thương y�u cao cả v� t�nh y�u nầy chỉ l� một với t�nh y�u cả nhơn loại lẫn vũ trụ.

Tiếng n�i ấy l� tiếng n�i n�o m� n� tho�t ra ngo�i vật thể v� n� ở ng�n chỗ tr�n thế giới địa ho�n để cho t�m hồn y�n lặng v� mở rộng đều c� thể nghe được, dầu họ ở phương Đ�ng cũng như phương T�y, hoặc ởphương Bắc, cũng như phương Nam, họ chờ đợi tiếp nhận những lời Th�nh gi�o giống nhau, trạng tỏ r� sự thỏa hiệp của t�m hồn.

Đức Hộ Ph�p Phạm C�ng Tắc vừa qui Thi�n ng�y 17 th�ng 5 năm 1959 hồi 13 giờ 30 ph�t [giờ Cao Mi�n] tại Ch�a Tual Svay Prey, ở hộ đệ ngũ thuộc Ch�u th�nh Nam Vang...

Đ�ng giờ đ� định, những vị Thi�n Thần cầm c�y t�n v�ng tới đ�n rước Ng�i, v� c�c Hung Thần bị xua đuổi ra xa t�t, họp th�nh một lằn đen xa thẳm, như đ�ng khung kh�ng hẹn m� n�n cho một cảnh giới thi�n nhi�n c�ng mở rộng th�m m�i.

Những Đấng đ� liễu đạo, lớp mặc Thi�n phục đỏ, lớp Thi�n phục xanh dương, lớp nữa Thi�n phục v�ng, v� cũng c�n h�ng ng�n mặc Thi�n phục trắng.

� Những vị Thi�n phong sắc phục trắng n�i rằng: Tiết độ l� mối t�nh thương y�u l�m ch�ng ta g�n giữ trong sạch những g� m� ch�ng ta y�u mến.

� Những vị Thi�n phong sắc phục xanh dương n�i: Thận trọng l� mối t�nh thương y�u, ph�n biệt điều g� đưa đẩy ch�ng ta đến chỗ thiện v� điều g� c� thể l�i k�o ch�ng ta đi xa chỗ thiện.

� Những vị Thi�n phong sắc phục v�ng n�i: C�ng b�nh l� t�nh thương y�u đặt ch�ng ta v�o con đường phục vụ cho t�nh b�c �i.

� Sau ch�t, những vị Thi�n phong sắc phục đỏ cũng tuy�n bố: Dũng lực l� t�nh thương y�u gi�p ta đảm nhiệm mọi kh� khăn cho c�i g� ch�ng ta y�u mến.

Bốn lớp người n�i xong th� tiếng n�i của Đấng Thượng Đế, tiếng n�i ở trong T�m của mỗi người, dầu ở Thi�n giới hoặc Địa giới, hay ở Trung giới, tiếng n�i ấy đ� ph�n:

"Trong bốn m�u hiệp lại th�nh một, con đ� xuống thế, hạ m�nh một c�ch cao cả, l�m một vị Gi�o Chủ tốt. Hộ Ph�p Phạm C�ng Tắc, con h�y trở về trong l�ng TA v� g�p giữ phần trong lời Th�nh Huấn của TA, tiếng n�i của Đấng Ngọc Ho�ng Thượng Đế."

Ng�y 17 th�ng 5 năm 1959, hồi 7 giờ, trong to�n Địa giới, Trung giới, y�n tịnh hay phi�u l�ng, tất cả những người Nam Nữ trong đại cơ quan đồng tử đều được nh�n thấy v� nghe r� tất cả những sự việc m� t�i ghi ch�p y như tr�n.

Nữ Đồng tử Sarah Barthel 20 đường Alibert, Paris X�me.

�ăng tải tr�n tạp ch� Le Lien [des Cercles d'�tudes] 4 ng�y 01 th�ng 6 năm 1959, Paris Ph�p quốc.

Bản văn tiếng Ph�p

MONDIAL DU CAODAISME

HO- PHAP PHAM- CONG- TAC

Pour l�union de tous les spirites du monde: �G�missons mais Esp�rons!�...

Spiritualists d�Occident nous avons un devoir � render � nos fr�res, � nos soeurs d�Orient et d�extr�me-Orient. Devoir de communion spirituelle de participation fraternelle, de retrouvailles psychiques.

Une voix dans l�Astral me parle:�Si la vertu fait arriver � la vie heureuse, c�est parce que la vertu est un amour souverain et que cet amour ne fait qu�Un avec l�amour de toute l�umanit� et du cosmos�. Quelle est cette voix que l�on entend d�autant mieux qu�elle est devenue muette pour notre audition physique? Qu�elle est cette voix degage de la mat�rialit� et qui fut en mille points du Globe des terres peut se faire entendre au Coeurs silencieux et ouverts qui attendant en Orient comme en Occident, du nord comme au Sud, les messages conformes qui experiment l�harmonie des esprits et des coeurs?

Le Ho Phap Pham-Cong-Tac vient de se d�sincarner le 17 mai 1959 � 13h30 [heure Cambodgiene] en la pagoda de Tual Svay-Prey dans le cinqui�me quartier de Pnom-Penh�� l�heure fix�e, des porteurs eng�liques de parasols D�or sont venus au devant de Lui et les esprits malfaisants chasses au loin formaient comme un lointain soulignement noir, cadre impr�vus de l�immense tableau sidereal qui allait sans cesse grandissant. Des d�sincarn�s en toge rouges, d�autres en bleues, d�autres en jaunes�aussi par mille et mille �taient rev�tus de robes blanches.

Les v�tus de blanc ont dit:�La temp�rances est l�amour qui nous fait conserver pur pour ce qu�on aime�.

Les v�tus de bleu ont parl�:�La prudence est l�amour qui fait discerner ce qui nous pousse efficacement vers le bien et ce qui peut nous en detourner�

Les v�tus de jaune ont alors dit:�La justice est l�amour qui nous fait mettre au seul service de l�Amour�.

Enfin, les v�tus de rouge ont aussi proclam�:�La force est l�amour qui permet de tout endure pour ce que l�on aime.�

Les quatre groupes ayant parl�, la Voix des voix au Coeur de chacun, � ceux du ciel, � ceux de la terre et aussi � tous les intermonde, la Voix des voix a dit:�En quatre couleurs, dans la couleur-Une tu fus sur la Terre, un bon Sup�rieur dans ta grande humilit�!

Ho Phap Pham-Cong-Tac vient dans mon sein et tu partieperas � ma Parole qui est Voix des voix�.

D�s le 17 Mai 1959 � la Septi�me heure dans toute la terre, dans les mondes et inter-mondes, dans la fixit� et dans l�erranticit� des milliers de ceux et de celles qui forment le grand corps des mediums ont recus le message vision et audition que j�ai ici fid�lement �crit.

Madame SARAH BARTHEL, Medium

20, rue Alibert, Paris X�me.

3. Nhựt b�o La Tour � 8 France đăng tải: Tin tức tiếp nhận được một sự kiện mới " Tho�t x�c của �ấng Gi�o Chủ �ạo Cao ��i ".

Từ Thủ đ� Phnom Penh Vương quốc Cao Mi�n .

Ch�ng t�i đồng tiếp nhận được nguy�n lời thị hiện v� những điều tai nghe mắt thấy, c�ng l�c phỏng vấn nhiều k� giả v� B�o ch� tại Phnom Penh, để d�ng hiến v� loan truyền đến đọc giả xa gần tr�n Thế giới c�ng ngưỡng mộ �ấng Huyền Diệu.

"Từ tr�n kh�ng trung xuất hiện một Ng�i Cao Cả với tiếng vọng xuống:

"�ể đi đến B�t Qu�i ��i".

"��ng ng�y m�ng 05/05/1959" nhằm ng�y 10 th�ng 6 năm 1959 DL " l� đ�ng 70 năm t�i ở trong một thi ph�m x�c thịt. ��ng ng�y đ� th� t�i đ� ngồi trong một Li�n ��i B�t Gi�c [t�m g�c ] v� từ trong đ� t�i nh�n thấy h�ng h�ng lớp lớp T�n đồ diễn h�nh qua trước mặt t�i, mọi người đều được biết dấu hiệu [Ấn T�] của ng�y giờ đ� đến" .

Tiếng n�i tiếp theo với một giọng buồn trong một l�c: C� những người c� thể đến được nhưng lại kh�ng đến v� c� những người rất muốn đến m� lại kh�ng đến được, nhưng những người sau n�y, tức l� những người muốn đến m� kh�ng thể đến được, T�i cũng ban cho họ Dấu Hiệu từ trong Li�n ��i B�t Gi�c của t�i.

Tiếng N�i tiếp: �ức Ho�ng Thượng v� Ch�nh phủ Cao Mi�n đ� l�m những g� phải l�m để chứng tỏ l�ng qu�ng đại, hiểu biết v� t�nh Huynh-�ệ cao cả. Với cử chỉ cao thượng ấy, �ức Ho�ng Thượng đ�p lời một bức thư m� t�i rất cung k�nh viết v� gởi cho Ho�ng Thượng ba ng�y trước khi Linh Hồn t�i rời bỏ thể x�c, nhưng trong c�i v� vi T�i vẫn thấy v� nghe được. �ối với những người c� Th�nh t�m th� họ c� thể thấy v� nghe t�i được.

�ến đ�y tiếng n�i lặng thinh, ch�ng t�i chờ m�i c� lời n�o tiếp theo kh�ng, nhưng chẳng nghe nữa v� một v�i suy nghĩ tự thắp l�n từ tr� tuệ: vậy, đ�y c� phải l� một t�n hiệu th�ng c�ng huyền diệu hay kh�ng? Ch�ng t�i kh�ng phải kẻ lạc v�o chi�m bao, tinh thần vẫn b�nh thường v� tĩnh t�m hơn bao giờ hết, trong l�c nầy c� những chi tiết ch�ng t�i rất vui v� để l�ng, như lần đầu ti�n được biết Li�n-đ�i b�t-gi�c qu�ng �ấng Gi�o Chủ �ạo Cao ��i theo thế ngồi tự nhi�n v� nghe được lời truyền giảng của �ấng Gi�o Chủ �ạo Cao ��i Thi�n diệu.

Ngự M� Thi�n Qu�n gi�ng linh v�o thể x�c Phạm C�ng Tắc, Hộ Ph�p thay mặt Đức Ch� T�n truyền Ph�p kỳ ba. Ng�i qui Thi�n v� để lại cho nh�n loại một �ền Th�nh, Bạch Ngọc Kinh tại thế gian n�y, một Th�nh địa với h�ng triệu t�n đồ giữ vững đức tin trước bạo lực cường quyền t�m đủ mọi c�ch để đ�nh đổ đức tin, d� biết rằng họ chỉ c� một sứ mạng l� phụng sự Nh�n loại. �ức Ngự M� Thi�n Qu�n tiếp nhận lời răn của �ức Thượng �ế thực hiện th�nh tựu tại thế một �ền Thờ Cao, �ức Tin Lớn v� Người v�ng lịnh �ức Thượng �ế c�ng bố T�N CHỈ CỨU RỖI của �ẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ sẽ lưu truyền đến 700.000 năm.

TIẾT 3: SUY NGHIỆM VỀ CUỘC ĐỜI CỦA HAI VỊ

Chi�m nghiệm những c�i t�n TU DUY�N [duy�n tu h�nh, ĐẠO TẾ [cứu tế d�n ch�ng, gi�p người đắc Đạo], C�NG TẮC [contact: đ�ng mở điện, Ph�p văn], �I D�N [thương lo ch�ng sinh], ch�ng ta sẽ thấy rất c� � nghĩa về t�m linh.

Nếu nh�n lại thời thơ ấu của hai vị, c� một điểm tương đồng th� vị l� cả hai đều t�nh t�nh hiền hậu, trọn ng�y biếng n�i �t cười lại kh�ng th�ch chuyện chơi đ�a c�ng đồng bạn m� chỉ thường hay một m�nh nhắm mắt ngồi lặng, kh�c hẳn mọi đứa trẻ tầm thường.

Thuở thiếu thời, Ng�i Phạm C�ng Tắc l� một thiếu ni�n khỏe mạnh, tư chất th�ng minh đỉnh ngộ. C� điều lạ, v� sanh nhằm ng�y Khuất Nguy�n trầm m�nh xuống s�ng, cũng l� ng�y Lưu Thần, Nguyễn Triệu nhập Thi�n thai, n�n thỉnh thoảng Ng�i ngủ thiếp đi như người chết, linh hồn lạc khuất đ�u đ�u, khiến cho huy�n đường �u lo. Cảnh trạng Ng�i chết đi sống lại như thế, cả l�ng x� đều biết.Người ta cố gắng lo thuốc thang cho Ng�i, nhưng vốn tiền định, l�u l�u Ng�i ngủ lịm đi đ�i ba giờ, c� khi k�o d�i nửa ng�y.

Đ�m rằm th�ng Gi�ng năm Đinh M�i [1907], mới 17 tuổi, khi nằm tr�n sập k� trước nh� nh�n vầng trăng hư ảo Ng�i khẻ ng�m b�i "Nh�n nguyệt vấn đ�p", rồi dần dần thiếp ngủ theo cơn gi� nhẹ ru. Khi mở mắt ra Ng�i thấy chan h�a một thứ �nh s�ng huyền diệu. Bỗng thấp tho�ng đằng xa đi lại một vị sư gi�, mặc �o c� sa v�ng, n�t mặt từ bi v� cất tiếng hỏi: "Em c� nhớ qua kh�ng?". Ng�i nh�n vị sư, chợt nhớ ra vội đ�p: "Dạ nhớ".

V� năm l�n mười tuổi theo học chữ Nho, thường theo Thầy đi c�n thuốc ở tiệm Đức Vọng, chợ T�y Ninh, Ng�i đ� gặp vị sư n�y b�n với thầy Ng�i về tương lai của Ng�i: "Cậu b� n�y v�o bậc si�u ph�m, sự nghiệp v� c�ng cao cả".Vị sư gi� đưa Ng�i đến một t�a l�u đ�i, một m�u trắng tinh "Một t�a thi�n c�c ngọc l�u l�u" v� bảo Ng�i: "Em chờ ngo�i n�y Qua v�o trong một ch�t nh�".

Ng�i chờ l�u qu� kh�ng thấy vị sư trở lại, b�n vừa k�u vừa g� cửa, vẫn kh�ng thấy ai trả lời. Ng�i mới đi v�ng quanh thấy nh� c� t�m g�c v� t�m cửa đều giống nhau v� đ�ng k�n. Nh�n kỹ, Ng�i mới nhận ra mỗi cửa đều c� một con đường trắng chạy về ph�a ch�n trời xa. Trong l�c băn khoăn chưa biết chọn con đường n�o, bỗng thấy ph�a c� b�ng đ�n lo� s�ng, Ng�i liền phăng tới, gặp một t�a nh� m� cửa vẫn đ�ng. Ng�i g� li�n tiếp mấy tiếng, kh�ng thấy ai trả lời.Ng�i muốn thối lui th� một tiểu đồng xuất hiện.Ng�i bước theo tiểu đồng v�o nh�, gặp con th� l�ng v�ng �Kim Mao Hẩu� nằm chặn ngang đường, tiểu đồng đưa Ng�i đến cuối ph�ng v� dặn: �Anh chờ đ�y. L�c n�o Thầy k�u t�i sẽ cho anh hay�.

Ng�i ngắm xung quanh ph�ng, bốn mặt tường v� nền nh� l� một khối cẩm thạch phẳng liền cực đẹp.Từ ngo�i một �ng gi� cao lớn, mặc �o xanh, r�u t�c bạc trắng bước v�o. Sau l�c ph� ph�n từng người trong gia đ�nh, �ng gi� gọi tiểu đồng: "Con đem b�nh cho anh con ăn".

Tiểu đồng mang v�o đặt trước mặt Ng�i một đĩa bạc lớn, tr�n đựng đầy b�nh bốc hơi thơm phức. C�c b�nh trong ngần như bột lọc, h�nh tr�n, nửa đỏ nửa trắng, sắp theo h�nh n�n. Ng�i được �ng gi� mời ăn v� uống nước bằng t� lớn v�ng r�ng. Đợi Ng�i ăn xong, �ng gi� trầm ng�m n�i:

"H�m nay con ăn hai c�i b�nh rưỡi v� uống một t� nước. Những thứ đ� sẽ �m hợp v�o đời h�nh đạo của con sau n�y".

Ng�i tạ từ �ng gi�, nhưng nhớ đến con Kim Mao Hẩu, Ng�i xin con vật đ�. �ng gi� tỏ vẻ ưng l�ng v� đ�p: Con cứ về đi, sau n�y n� sẽ xuống với con.

Ng�i sực nhớ đi chơi l�u qu�, vội chạy nhanh về, v� � vấp phải m� đất, t� lộn đi một v�ng. Ng�i giựt m�nh tỉnh dậy, thoang tho�ng b�n tai tiếng k�u kh�c vang vầy, mở mắt ra thấy mọi người tấp nập chung quanh m�nh. Kẻ th� k�o t�c, người th� giật tay, gọi t�n ầm ĩ. Thật ra, đ�y kh�ng phải l� một giấc mộng m� l� một cuộc xuất hồn của một chơn linh hiển đạo. Cuộc v�n du n�y, năm 1927, Đức Ng�i viết th�nh quyển "THI�N THAI KIẾN DIỆN", đ�ng hơn l� "Tam thập lục thi�n hồi k�" m� b�i số 75 gần như gom � cuộc hội kiến với Đức Cao Đ�i [ph�n th�n] mặc �o xanh n�i tr�n�.

Sau khi mất, Đức Phạm Hộ Ph�p cho biết Ng�i sẽ trở lại thế gian một lần nữa nhưng kh�ng cho biết khi n�o, dưới sắc d�n n�o. To�n thể t�n đồ đều tr�ng ng�ng, mong mỏi Ng�i gi�ng l�m; đồng thời tự hỏi, v� sao Ng�i kh�ng hiển lộng thần oai để trừng trị đ�ch đ�ng những kẻ ph� Đạo, hại Đạo, muốn diệt t�n gi�o Cao Đ�i kh�ng cho ph�t triển.

Tuy nhi�n, ch�ng ta c� thể hiểu rằng:

Gi�c ngộ l� Phật. Quyền ph�p l� Ti�n.

Trong tinh thần t�n ngưỡng của d�n gian l� như thế. Qua c�u chuyện thần thoại ch�ng ta thường nghe một b� Ti�n khi đưa c�y gậy h�a ph�p từ một nơi n�o đ�, th�nh ng�i l�u đ�i tr�ng lệ hiện ra, h�a ph�p lần nữa ng�i l�u đ�i biến mất người ta gọi l� ph�p Ti�n. C�n Phật l� sự gi�c ngộ, gi�c ngộ l� Phật, m� muội l� ch�ng sanh. Ph�p thần th�ng đối với Phật kh�ng phải l� kh�ng c�, nhưng c�c vị muốn con người ch� � tới sự gi�c ngộ n�n kh�ng thi triển quyền ph�p.

Từ chỗ những bậc tiền bối x�y b�n, cầu cơ t�m th� vui giải tr� lạ hơn những chuyện thế t�nh m� n� biến h�nh ra được th�nh một t�n gi�o đ� l� ph�p Ti�n. Ch�ng ta thấy rằng Phật hay Ti�n cũng l� c�c chơn linh đ� th�i, nhưng với danh xưng PHẬT � muốn n�i đến sự gi�c ngộ. Ng�i muốn gi�c ngộ nh�n loại n�n r�ng r� trong khoảng 30 năm, Đức Phạm Hộ Ph�p đ� thuyết đạo thường xuy�n v� l�m thơ, viết s�ch để gi�o h�a nh�n sanh, gi�p nhơn sanh hiểu rằng c�i đời l� c�i tạm, l� trường thi c�ng quả. Con người ngo�i x�c th�n n�y, c�n c� những thể thi�ng li�ng v� h�nh nữa. Đ� l� CHƠN LINH, CHƠN THẦN, PH�CH, V�A�m� thể x�c chỉ l� phương tiện để CHƠN LINH học hỏi, kinh nghiệm v� lập c�ng hầu tạo lập phẩm vị, t�a sen của m�nh. Nếu d�ng quyền ph�p để lập c�c t�n gi�o th� qu� dễ đối với Đức Ch� T�n nhưng nếu như thế th� l�m sao x�t c�ng nghiệp của c�c vị gi�o chủ? trường thi c�ng quả cho ch�ng sanh, ai giữ đức tin, ai ng� theo vật chất v� thần, l�m sao ph�n biệt để tạo c�ng, lập vị cho xứng đ�ng v� c�ng bằng. V� thế, phải c� gian khổ, thử th�ch tr�n đường tu.

�Chộn nhộn kh� ph�n người với quỉ,�

�ng T.N.A. ph� Đạo, nhơn sanh ai cũng muốn Thi�ng Li�ng triệu hồi về, xin Thầy đem về sớm. Đức Hộ Ph�p n�i n� l� đồ đệ của Kim Quang Sứ, n� phải ở để khảo c�c con cho tới ng�y m�n thi chớ.�

Đức Hộ Ph�p c�n cho biết kỳ nầy sẽ rớt rất đ�ng, ước lượng 80% Chức Sắc, Chức Việc vấp ng�. Nhưng Đức Ng�i nắm luật c�ng b�nh Thi�ng Li�ng, Đức Ng�i kh�ng thể binh vực ai hết. C�ng c�n �t chừng n�o th� số đậu mới c� gi�. Ng�i chỉ lựa kẻ to�n thiện, trọn đức tin, đức hạnh.

Trước cơn khảo đảo nặng nề từ l�c khai mở nền t�n gi�o Cao Đ�i cho đến nay, ch�ng ta h�y giữ vững đức tin, giữ tr�n lời minh thệ; kh�ng v� ch�n nản hay v� tiền, quyền chức m� đổi dạ thay l�ng. Nơi c�i v� vi, Đức Phạm Hộ Ph�p đang chờ đ�n khen thưởng những t�n đồ biết tu h�nh đ�ng theo lời dạy trong TH�NH NG�N, T�N LUẬT, v� PH�P CH�NH TRUYỀN.

H�y nhớ : ���nh thoi bổn �ạo cũng l�m thinh.�

C�n bọn �c gian h�y để LUẬT THI�N ĐIỀU, LUẬT NHƠN QUẢ xử trị đ�ch đ�ng.

�Thế ti�u xu�n kỷ Long Hoa trổ,

Thưởng phạt cuối c�ng Th�nh đức th�i.�

PHẦN BA

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

TRUYỀN KỲ VỀ TẾ C�NG HOẠT PHẬT

[Theo quyển Tế Đi�n H�a Thượng của cư sĩ Kh�nh V�n]

Ch�a Linh Ẩn c�n c� t�n l� V�n L�m, nằm về hướng t�y bắc của T�y Hồ, giữa hai ngọn n�i Phi Lai v� Bắc Cao. Đ�y l� một ng�i ch�a cổ nhất H�ng Ch�u v� trứ danh khắp cả Giang Nam.Ch�a được kiến lập v�o thời Đ�ng Tấn, năm H�m H�a thứ nhất [326 CN]. Khi ng�i Huệ L� từ Ấn Độ đến H�ng Ch�u thấy n�i đồi y�n tĩnh, ng�i nghĩ đ�y đ�ng l� nơi ở ẩn của c�c vị th�nh linh, n�n đ� x�y ch�a tại nơi đ�y v� đặt t�n l� Linh Ẩn.

V�o thời kỳ c�n hưng thịnh, ch�a gồm c� 9 lầu, 18 c�c v� 72 điện đường, tăng ch�ng th� đạt đến số ngo�i 3000. Song ng�i ch�a n�y đ� bị ph� hủy v� x�y dựng lại đến nay tổng cộng l� 16 lần, nặng nhất l� trong cuộc nổi loạn Th�i B�nh thi�n quốc [1851-1864] ch�a bị ph� hủy ho�n to�n v� sau đ� mới được x�y cất lại. Ch�a Linh Ẩn cũng l� nơi đ� từng c� c�c vị đạo cao đức trọng đến tu h�nh v� gi�o h�a, trong đ� c� ng�i Vĩnh Minh Di�n Thọ [904-975] v� ng�i Tế C�ng [1130-1209].

Tất cả những h�nh vi kỳ quặc của ng�i Tế C�ng tuy l� lạ tai lạ mắt như thế nhưng đều c� t�c dụng cứu khổ v� gi�o h�a. Điều n�y l� ch�nh nguy�n nh�n về sau ng�i được gọi l� Hoạt Phật [Phật sống].Tuy nhi�n, tại H�ng Ch�u, ng�i Tế C�ng kh�ng phải chỉ sống ở ch�a Linh Ẩn m� th�i. Sau khi đại sư Huệ Viễn thị tịch, ng�i chuyển sang ở ch�a Tịnh Từ nằm c�ch ch�a Linh Ẩn kh�ng xa lắm.

Sau đ�y l�TRUYỆN VỀ TẾ ĐI�N V� NHỮNG LỜI DẠY

1.Truyền kỳ một, kiếm gỗ x�y ch�a:

Ch�a Tịnh Từ c� lần kh�ng may bị ch�y, Tế Đi�n h�a thượng liền lớn tiếng cho hay m�nh sẽ kiếm gỗ x�y ch�a mới. N�i thế nhưng ng�i lại kh�ng đi đốn c�y l�m gỗ g� cả.Trong ch�a c� một vị tri sự t�n l� Quảng Lương từ l�u đ� kh�ng ưa ng�i Tế Đi�n, thấy thế muốn chế nhạo ng�i một phen n�n l�m ngơ kh�ng th�m nhắc đến để ng�i bị thất t�n. Song đến gần ng�y khởi c�ng x�y ch�a, ng�i Tế Đi�n l�n n�i Nghi�m Lăng xin củi. Ng�i d�ng kế của ng�i Kim Kiều Gi�c tại n�i Cửu Hoa, tức chỉ n�i xin ch�t rừng bằng miếng �o c�-sa m�t củi. N�o ngờ �o c�-sa của ng�i tung ra phủ hết n�i, �o phủ tới đ�u c�y rạp tới đ�. Rồi ng�i đem thả c�y xuống s�ng, tưởng c�y tr�i ra biển, nhưng cuối c�ng c�y trồi l�n trong giếng Hương T�ch nằm ngay trong ch�a Tịnh Từ cho thợ x�y đỡ l�n. Đ� l� do ng�i d�ng thần Lục Gi�p.

2. Truyền kỳ hai: Phi Lai phong

Phi Lai phong c� một t�n gọi kh�c l� Linh Thứu phong, cao 168 m�t. Tương truyền rằng v�o thời Đ�ng Tấn năm H�m H�a thứ nhất [326 CN] c� h�a thượng Huệ L� người Ấn Độ v�n du đến H�ng Ch�u, thấy c� ngọn n�i nhấp nh� tr�ng điệp, rất giống với ngọn Linh Thứu ở Ấn Độ n�n cho rằng ngọn n�i n�y l� ngọn n�i con của n�i Linh Thứu tại Thi�n Tr�c.

L�c bấy giờ, tại ch�a Linh Ẩn ở T�y Hồ c� một vị h�a thượng đi�n đi�n cuồng cuồng v� kh�ng giữ c�c thanh quy của ch�a n�n mọi người đều gọi người l� H�a Thượng Đi�n. Một h�m, H�a Thượng Đi�n bỗng biết được l� v�o giữa giờ ngọ ngọn n�i ấy sẽ bay đến một x�m nhỏ trước ch�a, người sợ rằng nhiều người sẽ bị đ� chết n�n ba ch�n bốn cẳng vội v�ng chạy đến đ� lần lượt b�o cho từng nh� từng hộ rằng: "Đ�ng giờ ngọ h�m nay c� một ngọn n�i sẽ bay đến nơi n�y, mọi ngư�i h�y mau rời khỏi đ�y đi! Chậm trễ sẽ kh�ng kịp đấy!".

Song người n�i đến m�i kh� miệng kh�t m� chẳng c� ai tin cả. Mặt trời mỗi l�c c�ng l�n cao, người loay hoay kh�ng biết phải l�m sao, bỗng nhi�n người nghe c� tiếng k�u t�t t�t ta, t�t t�t ta của c�y k�n, người vội nh�n theo hướng tiếng k�n, th� ra c� một nh� kết h�n, xem ra rất n�o nhiệt.

Vị H�a Thượng Đi�n chạy đến chen l�n ph�a trước mọi người v� bất chấp tất cả, v�c c� d�u l�n vai rồi hướng về đường rời th�n m� chạy. Mọi người thấy vậy liền đuổi theo, k�u bắt h�a thượng lại nhưng kh�ng ai đuổi kịp, c� người c�n la rằng: "C� người xuất gia bắt c�c c� d�u k�a! Mau bắt lại d�m!" Tất cả người trong th�n trang nhỏ ấy đều nghe thấy v� chạy theo để xem hoặc để bắt lại. Thế m� c�ng l�c vị H�a Thượng Đi�n c�ng chạy nhanh hơn, đến một chỗ rất xa, l�c mặt trời l�n tới đỉnh đầu, người dừng lại, đặt c� d�u xuống rồi nh�n lại th�n trang đ� th� mọi người cũng vừa chạy đến nơi, t�nh bắt người nhưng b�n thấy trời đất tối lại, gi� lớn nổi l�n, rồi nghe một tiếng đ�ng thật lớn n�n mọi người thất kinh nằm xuống, sau một hồi l�u khi trời s�ng lại, m�y đen tan mất v� gi� ngừng thổi họ mới b� dậy xem thử th� thấy cả th�n trang của họ đều bị một ngọn n�i đ� l�n. L�c ấy họ mới hiểu rằng vị H�a Thượng Đi�n n�y v�c c� d�u đi l� v� muốn cứu họ vậy.Khi nhận thấy ra cả x�m dưới ch�n n�i đều kh�ng c�n nữa, những người d�n ở đ� mất hết nh� cửa n�n c� người �m đầu đấm ngực kh�c l�c thở than.

H�a Thượng Đi�n b�n n�i: "Việc chi phải kh�c! C�c người kh�ng biết rằng t�i chủ của th�n ấy đ� bị đ� chết ở dưới n�i rồi sao? Từ nay về sau, c�c người ai cũng c� thể tự lấy đất đai l�m của m�nh th� lo g� m� kh�ng x�y được nh�!".

Mọi người nghe vậy vui mừng cả l�n, định giải t�n, nhưng H�a Thượng Đi�n lại n�i: "Đừng đi, đừng đi! C�c người nghe ta n�i, ngọn n�i n�y đ� c� thể từ nơi kh�c bay đến đ�y ắt sẽ c� thể từ nơi n�y bay đi đến nơi kh�c l�m hại nhiều người. Vậy ch�ng ta h�y tạo 500 t�n tượng La H�n bằng đ� tr�n n�i để đ� lại n�i ấy, kh�ng cho lại bay đi nơi kh�c hại người nữa, c�c người nghĩ c� tốt kh�ng?".

Mọi người nghe xong, c�ng l�c n�i tốt v� lập tức ra tay c�ng tạo tượng. đ� tạo xong 500 tượng La H�n khắp n�i. Từ đ�, ngọn n�i nhỏ ấy kh�ng c�n c� thể bay đến nơi kh�c nữa, vĩnh viễn nằm ở trước mặt ch�a Linh Ẩn. Do v� ngọn n�i ấy l� từ nơi kh�c bay đến n�n được gọi l� Phi Lai phong. Những đặc điểm của n�i Phi Lai l� địa chất của n�i cấu tạo bằng đ� v�i [limestone], tất cả mặt của n�i đều lởm chởm kh�ng đều, kh�ng c� vi�n đ� n�o m� kh�ng c� h�nh th� kỳ lạ, kh�ng c� c�y n�o m� chẳng gi�, kh�ng c� hang động n�o m� kh�ng tối [c� lẽ v� sự nhấp nh� của từng lớp n�i l�m che khuất �nh s�ng chiếu v�o]. Xưa, nghe n�i l� tr�n n�i c� tất cả 72 hang động, nhưng đa số đ� bị ch�m lấp. Hiện tại chỉ c�n lại c� ch�n động.Trong Long Hoằng động c� tạo một pho tượng của Ng�i Quan �m.Ngo�i ra trước cửa động chỉ c�n c� duy nhất một c�i th�p thuộc đời nh� Minh t�n Linh Thứu, th�p c� s�u mặt v� s�u tầng.

3. Truyền kỳ lấy đạo l� quyền ph�p cảm h�a �c gian:

N�i về Quảng Lượng dẫn hai vị Vi�n Ngoại v� c�c vị th� chủ l�n Đại H�ng Bảo Điện thấy Tế đi�n ngồi ung dung lim dim cặp mắt, miệng n�i �Thịt b�o lắm!�mặccho mọi người quỳ lạy b�i ch�o hỏi, kh�ng th�m biết tới.Trước quang cảnh ấy Quảng Lượng phừng phừng nổi giận sấn đến x�Tế Đi�n m� qu�t:

-Đồ kh�ng, c� c�c vị qu� kh�ch viếng ch�a, sao c�n v� lễ như vậy?

Tế Đi�n lặng im kh�ng n�i, hai vị vi�n ngoại tiến l�n sụp lạy Tế Đi�n rồi quay sang bảo Quảng Lượng:

-Ch�nh ng�i mới v� lễ, d�m n�i x�ch m� đối với Phật sống m� ch�ng ta hằng k�nh trọng. C�c ngươi bất qu� l� hạng ăn b�m cảnh ch�a, m� dối l�ng người, nay c�ng nay b�i để cầu lợi, sao d�m khinh khi Phật sống.Ngươi tự lượng xem, dời đ�n na t�nh th�, kh�ng kế sinh nhai, ng�y ăn hai bữa nhờ cậy thập phương, kh�ng l�m được việc g� �ch lợi cho ai, quen th�i"ăn m�y trưởng giả" kh�ng biết tự tỉnh m� c�n ăn n�i qu�ng xi�n!

Quảng Lương nghe n�i tức giận t�m gan, nhưng v� c�c vị vi�n ngoại v� c�c vị th� chủ xưa kia đều l� những vị c�ng đức với ch�a, c�i lại một c�u,họ kh�ng c�ng dường nữa, lấy g� ti�u x�i, đ�nh lẳng lặng lui ra, nghĩ thầm:"M�nh với chư tăng giữ lễ ra ch�o đ�n trịnh trọng m� họ dở mặt mắng l� m� dối l�ng người, c�n như thằng đi�n kia th� lại trọng vọng kh�ng d�m gọi t�n, đời thật tr�i ngược, tức chết đi th�i!"

L�c ấy Tế Đi�n v�ng mở mắt m� hỏi:

- C�c ngươi đến c� chuyện chi, ăn n�i lao xao thế vậy?

Mọi người mừng rỡ quy rạp xuống m� bạch:

- Ch�ng đệ tử đến b�i kiến sư phụ cầu được chỉ dạy huyền cơ.

- A! C�c ngươi bị đ�i phải kh�ng? Cơ l� đ�i, bụng rỗng kh�ng chịu được e sợ chết đ�i chứ g�? Vậy ai đ�i trước hết ăn miếng thịt n�y, khỏi ngay lập tức.

- Ch�ng đệ tử nghe danh ho� thượng Phật sống đời nay đến hỏi huyền cơ diệu l� chớ kh�ng hỏi chuyện cơ h�n thống khổ ở đời, xin Ng�i dạy bảo cho biết.

- Trong n�i c� nước, dưới nước c� c�, ba lần bảy th� l� hăm mốt, người ta c� ruột, c�y kia c� da, người kh�ng ăn đất th� ăn gạo trắng m� sống, đ� l� c�i l� mầu nhiệm!

Quảng Lượng nghe bật ph� cười, hai vị vi�n ngoại v� c�c vị th� chủ cũng đều lắc đ�u thất vọng. Một vị cố gặng hỏi th�m:

- Ch�ng t�i hỏi đ�y l� hỏi lẽ nhiệm m�u trong đạo Phật, hỏi c�ch tham thiền, hỏi cơ trời đất, xin ho� thượng vui l�ng chỉ gi�o.

- Hoan hỷ! Hoan hỷ! Hiểu rồi! Hiểu rồi �! Phật hoan hỷ, tăng hoan hỷ, c�c ngươi hoan hỷ, vậy ta hỏi: C�c ngươi c� hoan hỷ kh�ng?

- Bạch, xin sư phụ dạy bảo cho nghe!

- Lầu Đại Bi bị sụp đổ, c�c ngươi c� hoan hỷ x�y dựng lại chăng?

- Bạch, ch�ng đệ tử t�nh nguyện x�y lầu Đại Bi cho sư phụ, nếu sư phụ giảng cho hiểu đạo.

- Hiểu đạo l� kh�ng mặc cả, tự t�nh hiểu hay kh�ng hiểu, c�c ngươi tốt bụng, h�o hiệp, phải ph�t khởi t�m bồ đề tự nguyện. Nếu c� l�ng th�nh muốn r� cơ duy�n, phải l� ch� th�nh chứ c� đ�u mặc cả l� c� được, hiểu đạo mới th�nh t�m?

- Bạch, ch�ng đệ tử xin th�nh t�m c�ng dường tiền bạc để sư phụ x�y lầu Đại Bi. - Ờ, như thế mới phải, mới l� người t�m đạo v� học đạo, h�y n�n lẳng lặng m� nghe:

Người y�n n�n biết vốn kh�ng y�n Bằng hỏi cơ trời ấy c� duy�n Cơ chủ trống khung, thiền chủ lặng Lặng kh�ng, kh�ng lặng ấy cơ thiền.

Một h�m, Tế Đi�n đang đ�nh cờ với Triệu văn Hội chợt thấy m�y mắt giơ tay bấm độn, chau m�y m� n�i:- T�i phải về Ch�a c� việc gấp.T�n thừa tướng đang sai người đến gỡlầu Đại Bi lấy gỗ qu� về dựng lầu C�c Thi�n.T�i phải giảng luận một phen cho họ Tần r� đường đạo l� mới được.

Họ Triệu can rằng:- Sư phụ tranh chấp chi với Tần thừa tướng, y vốn quyền thế nhất mực,ngang t�ng kh�ng ai bằng. Sư phụ l� bậc tu h�nh nay đ�y mai đ�, lầu ĐạiBi tại ch�a c� phải l� ch�a của sư phụ đ�u, tranh lại với y sao nổi?

- Người tu h�nh khi chấp khi thường, khi quyền khi biến, c�i của ta kh�ng phải c�i của ta, c�i kh�ng phải của ta tức như của ta, ta cho được, của người ta phải giữ. Phương chi kẻ c� quyền thế, hiếp đ�p bốn phương ch�nh l� những kẻ cần phải lấy đạo l� m� cảm h�a để quay về nẻo ch�nh. N�i xong khăng khăng một mực c�o từ. Về tới ch�a, Quảng Lượng chạy ra v� n�i:

- Sư đệ về vừa đ�ng l�c, ch�a đang c� họa to, sư đệ đ� r� chưa?

Tế Đi�n giả � kh�ng hay biết g� hỏi lại:

- Chẳng hay c� họa g� to t�t?

- Ở phủ thừa tướng cho người đến đ�i gỡ lầu Đại Bi lấy gỗ về dựng lầu C�c Thi�n, bởi nghe lầu của ta c� nhiều gỗ qu�.

- Đừng để cho ch�ng gỡ chứ!

- Ai m� cản nổi, bốn t�n quản gia của phủ thừa tướng hết sức ngang t�ng, ch�ng ỷ sức mạnh, quyền to, hung hăng như hổ b�o, hiện đang c�h�ng trăm qu�n l�nh đến gỡ lầu, kh� bề cự lại.

Tế Đi�n đi thẳng v�o trong, tới thiền đường thấy bốn trang hảo h�n v�c� h�ng trăm gia đinh v�y quanh, chờ lệnh gỡ lầu.Tế Đi�n ung dung tiến v�o v� bảo:

- Nước c� ph�p nước, d�n c� quyền d�n! C�c ngươi l� ai d�m đến nơi nghi�m tịnh ph� ph�ch ?

Bốn t�n quản gia đứng l�n một lượt, dằn mạnh ch�n tr� qu�t lớn:

- Ngươi l� kẻ n�o?

- Ta l� ta

- Ta vẫn biết ngươi l� ngươi, nhưng ph�p danh l� g� ? Sao d�m ăn n�i l�o xược với ch�ng ta?

- C�c ngươi hỏi thế c� �ch chi. C�c ngươi vốn l� hạng kh�ng th�ng đạo l�, x�t lại ngay như thừa tướng quan cao cực phẩm, l� ưng phải l�m l�nh chứa đức mới mong d�nh ch�t tư lương m� hưởng ph�c về sau. N�o hay thấy �t gỗ qu� ph�t khởi l�ng tham, nỡ đang tay l�m việc ph� hủy cảnh ch�a chiền, x�m phạm đất Phật. C�c ngươi h�y nghe ta, về n�i lại c�ng thừa tướng c� ta l� Tế Đi�n đ�y kh�ng ưng cho ng�i l�m việc ph� ch�a.

Bốn t�n Đ� quản nghe n�i trợn mắt tr�n xoe, mặt giận hầm hầm. Tần An xắn tay �o l�n v� h�t:

- L�o ho� thượng gi� h�m lợi khẩu, h�y nếm quả đấm của ta.

Tế Đi�n cũng mắng:

- Ngươi muốn đ�nh người �, c� giỏi th� h�y ra s�n ch�a đọ sức c�ng ta...

C�ng văn hoả tốc về phủ L�m An, quan phủ địa phương liền đặc ph�i hai v� quan đem 50 t�n l�nh v� đ�ch th�n tri phủ về ch�a v�y bắt chư tăng. Qu�n l�nh tr�ng tr�ng v�y k�n quanh ch�a, những t�n sai dịch x�ng v�o, bất kể l� ai bắt tr�i hết rồi �p giải về phủ thừa tướng.Thừa tướng nghe tr�nh lập tức đăng đường, thấy c�c h�a thượng �o m�o chỉnh tề đứng hầu dưới trướng chẳng r� ai l� Tế Đi�n liền qu�t hỏi:

- Trong bọn n�y ai l� Tế Đi�n, n�i mau?

Người xướng danh liền lần lượt đọc t�n:

-H�a thượng Nguy�n Th�ng, Quảng Lượng, Đức Huy, T�ng Thụy, Huệ Lăng ... kh�ng c� ai l� Tế Đi�n cả ..

Thừa tướng nổi giận hỏi:- Ta sai đi bắt t�n h�a thượng kh�ng sao lại kh�ng bắt! N�y c�c h�a thượng kia, ta sai người đến lấy gỗ tốt về cất lầu C�c Thi�n cho hay kh�ng cho th� n�i, cớ sao d�m đ�nh sai quan đến nỗi c� người thọ trọng thương. H�nh động n�y đủ cho ta thấy lũ ngươi kh�ng giữ thanh qui, định l�m phản loạn phải kh�ng?

Quảng Lượng l�n tiếng thưa rằng:

- Mọi sự hằng ng�y ch�ng t�i chuy�n tr� ăn chay niệm Phật chẳng d�m cưỡng lại lệnh tr�n. Sự việc xảy ra l� do đạo kh�ng, đệ tử của H�a thượng Nguy�n Kh�ng l�m ra tất cả. Bẩm tướng c�ng cho người bắt hắn tra cứu sẽ ra hết tự sự.

Tần thừa tướng liền hạ lệnh cho tri huyện Tiền Đường v� tri phủ Nh�nH�a ph�i sai dịch bắt cho được Tế Đi�n v� cho dỡ lầu Đại Bi tức khắc.Tri phủ v� tri huyện lệnh liền ph�i gia nh�n đốc xuất binh sĩ về ch�a, một mặt cho người dỡ lầu, một mặt cho người đi bắt Tế Đi�n. Lũ gia nh�n được cắt cử đến dở lầu ph�n nhau người tr�o l�n m�i, người lo chở gỗ đi. Trong bọn c� người tr�o l�n n�c nh� đứng lặng thinh một hồi, nh�n xem cảnh lầu h�ng vĩ nguy nga thốt ch�p miệng than rằng:

- Tiếc thay một to� lầu đẹp đẽ v� ngần, l�c cất l�n mất bao tiền của thập phương, thế m� chỉ v� l�ng tham của một vị quan to m� phải một l�c dở đi thật l� đ�ng tiếc biết bao!

Lời than chưa dứt, chợt trượt ch�n từ tr�n n�c lầu, cắm đầu xuống đất, nhưng may thay khi gần tới đất như c� người đỡ l�n n�n kh�ng sao hết.

Một người kh�c lo chuyện khi�ng gỗ, thấy miếng gỗ qu� liền c� � nghĩ:

- Thật l� may, chuyến n�y dỡ lầu đ�y �t ra cũng phải mất chừng hai th�ng. Dỡ lầu Đại Bi xong lại lo cất lầu C�c Thi�n cho thừa tướng th� �t ra cũng 3,4 th�ng nữa mới xong, thế l� ta c� c�ng ăn việc l�m cả năm chưa hết, v�i trời ph� hộ cho cứ c� việc như thế n�y lu�n lu�n th� sướng biết bao.

Nghĩ xong đắc �, cười cười n�i n�i c� vẻ th�ch th� v� c�ng. Tế Đi�n đứng trong Đại H�ng bảo điện nh�n ra biết r� t�m tư, muốn cho kẻ �c biết lẽ b�o ứng liền niệm ch� lấy tay chỉ một c�i. Người ấy đang đi cười t�t mắt vướng ngay phải một kh�c c�y nhỏ, ng� bổ nho�i về đằng trước, vặn m�nh đứng dậy th� đứng kh�ng nổi v� bị s�i hẳn một ch�n. Lết m�i mới ngồi l�n được, �m ch�n m� r�n:

- Trời đất ơi! Đau như thế n�y đến phải nghỉ h�ng th�ng, l�m ăn g� được nữa!

Đang l�c Tế Đi�n thi ph�p tỏ vẻ h�o hứng th� bọn sai dịch k�o đến v�y bắt, c�ng tay Tế Đi�n l�i đi.Tế Đi�n giả bộ ngơ ng�c hỏi:

- Chẳng hay t�i c� tội g�?

- Cứ về tướng phủ sẽ r�.

- Thừa tướng th� thừa tướng, sao lại bắt người v� cớ? Bắt một vị tăng sĩ m� c�ng tr�i thế n�y hay sao? Luật ph�p n�o cho ph�p vậy? Mời mọc tử tế th� ta đi, bằng m� l�m oai l�m ph�ch th� ta nhất định kh�ng đi.

- �, đ� vậy để bọn ta thẳng tay cho ngươi biết ph�p.

N�i xong bọn sai dịch người th� k�o tay, kẻ k�o ch�n l�i đi. Tế Đi�n thấy vậy ngồi phịch ngay xuống đất. Lạ thay, bảy, t�m người x�m lại m� l�i một vị sư gầy v� v�ng m� kh�ng l�i nổi. Một t�n cầm đầu lấy l�m lạ h�t l�n:

- Hẳn l� ch�ng bay nể nang chứ t�n h�a thượng gầy c�m n�y chỉ một người x�ch đi cũng xong can chi m� l�m bộ h� hục k�o l� như thế!

Trong bọn c� một người biết tiếng Tế Đi�n xưa nay liền tiến lại v�ng tay c�i đầu m� n�i:

- Bạch thầy từ bi, ch�ng t�i l� phận sai dịch v� lệnh cấp tr�n m� đi thỉnh ng�i về, xin ng�i hoan hỷ. Đối với ch�ng t�i thật chẳng c� sự chi th� o�n, mọi sự việc đều do nơi thừa tướng, ch�ng t�i phận dưới đ�u d�m kh�ng tu�n? Xin đại sư phụ đại ph�t từ bi thương x�t ch�ng t�i m� về tướng phủ kẻo thừa tướng qu� giận bắt tội ch�ng t�i th� thật khổ cho vợ con ch�ng t�i lắm lắm.

Tế Đi�n nghe bạch gật đầu cười bảo:

- M� Phật! Vị t�nh c�c người m� ta đi thử một phen. Nếu trước nhẹ nh�ng mời mọc th� đ�u c�c ngươi phải nhọc sức nhọc l�ng. N�o đi! Mấy thuở m� được hầu thừa tướng!

N�i xong cười rộ m� đứng dậy, bọn tay sai bỗng thấy nhẹ bỗng như chẳng c� người v� Tế Đi�n dắt đi v�n vụt.

Đ�y n�i bọn sai dịch mời được Tế Đi�n gấp gấp trở về tướng phủ. Tần thừa tướng nghe tin lập tức thăng trướng đ�i v�o, chỉ thấy một thầy tu gầy guộc ăn mặc r�ch rưới, đứng trơ trơ dưới thềm. Tả hữu th�t quỳ, nhưng nh� sư nghiễm nhi�n như kh�ng nghe tiếng. Thừa tướng cả giận vỗ �n qu�t mắng:

- Hay cho t�n đạo kh�ng! Ta cho người tới lấy gỗ, chịu hay kh�ng th� bầy tỏ, cớ sao cả gan d�ng ph�p thuật y�u ma m� hại người. H�y mau mau kể hết sự t�nh để bổn đ�i xử trị!

Tế Đi�n nhướng mắt l�n cười bảo:

- Sao nh� ngươi chẳng tự x�t minh, vội v� tr�ch người. Nghĩ như ngươi th�n l�m thừa tướng ng�i cao nhất phẩm, v�ng lụa gấm v�c thiếu g�, sao nỡ v� cớ đến ph� hủy cảnh ch�a. Lầu Đại Bi l� sự g�p c�ng g�p của thập phương dựng n�n, kh�ng phải của ri�ng ai, nay bỗng chỉ v� tham �t gỗ đẹp, dỡ gỗ ở ch�a về dựng lầu chơi, ch�nh ngươi l� người l�m điều tr�i ph�p. - Cha chả, sư kh�ng gi� họng sao d�m mạt s�t l�o gia?

Tế Đi�n lại cả cười chậm r�i:

- Bọn sai dịch ph� ch�a, ta đ� trừng trị cho biết lẽ b�o ứng. C�n như ngươi d� l� bậc t�n qu� thế gian, trước việc l�m tr�i đạo đ� kh�ng tự tỉnh c�n đi tr�ch người, như vậy l� kẻ v� t�m, v� qui, c�ng n�n giận tr�ch biết bao. Tội ấy đ�nh bốn chục c�n mới hả!

Tần thừa tướng c�ng th�m giận dữ, r�u t�c dựng ngược th�t vang ầm ĩ,bỏ ghế xuống điện v�c c�n đ�nh th�n toan đ�nh Tế Đi�n. Đang l�c giơ c�n toan đ�nh bỗng thấy qu�n hầu hớt hải chạy lại phủ phục bẩm rằng:

- D�m bẩm tướng gia, kh�ng biết v� đ�u đại đường lửa ch�y ngất trời.

Tần thừa tướng nghe n�i biến sắc mặt, vội v� ngừng tay, truyền giam s�u thầy tr� v�o đại lao rồi đốc th�c gia nh�n đi cứu lửa. Sai qu�n canh giữ chư tăng...

Tối đến, qu�n canh bầy thức ăn v� rượu, qu�y quần ăn uống, cười vui th�ch th�, chợt thấy Tế Đi�n cười h� h� d�m qua cửa sổ m� n�i:

- Nhờ mấy vị từ bi, cho t�i một ch�n rượu coi, uống xong rồi ngủ, khỏi mất c�ng canh g�c!

- �ng l� h�a thượng sao lại đ�i uống rượu?

Tế Đi�n cười ha hả:

- Ch� em chưa th�ng sự l�, trời c� tửu tinh, đất c� tửu truyền, người c� tửu ti�n. Rượu l� chất gạo, h�a hợp vạn sự, gạn đục n�n trong, thuận với t�nh t�nh, th�m sức, d�n g�n th�ng m�u, l�m cho tinh thần phấn khởi, sức lực dồi d�o, như thế uống v�o th�m tỉnh, tr� tuệ gia tăng, đ�u cần ki�ng cữ, cho t�i một ch�n chẳng vui sao?

Rồi Tế Đi�n bảo:

- Thử nhau cho biết chứ ta đ�y c� thiếu g� rượu uống.

Tế Đi�n cầm ch�n giơ l�n miệng niệm thần ch�, chiếc ch�n sạch kh�ng bỗng thấy rượu đ�n tr�n b�t, phun như suối, m�i thơm ng�o ngạt. Mọi người tr�ng thấy đều bắt đầu th�m, đua nhau đến xin nhưng khi bọn họ giơ ch�n th� b�t lại r�o kh�ng. Tần Thăng tức tối n�i l�n:

- Tr�ng th� c� rượu, xin uống lại kh�ng, đ�ng l� ngươi đ� l�m tr� ảo thuật.

Tế Đi�n cười bảo:

- Hễ ngươi th�nh t�m mới c� rượu bồ đ�o ti�n tửu, hễ ngươi xấc xược chỉ c� nước l� kh�ng th�i, c�n ngươi khinh miệt mỉa mai th� ch�n kia r�o cạn.

Cả bọn đồng k�u l�n:

- Xin th�nh t�m, th�nh t�m!

Tế Đi�n cười ha hả, giơ ch�n, rượu lại từ đ�u tr�o l�n như suối, mọi người x�m lại xin, khắp thảy mỗi người một ch�n uống v�o thơm ngon v� tả. Nhưng v�i ph�t sau mắt ch�ng chĩu xuống, gục ng� ngủ v�i. Tế Đi�n liền tự cởi tr�i th�o g�ng, mở cửa đi v�o ph�a trong. Chợt thấy một nam một nữ tội nh�n giam cạnh.

- Hai vị t�n chi, cớ sao bị thừa tướng bắt giữ?

Người đ�n �ng thưa:

- Thưa th�nh tăng, t�i t�n l� Vương Hưng v� đ�y l� tiện nội t�n Ng� thị. Nguy�n Tần thừa tướng c� người con t�n t�n l� Tần Đạt, hay cậy quyền cậy thế cha, kh�ng việc �c n�o kh�ng l�m,nhất l� rất hay ưa g�i đẹp. Hắn tr�ng thấy vợ t�i, rất ưng � n�n gọi đến v� bảo t�i nhường lại, y sẽ cho 200 lạng bạc.T�i nghĩ t�nh chồng vợ t�o khang, h� v� tham 200 lạng bạc m� dứt nghĩa phu th�, do vậy nhất mực kh�ng chịu. Tần Đạt liền ra oai cho người giam t�i lại rồi khiến gia nh�n đi bắt vợ t�i..May thay Phật Trời ph� hộ n�n gặp được th�nh tăng.

Chợt nghe ngo�i cửa c� tiếng lao xao cười n�i. Nguy�n Tần Đạt v� ước ao Ng� thị m� kh�ng toại � n�n sinh buồn bực, liền c�ng gia nh�n v�o chốn ph�ng giam. Tế Đi�n vừa thấy liền niệm ch�, chỉ tay một c�i. Tần Đạt cho�ng v�ng mặt m�y như người say rượu ng� quay xuống đất...

Tần c�ng tử nằm ngay như chết, mặt t�i nhợt, đầu to như c�i trống, đ�i mắt chỉ c�n lờ đờ, hơi thở kh� khăn. Thừa tướng nghe tin cảm thương nức nở, hỏi thăm căn do nhưng kh�ng ai biết v� sao n�n mời lương y điều trị. Danh y L� Hồi Xu�n đến coi bệnh, chẩn mạch thấy chạy đều ho�, kh�ng c� bệnh g�, c�n đầu to chẳng biết tại sao liền bẩm c�ng thừa tướng:- D�m bẩm tướng c�ng, qu� c�ng tử thọ bệnh, v�n sinh đ�y xin cam chịu lỗi, xin tướng c�ng k�p cho thỉnh bậc cao minh kh�c, c�n v�n sinh t�i sơ học thiển kh�ng trị được bịnh n�y.

Thừa tướng nghe n�i lặng đi một hồi, rớm lệ m� bảo:

- Nội v�ng, nghe n�i Ti�n sinh l� bậc danh y đ� cứu gi�p cho rất nhiều người trọng bệnh, sao ti�n sinh lại nỡ ch� bệnh con ta, tự hạ t�i h�n. Vậy ti�n sinh biết ai l� bậc cao minh hơn nữa chăng, xin chỉ dạy gi�m!

L� Hồi Xu�n chợt nghĩ ra sự g� liền bẩm:

- Bẩm tướng gia, nếu muốn chữa khỏi bệnh cho c�ng tử t�i thiết nghĩ chỉ c� một người, hiềm v� t�nh t�nh khật kh�ng n�i năng kh�ng được �m dịu, nhưng thật c� t�i.

Thừa tướng hỏi ngay:

- Ai? Người chữa được bệnh con ta l� ai? Xin ti�n sinh cho biết ngay đi.

- Bẩm tướng c�ng v�n sinh chỉ e kh� thỉnh, c�n như bản l�nh trị liệu của �ng ta th� quả l� th�nh sống, bất cứ bệnh g� đều chữa được cả, d�m l�m cho người chết sống lại nữa kia.

- Chớ c� ngại ngần, dầu c� x�c phạm lỗi lầm, nhưng chữa được bệnh cho con ta l� �n nh�n. Xin ti�n sinh k�p n�i t�n họ để ta cho người đi thỉnh.

- Bẩm n�i ra, chỉ sợ tướng c�ng kh�ng muốn d�ng, người n�y vốn l� một h�a thượng. H�a thượng n�y l� vị Phật sống ở ch�a Linh Ẩn, ph�p danh Đạo Tế, người ta thường gọi Tế Đi�n Tăng v� c� t�nh kh�ng kh�ng.

Thừa tướng giật m�nh n�i:

- T� ra l� t�n h�a thượng kh�ng đ�, hiện ta đ� bắt giam hắn trong phủ.

L� ti�n sinh nghĩ trong bụng cười thầm: "C� lẽ v� vậy n�n c�ng tử mới gặp nạn n�y, đ�ng l� mắc tay Tế Đi�n đ�y", nhưng kh�ng d�m n�i. Thừa tướng vội sai gia nh�n:

- Bay đ�u! Qua nh� giam gọi Đạo kh�ng tới đ�y trị bệnh, hễ chữa khỏi bệnh cho c�ng tử th� ta tha cho hắn về ch�a.

Gia nh�n v�ng lời, đi chẳng bao l�u về bẩm:

- Bẩm tướng gia, tiểu nh�n phụng mệnh đến k�u Đạo kh�ng về lo chữa bệnh cho c�ng tử, y n�i về hỏi lại tướng gia l� đi rước thầy thuốc hay đi bắt giải trọng phạm.

L� ti�n sinh đứng cạnh vội n�i:

- Tế C�ng vốn kh�ng phải người thường, xin phải d�ng lễ thỉnh mới được!

Thừa tướng bảo gia nh�n:

- Đến n�i cho y biết l� ta thỉnh mời.

Gia nh�n đi một l�t trở về kh�ng v� bẩm:

- Đạo kh�ng kh�ng đi v� bảo nếu tướng gia muốn kết th�n với tăng sĩ phải đ�ch th�n đi thỉnh. V� lại thừa tướng vị cao cực phẩm, ng�i bậc nh�n thần, c�n y l� h�a thượng ngh�o n�n, vốn kh�ng giao t�nh, do vậy kh�ng d�m l�m th�n.

Thừa tướng nổi giận đ�ng đ�ng, nhưng khi quay lại thấy Tần Đạt lăn lộn r�n la th� động l�ng thương x�t. L� ti�n sinh lại n�i th�m v�o:

- Tướng c�ng h�y nhẫn nhịn h�a thượng một phen, việc cần yếu l� phải chữa bệnh cho c�ng tử.

Thừa tướng � chẳng muốn hạ m�nh, nhưng v� phụ tử t�nh th�m, cực chẳng đ� n�n giận c�ng đi với L� lang trung tới nh� giam Tế Đi�n, v� n�i:

- Đại sư, nh�n v� con ta đau bệnh lạ, thỉnh cầu đại sư chữa gi�p.

Tế Đi�n ngồi kiết gi� dưới đất n�n lặng như chẳng nghe thấy g�. L� ti�n sinh lẹ l�ng qu� xuống m� bạch:

- Bạch sư phụ, đệ tử l� L� Hồi Xu�n, xa vắng l�u ng�y nay xin ra mắt cầu sư phụ. Nh�n v� Tần c�ng tử đau bệnh lạ, đệ tử c� giới thiệu v� nay thừa tướng th�n đến kiến minh, d�m mong sư phụ niệm t�nh cứu gi�p một phen.

Tế Đi�n mở mắt bảo:

- Muốn ta chữa bệnh m� g�ng tr�i như vậy sao?

Thừa tướng vội sai gia nh�n cởi tr�i, mở g�ng. Tế Đi�n lại bảo:

- Sư phụ ta c�ng c�c sư huynh đệ bị tr�i thế kia, ta sao y�n m� đi trị bệnh.

Thừa tướng hiểu �, liền sai gia nh�n cởi tr�i cho tất cả, truyền qu�n gia đưa về ch�a, đồng thời xuống lệnh cho tri huyện v� tri phủ đ�nh chỉ t�c khắc kh�ng được dỡ lầu Đại Bi, tho�i triệt nh�n c�ng trở về phục lệnh. Bấy giờ Tế Đi�n mới đứng dậy cười rồi theo thừa tướng đến thẳng giường bệnh của c�ng tử. Tế Đi�n đứng ngay ngắm ngh�a rồi lắc đầu m� n�i:

- Tại sao đầu c�ng tử to lớn thế n�y? Ta biết g� m� chữa với chạy!

Thừa tướng nghe n�i bất gi�c ứa nước mắt kh�c. L� ti�n sinh cũng ra chiều thất vọng. Nhưng Tế Đi�n đ� bảo:

- Tuy vậy cũng c�n c� thuốc chữa, nhưng ch�nh c�ng tử phải th�nh t�m s�m hối, chừa bỏ nghiệp �c mới mong khỏi được, bệnh n�y l� bệnh đầu ung.

N�i xong lấy vi�n thuốc đen bảo gia nh�n lấy nước ho� cho uống v� dặn: - Ta trị bệnh n�y th� được, uống thuốc v�o l� khỏi nhưng ng�y sau nếu c�ng tử c�n dấy l�ng t� d�m, cưỡng bức phụ nữ, ỷ thế lộng h�nh chẳng ki�ng ph�p nước th� chắc chắn l� bệnh đầu ung sẽ lại t�i ph�t, kh�ng c�n thuốc n�o chữa được.

Ngay tự giờ v� m�i m�i về sau, c�ng tử phải tập l�m sao cho b�nh t�m, h�a kh�, trừ bỏ �c niệm th� chắc l� bệnh chẳng bao giờ t�i ph�t nữa...

Thừa tướng muốn xem t�i học của Tế Đi�n liền đem thi, ca, từ ph� c�ng c�c lẽ huyền diệu đạo l� ra hỏi.Tế Đi�n đ�p th�ng như nước chảy,kh�ng những thế nhiều c�u si�u tuyệt vượt hẳn sức tri kiến thế gian. C�ng việc xong xu�i, L� ti�n sinh từ gi� trở về.Thừa tướng nhất định mời Tế Đi�n lưu lại đ�m đạo.Trong c�u chuyện, Tế Đi�n đem lẽ huyền vi đạo l� ra gi�c ho�, m� từ c�u thơ, giọng ph� thuần thị như xuất khẩu th�nh chương, khiến thừa tướng hết sức kh�m phục mới tỏ b�y t�m sự:

- Bạch thầy, ta tuy quan cao cực phẩm, ng�i ở nh�n thần m� l�c n�o cũng nơm nớp lo sợ bởi gần vua như gần cọp, một sớm lỡ lầm tấm th�n ắt khổ, kh� nỗi vẹn to�n. Th�m t�m ta vẫn muốn bỏ hết mọi sự đời, sớm chiều tu t�m dưỡng t�nh, ti�u dao tự tại vui cảnh sơn l�m c�ng cốc m� th�i. Tế Đi�n n�i:

- Như ng�i ng�i cao tột bậc, nghĩ xem chỉ dưới một người c�n m�nh đứng tr�n mu�n d�n, c�n ai hơn nữa m� lo!

Thừa tướng giơ tay lắc đầu m� n�i:

- Xin chớ n�i đến ng�i cao, ng�y nay ta sợ lắm rồi. Tục ngữ c� c�u: Quan lớn th� sinh nguy hiểm, quyền lớn th� bị d�m siểm, tr�o cao ắt phải ng� đau. Ta từ nhậm chức tới nay, mỗi mỗi việc g� cũng phải thận trọng từng ly từng t�, dầu vậy vẫn e trước mặt th� người trọng, sau lưng th� người ch�, biết đ�u chẳng nhiều kẻ o�n! Ta thật l�ng muốn cạo đầu đi tu, nhờ thầy d�u dắt tr�n đường đạo hạnh,rộng chứa �m c�ng, cầu cho tấm th�n y�n ổn trọn đời, chẳng hay � thầy c� thuận chăng?

Lời n�i của thừa tướng ra vẻ tha thiết, th�nh thực, Tế Đi�n liền chậm r�i bảo:

- Tu l� trau dồi, sửa chữa; ng�y thường g�n giữ việc l�m cho đừng tr�i đạo, ấy l� người tu. Ng�i dốc l�ng v� d�n v� nước qu�n m�nh l�m việc �ch chung, tr�n kh�ng dua nịnh, dưới chẳng ch�n �p, d�n t�nh cảm phục, ch�ng ch�ng nể v�,quyết nhi�n tấm th�n y�n ổn, c� g� phải lo.

Thừa tướng cảm tạ đưa tiễn ng�n lạng v�ng nhưng Tế Đi�n nhất mực chối từ chỉ dặn:

- Ng�i cao muốn vững phải gắng l�m l�nh, những tội x�m phạm ch�a, giam hảm tăng, ni đều l� ngũ nghịch trọng tội n�n s�m hối đ�m ng�y. Đối với d�n ch�ng phải n�n hết l�ng thương mến, thế l� tướng c�ng ban ơn cho bần tăng vậy.

Thừa tướng nghe n�i c�i đầu lạy tạ rồi sai qu�n gia đưa tiễn Tế Đi�n về ch�a Linh Ấn.

N�i về thừa tướng v� cảm k�ch �n s�u của Tế Đi�n liền sai qu�n gia rầm rộ đưa th�nh tăng trở về ch�a, dọc đường d�n ch�ng lũ lượt đi xem.Tr�ng thấy cảnh nh�n d�n lũ năm lũ bảy đứng hai b�n đường ch�o đ�n.Tế Đi�n nghĩ thầm: - Thực ra bấy l�u ta chỉ hay gần gũi những người gi�u sang ki�u h�nh để điểm h�a.Theo thường t�nh th� chư tăng cũng chỉ ch�o k�o những ai c� tiền c� thế, khuyến h�a họ tu ph�c l�m duy�n nhưng thực ra để kiếm tiền kiếm bạc. Ta đ�y kh�ng m�ng tiền t�i danh vọng, kh�ng cần bọn gi�u sang trả ơn b�o nghĩa,nhưng trải qua những cuộc h�nh ho� đối với th�m t�m thực chưa lấy g� l�m b�nh đẳng. Nay nh�n trăm họ thấy ta được trọng vọng m� �a ra ch�o đ�n, tưởng cũng n�n quan s�t để t�m phương tế độ.

Nghĩ đoạn, Tế Đi�n liền nhướng mắt xem một lượt, chỉ thấy nh�n d�n đa số l� ngh�o khổ, khốn đốn tương tự như m�nh, �o kh�ng đủ mặc, th�n thể gầy guộc th� động l�ng trắc ẩn, sa nước mắt, c�i mặt đi thẳng về ch�a.Về tới ch�a, Tế Đi�n đi thẳng l�n Đại H�ng Điện lễ Phật xong, Tế Đi�n cho mời hai vị Ch� Thanh, Ch� Minh đến hỏi:

- Hai người c� biết nấu ch�o hay chăng?

- Bạch, việc g� th� kh� chớ nấu ch�o th� ai m� kh�ng biết.

- Nhưng phải biết nấu ch�o với tấm l�ng ph�t t�m bồ đề bố th� chứ c�n nấu ch�o thường th� ai cần đến l�m chi? Ng�y nay ta muốn mở qu�n b�n ch�o để gi�p đỡ người ngh�o kh�, chẳng hay hai vị c� chịu ph�t t�m kh�ng?

- Vốn đ�u m� mở qu�n? Vả lại, chưa c� h�a thượng n�o l�m việc mở qu�n bao giờ?

- Việc lo vốn liếng cứ để cho ta, đ� l�m việc phước duy�n th� ch�nh h�a thượng phải chủ trương, cần g� miệng tiếng b�nh phẩm. Đi lo nồi ni�u củi lửa,tiền bạc gạo muối để ta đi sắm sửa cho, khỏi cần phải lo ngại.

Nguy�n Tế Đi�n cốt � mở cửa h�ng ch�o l� để khuy�n người ph�t t�m l�m việc bố th�, đối với người bần h�n c� lộ, lỡ đường c� nơi ăn uống thỏa thu�, l�m gương nh�n đạo cho người sau bắt chước. Vả lại, trong th�m t�m l� Tế Đi�n muốn khuy�n chư tăng kh�ng n�n dựa cơm t�n th�, ngo�i việc tu tr� phải biết đến bổn phận m� l�m việc v� đời cứu khổ, chứ kh�ng phải dựa v�o ch�a m� lo c�ng cấp lấy tiền bỏ t�i, c�n sống chết mặc b�y. Chư tăng đi tu nhưng cũng phải g�y được ch�t c�ng duy�n mới tr�n c�ng quả n�n mới b�y vẻ ra chuyện mở h�ng b�n ch�o.H�ng ch�o mở được mấy ng�y, Tế Đi�n kh�ng hề lấy tiền của ai, th�nh chỉ v�i ng�y l� vốn lại sạch kh�ng, bấy giờ Tế Đi�n mới thuật r� � m�nh cho mọi người biết, rồi khuyến ho� c�c nh� gi�u c� phải n�n ph�t t�m l�m ph�c l�m duy�n.

  1. Truyền kỳ v� sao tu m� c�n rượu, thịt.

Vạn Thặng vội sai gia đ�nh dọn tiệc. Trong tiệc nh�n hỏi Tế Đi�n:

- Bạch Sư Phụ ! Kẻ đệ tử n�y nghe n�i người tu h�nh l� phải tr� trai, thủ giới, cấm rượu cấm thịt, vậy xin d�m hỏi Sư Phụ, cớ sao Sư Phụ cũng d�ng rượu thịt m� lại đắc đạo.

Tế Đi�n cười m� bảo:

-Thế nh�n chỉ nh�n thấy vỏ đạo đức, người tu cũng lại lấy c�i vỏ đạo đức m� kho�c l�n m�nh cho người k�nh trọng. Ta ăn m� l� kh�ng ăn, uống rượu m� l� kh�ng uống, bởi c�i ta ăn chẳng phải l�m t�m ta chuyển động đến phải v� say đắm miếng ăn m� l�m việc bậy. Ta uống rượu, nhưng kh�ng say sưa, v� cũng chẳng v� rượu m� phạm v�o giới điều. Ngược lại, c� những hạng tu h�nh ngo�i mặt th� r� ra người trai giới cẩn thận m� ch�ng dấu diếm hoặc cũng như kẻ đạo sĩ nham hiểm hại người th� đ� l� ch�ng suốt đời ăn mặn. Ăn kh�ng vụ v� miếng ăn, uống kh�ng đam m� v�o sự sống, ở kh�ng m� đắm v� chỗ ở, ngồi nằm đoan tọa trang nghi�m chẳng vụ v� chỗ ngồi nằm thế l� ch�nh đạo. Th�i, Ta phải đi đ�y !

N�i xong v�ng đứng dậy, một v�ng h�o quang s�ng rọi.

5. Truyền kỳ thu phục đệ tử c� căn duy�n

Trần Lượng sụp lạy, xin nhận lỗi m�nh, v� xin được qui y theo hầu Tế Đi�n l�m đệ tử.Tế Đi�n bảo:

- Ta nay chỉ c� một manh �o, một chiếc gậy, ăn th� bạ đ�u ăn đ�, ngủ th� hoặc dưới gốc c�y hoặc nơi miếu cổ, hay g� đ�u m� nhận lấy l�m thầy.

Trần Lượng c�i đầu bạch:

- T�i vốn kh�ng vợ kh�ng con, t�nh t�nh vốn ưa chuyện lục l�m lạc thảo, lấy của người gi�u gi�p đỡ người ngh�o, nay thấy Thầy kh�ng m�ng của thế gian, l�ng chỉ cốt v� thế gian m� ra tay tế độ. Ấy cũng bởi Thầy ăn chẳng c� nơi, ngủ kh�ng c� chốn m� t�i đỉnh lễ t�n l�m Sư Phụ, c�n như Tăng ch�ng quần �o bảnh bao, l�n xe xuống ngựa, ch�a miếu nguy nga th� c� kh�c g� kẻ tục ở đ�u. L�ng t�i thanh m�! Đ�u chịu qui phường giả tu trần tục! Xin Sư Phục từ bi tế độ.

Tế Đi�n ngửa mặt l�n trời cười:- Thiện tai! Thiện tai. �u cũng nh�n duy�n tiền kiếp. Từ nay ngươi h�y theo ta.

Mọi người chứng kiến đều quỳ xuống xin l�m đệ tử. Tế Đi�n kho�t tay bảo:

-Đệ tử! Đệ tử.Khắp thế gian ai kh�ng l� đệ tử. Biết sửa điều quấy, l�m điều l�nh, đ� l� đệ tử của ta v� l� đệ tử của Phật. Người tại gia m� biết trau sửa l�m l�nh th� hết thẩy đều l� con Phật. Kẻ bận �o tu m� chuy�n l�m việc dối đời đ� l� "khi b�ng Tam Bảo". Đi theo ta m� kh�ng chịu được sự khổ, theo c� �ch g�?

Diệu Hưng v� Diệu Th�ng đồng năn nỉ cho được l�m Tăng. Tế Đi�n bảo:

- Tăng sĩ hay Đạo sĩ c� kh�c g� đ�u? Cũng tỷ như người tu theo đạo L�oTử, th� phải niệm thiện, d�ng ph�p thuật học được m� cứu gi�p nh�n d�n. L�m điều �c l� tự đốt th�n. Tăng sĩ cũng vậy, nếu chỉ dựa v�o ch�a cảnh l�m kế sinh nhai, bầy tr� c�ng b�i thu của thập phương, ri�ng m�nh tư lợi,vinh th�n, ph� gia, ti�u pha sẵn của mười phương hiến c�ng, ăn b�m x� hội th� đ� l� hạng ma Tăng. Bỏ �o Đạo sĩ theo với Tăng h�ng m� kh�ng l�m lợi �ch g� cho thi�n hạ đ�u bằng l�m kẻ tại gia, tự nu�i tự dưỡng c�n đỡ tồi tệ, v� kh�ng ăn hại của thập phương t�n th�.

6. Truyền kỳ độ rỗi cha mẹ đang bị đọa.

Tế Đi�n thản nhi�n uống rượu ừng ực, v� h�t vang:

Ta vẫn l� ta chẳng kh�c g� Người đời thấy kh�c bởi ngu si Thuở xưa C�ng Tử giờ H�a Thượng Tăng, Tục đ�i đường chữ tỉnh m� !!!

Tế Đi�n đi thẳng ngay v�o ph�ng M�ng Vi�n Ngoại. L�c ấy bệnh t�nh Vi�n Ngoại qu� trầm trọng, đang cơn hấp hối. Tế Đi�n bước v�o thư ph�ng,tr�ng t�nh cảnh ấy thốt động t�m miệng l�m r�m tụng ch�. M�ng L�o đang hồn m� bất tỉnh, chợt như c� ai đ�nh thức, mở bừng mắt ra, nh�n thấy đầy đủ con ch�u v� một vị La H�n đứng ngay đầu giường liền chắp tay lạy lạy. �ng cho biết trong l�c h�n m� c� một vị Đại Bồ T�t cầm c�nh dương liễu vẩy nước l�n đầu liền thấy người nhẹ hẳn đi. Vị Bồ T�t lại bảo:

"Nhờ c� sự nguyện cầu của Kim Th�n La H�n n�n rảy nước Cam Lộ ra tay cứu độ, cho sống th�m mười hai năm nữa". Kh�ng ai bảo ai, cả nh� từ trẻ ch� gi�, cả bạn xưa cũng đều sụp lạy Tế Đi�n. Tế Đi�n tươi cười đỡ mọi người dậy, nh�n đ� khuyến h�a mọi người phải n�n tin theo ph�p Phật nhiệm mầu. Nếu m�nh tự tu tự chứng l� c� thể độ tho�t cho bất cứ ai, một khi biết ăn năn s�m hối hay t�m th�nh hướng nguyện. Tế Đi�n nh�n nghĩ c�ng ơn dưỡng dục, n�n sửa soạn lễ vật ra thăm mộ phần của L� Mậu Xu�n v� M�ng Thị. Đứng trước mộ phần kh�i hương nghi ng�t, Tế Đi�n thoắt thấy động t�m liền quay lại n�i:

- Kh�ng xong! Kh�ng xong! Th�n phụ, th�n mẫu hiện vẫn bị giam tại nơi địa ngục v� kiếp xa xưa đ� từng phạm giới khi b�ng Tam Bảo.

N�i rồi tất cả về nh�, khiến gia nh�n sửa soạn trai đ�n. Tế Đi�n th�n đi thỉnh chư Tăng trong v�ng, d�ng huệ nh�n biết r� người n�o tu thật, người n�o tu giả. Đ�n tr�ng phụng tụng suốt bẩy ng�y đ�m. Ng�y h�m sau, trong khi cả nh� đang b�n t�n x�n xao về Tế Đi�n th� Trần Lượng tiến đến thưa rằng:

- K�nh bạch Vi�n Ngoại. Sư Phụ Tế Đi�n kh�ng biết đi đ�u biệt t�ch tự chiều h�m qua.

Mọi người lật đật t�m đến trai ph�ng chỉ thấy ph�ng ốc vắng tanh, một mảnh hoa ti�n treo b�n cửa sổ c� b�i thơ lưu giản:

Thầy Tu đ�u c� luyến gia m�n M�y nước l� nh� ... tịch diệt t�n Hoa tuệ s�ng ngời in lối Đạo Thuyền nan một l� thảnh thơi hồn!

7. Truyền kỳ dứt trần duy�n hiển linh

Một ng�y cuối xu�n, b�n bờ T�y Hồ, một nh� sư chống t�ch trượng, quần �o r�ch bươm, vừa đi vừa cười, thuyền đi về Giang Tả. Tế Đi�n vừa ch�o vừa h�t, lời ca trong m�y nước vang vang:

Đời người thấm tho�t, chừ ph� sinh giấc mộng! Th�n người nhỏ nhen chừ, biển trời lồng lộng. Thấm tho�t qua mau, hết trẻ đến gi�. Ngoảnh lại người th�n, bao người khuất b�ng. Ta Tế Đi�n chừ thuở trẻ nh�n ph�ng. V� ng�n nỗi đời chừ danh lợi ngu�i l�ng. Một th�n ta chừ cửa Thiền t�m đạo. Mang th�n cứu khổ chừ thiền m�n hạo hạo. Cuộc đời tao loạn chừ ri�ng ta với ta. Cứ đi đường ch�nh chừ quyết tr�nh lối t�. Ta Tế Đi�n chừ v� đời cam khổ. �o ta r�ch chừ thương người khốn kh�. Rượu ch�n say chừ thương kẻ đang say. Say trong cuộc đời chừ Trầm Lu�n kh�ng hay. Ta y�u nh�n loại chừ y�u v� đạo ph�p. Bao kẻ đam m� chừ c�i đời ph�c phược. Một th�n đi�n kh�ng chừ ta đi�n, ai đi�n. Một chiếc gậy cằn chừ, ai được ta được . Ng�y nay trở về chừ cứu độ gia hương. Thăm nom phần mộ chừ biết bao s�t thương. Trai đ�n thiết lập chừ kỳ nguyện vang vang. Hai th�n si�u sinh chừ, thi�n hạ c�ng sang. Trần duy�n đ� dứt chừ ta lại lang thang. Gập cảnh tr�i ngang chừ ta quyết cưu mang. B�o �n Tam Bảo chừ xứng danh Tăng h�ng!

PHỤ LỤC 2

TẾ C�NG HOẠT PHẬT TỪ HUẤN

1. Một l�ng gửi trọn cho trời cao

C� một ch�t � nguyện nh�n từ, trời cao sẽ xoay chuyển tạo ra cơ ngộ, chỉ cần ai chịu tu, ắt tự nhi�n c� thể thu h�t v� số t�n ch�ng hữu duy�n.

Tu đạo, b�n đạo nhất định phải v� vi m� l�m, xem ch�ng sinh như những �n nh�n từ những kiếp trước của m�nh. Một l�ng gửi trọn cho trời cao, qu�n đi bản th�n m�nh. D� cho c� th�nh tựu th� cũng thuộc về trời cao v� thập phương chư Phật Bồ T�t. Chỉ c� như vậy mới kh�ng đến nỗi sa v�o sự tranh đoạt v� theo đuổi đạo danh, đạo lợi, đạo quyền. Hiện trạng của đạo, thật sự l�m L�o Sư ta suy nghĩ lo lắng cảm th�n!

2.T�m t�nh dung h�a

Th�nh tựu ở tương lai, kh�ng căn cứ v�o sự lớn nhỏ cũng kh�ng dựa v�o sự �t nhiều của Phật đường ch�a miếu, c�ng kh�ng phải từ sự so s�nh số lượng �t nhiều của t�n ch�ng, m� xem người tu đạo c� ch�n tu thực luyện hay kh�ng. Giữ g�n nguyện giới, kh�ng tham lam, kh�ng vọng tưởng, kh�ng tranh, kh�ng biện, đ� l� c�ng phu đề t�m t�nh vi�n m�n dung h�a, đi ho�n th�nh sứ mệnh của ch�nh m�nh.

Phải để cho ch�ng sinh v� bản th�n m�nh c�ng nhau th�nh tựu trong kiếp n�y. Nếu nhất thời kh�ng thể tế độ, cũng phải ch�c ph�c v� cầu nguyện cho sự giải tho�t v� th�nh tựu của họ ở kiếp sau! Nhận r� nh�n duy�n tu đạo của bản th�n m�nh, ch�nh l� sự xoay v�ng của việc thi �n v� nhận �n huệ, tạo ra một mối li�n hệ tốt đẹp giữa thi�n thượng nh�n gian.

Phải trau dồi một tr�i tim quảng đại bao dung, mừng cho sự th�nh c�ng của người kh�c. Khen ngợi sự kiệt xuất của người kh�c, lễ k�nh sự cực khổ v� c�ng lao của người kh�c! R�n luyện tinh thần đem đến sự chung vui cho thế giới, c�ng vui với vũ trụ v� tất cả chung sinh.

Lục tổ dạy: "Nội t�m khi�m hạ l� C�NG, ch�ng sanh b�nh đẵng l� ĐỨC�. Lu�n g�n giữ tấm l�ng biết ơn v� s�m hối, để quan s�t những thay đổi của ho�n cảnh xung quanh. Đối với tất cả mọi sự đều d�ng một th�i độ mỉm cười m� nh�n nhận, sẽ giảm bớt nhiều phiền muộn.

3. H�nh đạo sẽ gặp thử th�ch.

Đạo sẽ c� thử th�ch tr� tuệ, những thử th�ch đ� thật sự kh�ng thể dự t�nh trước được. L�o Sư kh�ng thể l�m cho th�n t�m của đồ nhi y�n l�nh, chỉ hi vọng c�c con c� thể hiểu được Thi�n t�m, Phật t�m, sự t�m, tu đạo một c�ch thật l�ng, giữ vững nguyện giới. Trong qu� tr�nh b�n đạo, tất nhi�n l� phải độ người, thuyết ph�p, khai hoang, thiết đường, nhưng cũng kh�ng được qu�n sự quan t�m v� h�nh động thiết thực đối với những khổ nạn trong x� hội v� cứu tế người d�n trong cuộc sống b�nh thường. Chẳng hạn như thương x�t cho sự ngh�o kh�, hiểu cho nỗi niềm của người gi�, gi�p người c� độc, ủng hộ v� x�c tiến c�ng t�c bảo vệ m�i trường, gi�p đỡ người bệnh t�m thần.Thậm ch� những việc ph�ng sinh, bảo vệ động vật cũng n�n hưởng ứng, đ�y đều l� những việc quảng kết duy�n phận với ch�ng sinh thập phương. Mọi người kh�ng n�n bỏ qua, nghĩ đ� l� những việc hậu thi�n, nếu kh�ng bổ xung l�m việc tốt của hậu thi�n, l�m sao vi�n m�n ti�n thi�n?

Người tu đạo, nhất định phải ph�n biệt r� việc th�nh ph�m, biện r� c�ng tư, hễ c� một sự thi�n lệch n�o sẽ dễ d�ng lạc bước. Từ xưa tới nay, ai lại mượn miếu đường thần th�nh l�m phương tiện l�m ăn! Nếu ai c� l�ng tham, trời cũng sẽ trả b�o cho những g� con đ� g�y ra, như thế sẽ kh�ng c�n được trọn vẹn.

Đối với những thị phi trong đạo trường, kh�ng n�n truyền nhau, c�ng kh�ng n�n g�y s�ng gi�. Nu�i dưỡng một tấm l�ng th�ng cảm bao dung nh�n hậu. Nếu ch�ng ta đối xử với người kh�c như vậy, trời cũng sẽ đối đ�i như thế với m�nh.

Những nỗi niềm v� kỳ vọng của L�o Sư, lại kh�ng thể dặn d� thổ lộ hết được với những người đang dẫn dắt c�c con. Chỉ v� c�i t�m của c�c con kh�ng h�a nguyện được với t�m của L�o Sư. Đừng cố chấp sự tr�i đi của thời gian, kh�ng n�n ch�n nản trước nghịch cảnh. Khi con Phật đại nguyện, lập đại ch� c�ng chung một l�ng với Phật tổ th� nhất niệm c� thể vượt tho�t con đường sinh tử� Trước mắt c� bao nhi�u người đ� bị cuốn v�o c�i hố của đạo quyền, đạo thế, đạo danh m� bản th�n kh�ng biết, thật đau l�ng v� đ�ng tiếc. Rốt cuộc người tu đạo cũng xem trọng h�nh tượng kh�ng tự m�nh nh�n lại m�nh, ta c�n c� thể n�i g� hơn?

Kh�ng n�n nh�n những hạnh ph�c v� an lạc trước mắt, những c�i m� đ� c� được m� cảm thấy m�n nguyện, n�n biết ơn m�i trường tu đạo hiện giờ m�nh đang c�. D� cho l� những thử th�ch trong nghịch cảnh, cũng đ� tốt hơn nhiều so với những ch�ng sinh trong địa ngục,.Thế th� kh�ng c� g� phải o�n tr�ch đau l�ng, cũng kh�ng n�n ki�u ngạo tự m�n.Thị phi đ�ng sai trời cao sẽ biết ph�n định c�ng minh, kh�ng cần tranh luận, để tr�nh g�y ra sự chia rẽ trong đạo.Trăm ngh�n con suối nh�nh s�ng, đều chảy về c�ng một nguồn. Chỉ cần ch�n tu, tuy con người kh�ng thấy nhưng trời cao chắc chắn sẽ kh�ng phụ. Đối với bản th�n phải nghi�m giữ giới luật, khoan dung với người kh�c. Lu�n giữ một t�m niệm khoan dung tha thứ, với những đạo th�n biết hối lỗi lu�n mở ra một con đường rộng để họ quay về. Nếu trong qu� tr�nh tu, kh�ng c� nhiều thử th�ch v� sự cản trở trong nh�n sự, th� l�m sao nu�i dưỡng hậu đức v� đề cao t�m t�nh? kh�ng sinh ra sự o�n tr�ch, phiền n�o trong nghịch cảnh, như thế sẽ tạo ra sự trầm lu�n. Tr�n trọng mỗi một thử th�ch c� thể th�nh tựu ch�nh m�nh, t�n trọng mỗi một sự ph� b�nh v� c�ch nh�n của ch�ng sinh. Cũng n�n học c�ch tiếp nhận sự chỉ điểm v� o�n tr�ch của người kh�c, tất cả đều d�ng một tấm l�ng dung nạp hoan hỉ để tiếp nhận. L�o Sư sẽ ch�c ph�c cho c�c con, như thế kh�ng những x�y dựng được một nh�n c�ch c� nh�n ho�n mỹ, m� c�n dựng n�n một đạo trường an l�nh h�a thuận.

4. Đọc v� học hỏi gi�o l�, kinh, s�ch.

N�n đọc nhiều s�ch v� kinh s�ch của th�nh hiền; trong l�c �n lại c�i cũ, biết th�m c�i mới m� hiểu được diệu l� nhất dĩ qu�n chi, hiểu được c�i khổ t�m gi�o h�a của th�nh hiền. N�i theo cổ th�nh kinh huấn, noi theo gương tốt của th�nh hiền, tu�n theo quy tắc kĩ cương, k�nh ngưỡng c�i đức của người trước m� tinh tiến bản th�n.

T�n k�nh Ti�n Phật nhưng kh�ng qu� ch� trọng h�nh tượng.

Lu�n giữ l�ng tu đạo ch�n th�nh, bất luận ho�n cảnh b�n trong hay b�n ngo�i thuận lợi hay nghịch cảnh. C�ng tư ph�n minh, kh�ng được lấy ch�ng sinh l�m lợi cho bản th�n m�nh. Kh�ng n�n chỉ biết b�n t�n thị phi của kẻ kh�c, n�n nh�n v�o c�i ưu điểm của họ, nhờ v�o đ� để hiểu ra c�i đẹp v� trong s�ng của nh�n t�nh, như thế mới l� tr� tuệ bao la. Một nh�n t�i trung thực, một người tu đạo biết bổn phận, đ� mới l� người trời cao y�u qu� nhất.

T�m s�n hận, ph�n biệt kh�ng thể h�nh đạo tốt được.

Thầy hỏi: Tu đạo c�ng tu c� c�ng mệt hay kh�ng? C�ng tu c�ng nặng nề kh�ng? Đ�y l� một vấn đề đấy! Tại sao vậy? Bởi v� c�c đồ nhi kh�ng c� t�m th�i! T�m đồ nhi kh�ng c�n biết tự kiểm điểm v� phản tỉnh, m� lại kh�ng ngưng t�nh to�n giữa người với ta, ph�n biệt đối đ�i, ki�u ngạo, s�n hận đố kỵ, kh�ng ngừng bị xoay chuyển giữa người với ta, kh�ng ngừng va chạm, cọ s�t đến nổi giận. Tu đạo như thế th� sao c� thể c�ng tu c�ng vui vẻ đ�y?Đồ nhi đều l� n�i một đ�ng l�m một nẻo, ng�n h�nh bất nhất, trước sau kh�ng như nhau! Chẳng tr�ch:

Một ch�t �h�m dưỡng� cũng kh�ng c�!

Một ch�t �khi�m cung� cũng kh�ng c�!

Một ch�t �trưởng th�nh� cũng kh�ng c�!

Một ch�t �rộng lượng� cũng kh�ng c�!

Tất cả đều kh�ng trưởng th�nh! Đồ nhi dựa v�o đ�u thay Thầy g�nh v�c, chia sẻ ưu sầu, chia sẻ g�nh nặng? V� dựa v�o đ�u gi�p h�ng ng�n h�ng vạn người giải tho�t khổ hải m�nh m�ng?

5. C�ng đức con c� g�?

Những người tu đạo ở trần gian, đối với sự được mất của c�ng đức, danh tiếng v� h�nh tướng b�n ngo�i đ� qu� ch� trọng, kh�ng thể xem nhẹ n�. V� thế, hễ mỗi khi tạo n�n được một đạo vụ, cũng l� l�c nảy sinh v� số quấy nhiễu v� tạo ra rất nhiều nh�n quả.

Nghi�m khắc m� n�i, những khổ t�m m� người tu đạo đ� bỏ ra suốt qu� tr�nh tu h�nh, chẳng thể gọi l� c�ng đức?D� cho c� một �t c�ng đức, nghĩ lại, c�c con c� phải trả lại cho nh�n quả nợ nghiệp hay kh�ng, c� phải hồi hướng cho �n đức của cha mẹ tổ ti�n hay kh�ng, c� phải bảo b�nh an ph�ng hung h�a c�t, c� cần phải để lại một �t vốn để về trời gặp L�o Mẫu hay kh�ng. Trừ đi những tội lỗi sai s�t c�c con đ� phạm trong ng�y thường, c�c con c�n d�m tự h�o xưng rằng m�nh c� c�ng đức hay kh�ng?

Thế mới biết người tu đạo rất cần r�n luyện c�i t�m ch� thuần, ch� th�nh, ch� ch�n, v� chịu cực chịu khổ kh�ng o�n than. Quan trọng hơn l� lu�n đối đ�i tốt với những ch�ng sinh chưa độ, chưa ngộ. Cổ nh�n dạy:

�Nếu muốn chứng v� thượng Phật đạo, trước ti�n phải l�m tr�u b� cho ch�ng sinh�. Người tu đạo phải c� tinh thần để ch�ng sinh đạp l�n tr�n đ�i vai của m�nh m� th�nh đạo.

6. Vượt qua v�ng danh lợi thế tục

Người tu đạo c� thể vượt qua v�ng danh lợi tr�n thế tục đ� kh�ng dễ d�ng, đừng để m�nh rơi v�o một v�ng luẩn quẩn kh�c. Sự th�nh lập đo�n thể danh tiếng b�n ngo�i chỉ c� t�nh c�ng việc, thật ra cũng chỉ để th�ch nghi ho�n cảnh nh�n duy�n m� th�i.Chỉ cần ủy th�c người kh�c chuy�n phụ tr�ch phối hợp th�c đẩy l� được, l� một tiền hiền cũ, kh�ng nhất định phải c� danh vị. Cũng n�n biết sự qu� b�u của Thi�n Đạo phổ độ, vẫn �m thầm chọn lựa những người hiền lương. C�i đức của người qu�n tử sẽ dần được biểu hiện, đừng ch� � đến việc tuy�n truyền tr�n những phương tiện truyền th�ng, chỉ thấy c�i tiếng tăm, chỉ nghe tiếng vỗ tay khen ngợi, m� đ�nh mất đi c�i sự rộng lượng v� thụ mệnh trong l�c l�m nguy v� ủy th�c trọng tr�ch trong t�m ho�i.

� C� t�i v� đức dễ chi�u ma�.

Khổng Phu Tử cũng n�i: �Như hữu Ch�u C�ng chi t�i chi mỹ, sứ k�u thả lận, kỳ dư bất t�c qu�n d� dĩ�. � nghĩa l�: một người c� t�i năng giỏi như Ch�u C�ng, nhưng giả sử �ng vướng v�o th�i �cậy t�i khinh người, ki�u ngạo, t�m lượng hẹp h�i, tự tư tự lợi�, th� cho d� năng lực t�i hoa của �ng thế n�o, cũng chẳng đ�ng đề cao đ�u! V� sao vậy? V� về �căn bản� đ� �thiếu đức� rồi! Ph�m l� người muốn tu đạo đều phải �thường xuy�n bồi đức�, h�m dưỡng vẻ trong s�ng của �th�n, khẩu, �� trong l�c đ�. Đạo ở đ�u?

- V� sao �một c�u n�i�, c� thể khiến ch�ng ta ch�n nản, nổi trận l�i đ�nh?

- V� sao �một sự việc�, c� thể khiến ch�ng ta t�m sinh ho�i nghi, o�n hận, tức giận?

- V� sao �một niệm �, c� thể khiến ch�ng ta thị phi đi�n đảo, cố chấp kh�ng th�ng?

Đ� l� v� tu đạo m� kh�ng thể hạ quyết t�m hết m�nh, t�m ra sai tr�i của m�nh.Phản tỉnh từng ly từng t� c� dễ d�ng hay kh�ng?Trong l�c ch�ng ta thừa nhận lỗi lầm th� t�m sẽ c�ng thanh. Ch�nh v� ch�ng ta đều kh�ng thừa nhận đấy th�i! T�m c�ng thanh th� c� thể t�m thấy c�ng nhiều vấn đề của m�nh. Nhưng con vốn dĩ l� thế!

Ch�ng ta lại l�m sao cứ một mực n�i rằng: �Đ� l� sai tr�i của người kh�c! L� vấn đề của người kh�c! Do người ta thiếu tr�ch nhiệm! Do người ta bất cẩn! Do người ta kh�ng tu dưỡng! Do người kh�c hay can dự v�o!�. Ho�n to�n v� can kh�ng li�n quan với m�nh? Nếu c� c�ch nghĩ như vậy, th� ch�nh l� đ� khởi l�n �t�m s�n�: Kh�ng kiểm điểm ch�nh m�nh, chỉ biết l�m người kh�c ch�n nản, đ� cũng gọi l� �ngạo mạn, ngu muội�!

C�c con c�n kh�ng phản tỉnh ch�nh m�nh, m� lại đổ tội cho người kh�c, th� tu đến khi n�o mới c� thể trở về đ�y?Thầy hỏi: �C�ng phu tu đạo� l� c�i g�? L� phản tỉnh. V� �căn bản của phản tỉnh� ch�nh l� �đừng dối gạt ch�nh m�nh�. Gặp phải vấn đề, việc ứng ph� đầu ti�n l� phải c� �Tr� tuệ�, chứ kh�ng phải tỏ th�i độ hay sĩ diện; d�ng �Tr� tuệ đạo t�m� l�m việc, th� sẽ kh�ng c�n bị trầm lu�n trong nghiệp lực.

Ch�ng ta tu đạo l� hy vọng c� thể giảm bớt một số oan nghiệp của m�nh, nhưng x�t xem �Th�n Khẩu ݔ của bản th�n c� thật sự c� thể ti�u oan giải nghiệp cho m�nh kh�ng? H�y h�nh c�ng lập đức, quảng kết thiện duy�n nhiều, th� mới c� thể giảm bớt số lần �c nghiệp ph�t sinh. Nhưng đồ nhi c� thật sự �h�nh c�ng lập đức� chưa? Nếu như ch�ng ta tu đạo vẫn cứ �ch� t�m v�o nhược điểm, thiếu s�t của kẻ kh�c, ch� t�m v�o thị phi, hy vọng nhận được sự nh�n nhận của tiền hiền, được người kh�c khen ngợi, được người kh�c vỗ tay, được chức vụ trọng yếu, được người kh�c khẳng định��. Phương hướng mục ti�u tu đạo như thế l� sai lầm! đ� l� những lời n�i một ch�t cũng kh�ng sai lệch. Cho d� con cả đời gần Phật đường th� cũng �khổ tử v� th�nh�. Về điều n�y c�c con phải thận trọng đấy!

7.Tự phụ, th�ch ph� trương v� chấp v�o nhơn t�nh thế sự.

Bản th�n giảng th� rất cao hứng, nhưng người kh�c nghe th� lại rất nh�m ch�n, đ�y l� tại v� sao? V� ki�u ngạo! C�n kh�ng th� khi l�m sai việc g�, b�n n�i dối để cho qua chuyện, đổ tr�ch nhiệm cho người kh�c, t�m người l�m bia đỡ đạn? C�n kh�ng th� ph�n rạch r�i, anh l� anh, t�i l� t�i, t�m ph�n biệt v� đối đ�i như vậy e rằng qu� nặng rồi. Ch�ng ta đều l� con c�ng một Mẹ, tr� c�ng một Thầy, hậu học c�ng một Tiền Nh�n, c� g� phải ph�n chia? C� g� đ�u phải t�nh to�n? Cho n�n ch�ng ta tu đạo phải �xem trọng bản th�n� m� kh�ng phải �ph� trương�; phải tự tin m� kh�ng ki�u căng tự phụ; phải khi�m cung h�m dưỡng, m� kh�ng l�m bộ l�m tịch; phải tinh tấn đốc th�c bản th�n, m� kh�ng nhu nhược bu�ng xu�i bản th�n. Nếu như tu đạo c� thể �lạc thi�n tri mệnh� th� sẽ vui với đạo m� kh�ng ch�n. C�ng tu c�ng mệt mỏi, c�ng tu c�ng bất lực, c�ng tu c�ng ph� sức, vấn đề cơ bản l� xuất ph�t từ ai? Từ bản th�n. Bởi v� kh�ng thể nhận T�nh l� Ta, nhận l� l� thật, xem c�i giả th�nh c�i thật rồi.

Việc g� đ�ng phải đối mặt th� h�y dũng kh� m� đối mặt. Chỉ c� dũng kh� th� chưa đủ, c�n phải c� l�ng từ bi, tr� tuệ mới c� thể khắc phục được quan ải, ho�n thiện mỗi một nh�n duy�n kh�ng tốt. Muốn một kiếp tu một kiếp th�nh th� phải nỗ lực cố gắng. Kh�ng c� quyết t�m cao độ, kh�ng c� ch� hướng lớn, đại tr�, đại nh�n, đại dũng th� l�m sao c� thể sống chết một phen cho đ�ng kiếp n�y đ�y?

C� c�u n�i: �Vạn duy�n nhất sanh, nghiệp duy�n hội tụ�. Phải biết rằng tại sao người đời bị đọa v�o lục đạo lu�n hồi vĩnh viễn? Đ� l� do t�nh đời, t�nh th�n, t�nh cảm qu� s�u nặng, kh�ng c�ch n�o tự giải tho�t. Th�nh nh�n n�i: �Luyện thấu t�nh đời mới l� tu h�nh�. L� � g� đ�y? Ch�nh l� th�n ở hồng trần, mỗi ng�y tiếp x�c đều l� việc ph�m� Nếu người tu đạo c� thể trong trần duy�n nh�n xuống m� bu�ng xuống được, tiến th�m một bước nữa l� mượn cảnh luyện t�m, mượn ph�m tu th�nh, tu đến thay da đổi cốt, nhất trần bất nhiễm, đ� ch�nh l� �tu h�nh�.�Đạo t�m� ch�n ch�nh l� kh�ng chấp chướng �nh�n t�nh�, kh�ng phải v� những biến đổi cuộc đời m� dao động.Phải biết rằng, tr�n đời kh�ng c� sự việc g� m� kh� dứt bỏ, vấn đề l� c� thể xem nhẹ được kh�ng. Người tu đạo ch�ng ta thanh t�m quả dục, th� l�m sao c� phiền n�o? L�m sao m� sửa kh�ng được, bu�ng kh�ng xuống?Tu đạo kh�ng c� �tốt nhất� m� chỉ c� �tốt hơn�! Tại v� tốt th� c�ng phải tốt hơn! Giỏi, c�ng phải giỏi hơn! Nếu như v� thế m� tự m�n, dậm ch�n tại chỗ, th� t�m l�c đ� �kh�ng tiến tức l�i! Tu đạo kh�ng n�n so s�nh với người kh�c, thắng người kh�c nhưng thua ch�nh m�nh, đ�y kh�ng phải l� người tu đạo thật sự. Tu đạo l� phải khắc phục chướng ngại, đột ph� bản th�n, chiến thắng bản th�n lần n�y đến lần kh�c, mới c� thể thật sự thể ngộ được niềm vui từ sự trưởng th�nh của ch�nh m�nh v� niềm tự h�o th�nh tựu n�ng l�n một tầm cao mới.

8.Tu t�m, tu t�m g�? Tu �t�m đơn giản� kh�ng nhiễm trược.

C�c con tu đạo c� phải sửa đổi th�i hư t�t xấu, trừ bỏ t�nh n�ng nảy hay kh�ng? Tu t�m, l� tu trở về �x�ch tử chi t�m�.Trong ho�n cảnh phức tạp, duy tr� �t�m đơn giản�.Thế n�o gọi l� �t�m đơn giản�? Ch�nh l� tr�n gương mặt của ch�ng ta, chưa bao giờ c� một ch�t để bụng. Nếu như con tu đạo tu đến như vậy, mới xem như c� được một ch�t c�ng phu đấy!

- L�m sao c� thể �kh�ng n�ng giận�?

Phải biết s�m hối, cảm �n, thường tồn t�m hoan hỷ.

- L�m sao c� thể �kh�ng để bụng�?

T�m lương rộng lớn, biết bao dung, tha thứ.

L�c đ� tự hỏi bản th�n m�nh xem: �C� thường xuy�n n�ng giận kh�ng? C� phải trong t�m l�c n�o cũng c� � niệm trong đầu để bụng?�. Đ� ch�nh l� tu đạo vẫn chưa �đạt y�u cầu�!Sao vẫn chưa quyết t�m sửa đổi ch�nh m�nh, vậy c�n phải đợi đến khi n�o đ�y?

Tận t�m, tận điều g�? Tận hết m�nh- phước huệ song tu

Ch�ng ta tu đạo �tận t�m� l� v� điều g�?Chiến thắng người kh�c? Hay l� muốn chứng tỏ năng lực của m�nh? Đ�u đ�u cũng đối đầu với mọi người?Trong t�m vẫn c�n ph�n biệt? L�m việc c�n so đo t�nh to�n?

Cho n�n phải nhẫn nhịn những điều người kh�c kh�ng thể nhẫn nhịn, l�m những điều người kh�c kh�ng l�m được; cho n�n phải chịu khổ liễu khổ, chịu oan ức, c�ng kh�ng n�n o�n trời tr�ch người. Con phải biết rằng:Chịu cực m� kh�ng chịu được oan ức đ� l� v� đức, chịu oan ức m� kh�ng chịu được cực th� v� c�ng.

Thường xuy�n cảnh tỉnh bản th�n, Thầy kh�ng hy vọng c�c đồ nhi tu đến ph�t cuối c�ng m� chỉ c� bốn chữ �v� c�ng v� đức�.

9. B�n Đạo, b�n điều g�? B�n tu th�n khẩu �

C�c con phải đi ph�t hiện những tập t�nh của m�nh c�, đ�y l� cơ duy�n tốt đẹp nhất để thật sự tu đạo đ�! Khi t�m trạng kh�ng tốt, cảm nhận �nh�n t�m� trỗi dậy, phải mau ch�ng h�ng phục n� lại. Ph�t hiện bản th�n: một khi buồn bực liền phản tỉnh! Một khi t�nh to�n liền phản tỉnh! Một khi chấp chước liền phản tỉnh! Một khi đối đ�i liền phản tỉnh! Một khi cho m�nh l� đ�ng liền phản tỉnh! Phản tỉnh ch�nh m�nh để thay đổi bản th�n, một khi thay đổi th� sẽ lĩnh hội được! Tu đạo như thế mới c� được hữu hiệu!C� như thế mới c� thể thật sự dẫn dắt bản th�n bước l�n �con đường giải tho�t�. Cho n�n nh�n lại bản th�n c� thật sự đi tr�n con đường giải tho�t kh�ng? Kh�ng cần phải trả lời cho Thầy, trong l�ng c�c con tự hiểu.

10. Độ người, độ g� đ�y? lấy th�n hiển Đạo.

Ch�ng ta chỉ độ người nhưng kh�ng độ bản th�n.Tu đạo kh�ng phải chỉ l� ng�y ng�y nghe đạo l�, m� l� trong gi�y ph�t lắng nghe, phải khắc s�u v�o t�m của m�nh, đồng thời phải thực h�nh trong cuộc sống hằng ng�y. Độ h�a ch�ng sanh, c� hồi quang phản chiếu kh�ng? C� thật sự thuận theo Đạo m� độ ho� ch�ng sanh trong nội tại của m�nh kh�ng? Tất cả c�c con đều l� nh�n t�i của Ơn Tr�n; nhưng m�, muốn th�nh t�i, th� cần phải �lấy th�n hiển Đạo� đấy!

Trời kh�ng ng�n, đất kh�ng ngữ, h�nh vi lời n�i của người tu đạo nếu c� thể được mọi người chấp nhận, người kh�c sẽ n�i: �Đạo n�y rất tốt�! Kh�ng cần con n�i nhiều, tự nhi�n người kh�c sẽ tu theo con. Vậy nếu c�c con kh�ng l�m tốt th� sao đ�y? Đạo, si�u vượt ng�n ngữ, quan trọng nhất l� l�m thế n�o �bồi đức�. Phải �lấy đức phục người, lấy đức cảm h�a người, lấy đức để b�o o�n�, quan trọng nhất l� �lấy đức b�o �n�. Chiếu theo �tu h�nh ch�n ch�nh� m� l�m, đừng qu�n rằng �tu h�nh chơn ch�nh, vạn gi�o quy nhất�.

Biết m� kh�ng học, l� �V� duy�n�; học m� kh�ng h�nh, l� �V� phận�.

Phải biết rằng: Đời người kh�ng c� mu�n ng�n �kh� khăn�, th� kh�ng c�ch n�o biểu hiện ra �chiều s�u�! kh�ng c� những �đả k�ch�, th� kh�ng c� c�ch n�o c� được �chiều rộng�! Từ đ�y biết được rằng, kh� khăn l� thử th�ch của � ch�.Trong l�c kh� khăn, mới gi�p con người sản sinh tr� tuệ; v� một người c� thể chịu đựng sự kh� khăn đả k�ch, nhưng vẫn c� thể nhẫn chịu sương gi�, mới thể hiện được sự bền bỉ v� ki�n nhẫn của họ.Tấm gương tu h�nh tốt nhất, l� ai đ�y? Tấm gương tu h�nh tốt nhất, ch�nh l� Tiền Nh�n của c�c con. Vậy c�c con h�y x�t lại lương t�m của m�nh, nhớ lại những năm gần đ�y, trong qu� tr�nh tu đạo, tại sao tr�ch nhiệm của c�c con g�nh v�c kh�ng nỗi?

H�y nhớ: trước mắt �Ch�n l�� l� kh�ng c� hai chữ �L� do�! Trước mắt �Th�nh Phật�, kh�ng c� hai chữ �Kh� khăn�!.

Ch�ng ta phải hợp lại th�nh một thể, đ� mới l� người c� tr� tuệ. Đo�n kết th� kh�ng c� việc n�o kh�ng thể l�m được.

Tại sao trong đạo lu�n c� nhiều �vấn đề thị phi�? Bởi v� mỗi người đều cho rằng c�ch nghĩ c�ch l�m của m�nh đều l� đ�ng! Chủ kiến qu� nặng, � kiến qu� nhiều, kh�ng chịu phục t�ng, kh�ng c� � thức đo�n thể, kh�ng nghĩ đến đại thể.

Nếu như h�m nay con l� Phật, phương thức xử l� của Phật l� như thế n�o? C�c con phải suy nghĩ cẩn thận, kh�ng chỉ d�ng ph�p đối đ�i thể gian, v� nhục th�n n�y sẽ dẫn dắt th�i hư tật xấu của c�c con để l�m việc. C�c đồ nhi d�ng lục căn [mắt, tai, mũi, lưỡi, th�n, �] để xử l� sự t�nh, thấy sự việc g�, nghe sự việc g�, đều l� d�ng suy nghĩ của tự ng� để ph�n đo�n đ�ng sai, v� vậy ph�m sự cần phải nghe nhiều � kiến, tham khảo � kiến của người kh�c, v� mỗi một người đều c� một sở trường.

11. Giới s�t, trường chay.

Thầy thấy c�c đồ nhi lập ch� thanh khẩu [ăn chay trường], trong l�ng thầy kh�ng k�m nổi niềm h�n hoan vui sướng. Thầy kh�ng cần bất k� sự c�ng dường n�o của con, chỉ hy vọng c�c con thật tốt tu đạo, như vậy l�ng thầy cũng m�n nguyện rồi, đ�y cũng l� sự c�ng dường lớn nhất đối với thầy. C�c con ph�m trần mắt thịt, kh�ng biết s�t sinh ăn thịt rất đ�ng sợ, b�n ngo�i tầng tầng lớp lớp oan nghiệt muốn t�m c�c con, chờ cơ hội m� tấn c�ng, c�c con n�i L�o sư kh�ng khẩn trương sao? C�c con đều l� đồ nhi của thầy, ta l�m sao nhẫn t�m để con bị thương. Nhưng thấy bộ dạng s�t sinh ăn thịt của c�c con, những oan nghiệt đ� của c�c con, c�c con muốn thầy l�m sao c� thể giải h�a gi�p c�c con? Phương ph�p tốt nhất để thầy c� thể h�a giải với oan nghiệt của c�c con, l� c�c con h�y giới s�t, ăn chay. Oan nghiệt nhiều đời nhiều kiếp của c�c con sẽ kh�ng ngừng tới quấy nhiễu c�c con. Thức ăn mặn chứa độc tố rất nhiều, oan nghiệt qu� nặng thầy k�o kh�ng nổi. C�ng đức l� điều kiện tất yếu để th�nh Th�nh th�nh Hiền, c� c�u n�i: tr�n trời kh�ng c� vị Thần n�o chẳng c� c�ng đức, tại nh�n gian kh�ng c� vị Th�nh n�o kh�ng Trung Hiếu. Th�nh Hiền cổ xưa đều l� dựa v�o lập đức c� lợi cho người ta để l�m việc, lập đức l� c� thể ti�u oan nghiệt. Nếu kh�ng đi xo� m�n nợ oan nghiệt, sẽ chuốc lấy ma khảo, cho n�n n�i: �Nếu kh�ng c� đức v� thượng th� đạo v� thượng kh�ng thể thấy được�.

12. Suy tho�i thật sự kh�ng phải l�c t�c bạc v� nếp nhăn, m� l� l�c ngưng học tập v� phấn đấu.

Con cho bản th�n m�nh thế n�o th� sẽ trở th�nh người như thế nấy.

C�c con đều l� những người may mắn nhất; l�c c�c con chịu khổ, Ơn Tr�n đều �m thầm xoay chuyển, �m thầm đ�nh thức, thậm ch� giờ giờ ph�t ph�t kh�ng qu�n quan t�m c�c con.Kh�ng thể chỉ nghĩ đến đau, phải nghĩ rằng: �Tại sao h�n đ� lại đụng phải tay m�nh?�, đừng cứ y�u cầu người kh�c phải phối hợp với m�nh, m� n�n y�u cầu ch�nh m�nh. Tại sao con kh�ng thể h�a hợp với họ? Nếu như cứ y�u cầu người kh�c phối hợp với m�nh, th� thế giới n�y được ng�y h�a b�nh hay kh�ng? Tiểu đồng c�n chưa được, n�i chi đến l� tưởng về một thế giới đại đồng đ�y!.

Đ�y l� c�u n�i rất quan trọng, con phải ghi l�ng tạc dạ.

Khổng Phu Tử đ� từng n�i: �Qu�n tử cầu chư kỷ, tiểu nh�n cầu chư nh�n� tức l� qu�n tử y�u cầu bản th�n, tiểu nh�n th� y�u cầu người kh�c. C�c con l� dạng người n�o?

Lục Tổ Huệ Năng Đại Sư c� n�i: �Thường tự kiến kỷ qu�, dữ Đạo tức tương đương� tức l� thường thấy c�i sai của m�nh, tức l� gần với Đạo. C�c con hiện nay phải chăng đang l�m tr�i ngược? H�y mau quay đầu l� bờ.

Việc kh� khăn, l� muốn thử nghiệm tr� tuệ của con.

Chớ n�n ph�n t�m, thần tr� kh�ng r� r�ng, sai một li đi một dặm, quay đầu lại đ� trăm tuổi, đến l�c đ� c� hối hận cũng đ� kh�ng kịp nữa rồi�

13. Kỳ đại khảo đang xảy ra.

Trong đạo sẽ c� nhiều thay đổi ở tương lai, vẫn ki�n tr� giữ vững sứ mệnh v� tr�ch nhiệm của ch�ng m�nh. Kỳ đại khảo n�y đang hiện ngay trước mắt, sẽ diễn ra sự ph�n ranh r� rệt trong qu� tr�nh đ�o thải! Thế cục, đạo cục, nh�n cục đều đang thay đổi, L�o Sư cũng kh�ng thể c�n bằng được.

Người tu đạo trước khi liễu đạo, tuyệt kh�ng thể c� l�ng tham vọng tưởng, hoặc khẳng định c�ng đức th�nh tựu của ch�nh m�nh, sai một � niệm lập tức sẽ sa v�o v�ng ma đạo.

Tr�n trọng t�m niệm trong mỗi ph�t mỗi gi�y, hộ tr� điểm linh quang của sinh mệnh n�y. Thi�n thời trong giờ ph�t n�y v� c�ng nguy cấp, ch�ng sinh đang sống trong đại tai nạn, sao c� thể kh�ng cố gắng nắm bắt thời gian để tận t�m tu h�nh! L�m sao c�n thời gian để ph� b�nh những thị phi trong c�c mối quan hệ con người với nhau? C�c con c�n bao nhi�u thời gian để l�ng ph� nữa đ�y!

Thi�n thời đ� kh�ng c�n cho ph�p c�c con chậm chạp tr� ho�n nữa, đ� l� l�c n�n tinh tiến, kh�ng phụ �n đức trợ h�a v� chờ đợi của chư Phật.

Cũng tr�n trọng những nh�n duy�n trời cao đ� ban tặng, tận t�m tu h�nh, đừng phụ bỏ lần gặp gỡ đặc biệt s�u vạn năm mới được một lần n�y. Chư Phật, Bồ t�t v� ch�ng sinh của tam giới thập phương, cũng h�n hạnh cho nh�n duy�n phổ độ Di Lặc ứng vận lần n�y. Mạc hậu rồi, tất cả ch�n ngụy thiện �c v� tốt xấu, dần dần hiện r�.

Ngay l�c n�y quả đất đ� kh� cằn v� nhiều lỗ thủng, nếu kh�ng hết sức tu sửa v� chỉnh trị, th� quả tinh cầu đẹp đẽ n�y, sẽ bị hao m�n v� hủy diệt trong tay của c�c con. Ti�n Phật ở c�c phương ph�p giới đều đang lo lắng cho c�c con. Ngo�i việc l�m những c�ng t�c bảo vệ m�i trường thuộc về đạo đức trong t�m linh, c�n phải thật sự hỗ trợ v� tham gia những hoạt động bảo vệ m�i trường. Sự mở rộng v� tạo dựng đạo vụ một nửa nhờ v�o sức người một nửa do trời cao, th�nh khẩn cảm động l�ng trời, khi nh�n duy�n ch�n muồi tự nhi�n sẽ c� được th�nh c�ng.

Chủ Đề