Cách viết bài văn dạng so sánh của vợ nhặt năm 2024

Dạng đề so sánh 2 tác phẩm là một dạng đề khá “đáng sợ” đối với các sĩ tử. Bài viết này sẽ giúp các em luyện tập cho dạng đề sao sánh tác phẩm văn xuôi và đưa ra tất cả những tác phẩm có thể đem ra so sánh trong đề thi. Mỗi bài viết sẽ đưa ra một cặp tác phẩm để so sánh.

Với bài này, sẽ so sánh 2 kết thúc của truyện ngắn “Vợ nhặt” và “Chí Phèo”. Các bạn nhớ đón đọc những bài sau, để thu thập đầy đủ tài liệu cho dạng đề này nhé!

Đề 4: Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Vợ nhặt” [Kim Lân]. So sánh cách kết thúc “Vợ nhặt” với cách kết thúc truyện ngắn “Chí Phèo” [Nam Cao].

1.Giới thiệu tác giả, tác phẩm , nêu vấn đề nghi luận: 2. Phân tích giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của truyện:

* Giải thích khái niệm:

- Giá trị hiện thực chính là bức tranh hiện thực đời sống được miêu tả trong tác phẩm…

- Giá trị nhân đạo là thái độ, tình cảm của nhà văn thể hiện trong tác phẩm. Giá trị nhân đạo được tạo nên bỡi niềm cảm thông sâu sắc với nỗi đau khổ của con người, sự nâng niu trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người, lòng tin vào khả năng vươn dậy của con người…

* Giá trị hiện thực trong tác phẩm “Vợ nhặt”:

- Phản ánh chân thực bối cảnh nông thôn Việt Nam trong nạn đói và thân phận người dân nghèo trong cảnh đói. [HS lựa chọn các chi tiết phân tích làm rõ: những xác người nằm còng queo bên đường, những khuôn mặt u ám, tiếng quạ thét, tiếng hờ khóc…..].

* Giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ nhặt”:

- Niềm xót xa thương cảm đối với tình cảnh sống của người dân nghèo trong nạn đói. Qua đó lên án tố cáo tội ác của bọn thưc dân phát xít [Nội dung này HS có thể khái quát sau khi phân tích giá trị hiện thực]

- Phát hiện và khẳng định phẩm chất tốt đẹp của người dân nghèo trong nạn đói: Niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc; tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau; niềm hi vọng vào tương lai [HS phân tích vẻ đẹp tâm hồn các nhân vật: Tràng, bà cụ Tứ, người vợ nhặt].

- Cách kết thúc tác phẩm: Kết thúc mở với hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ phấp phới trên đê Sộp” - gợi xu hướng phát triển theo chiều tích cực: những con người nghèo khổ bị dồn vào bước đường cùng sẽ vùng lên đi theo ngọn cờ ấy [Cách mạng] và họ sẽ có một tương lai tươi sáng, tốt đẹp…[Nhà văn đã chỉ ra được con đường để thay đổi cuộc đời những người dân nghèo]

3. So sánh với cách kết thúc tác phẩm “Chí Phèo”:

– Cùng viết về hiện thực đời sống của người dân lao động trước Cách mạng tháng Tám nhưng cách kết thúc ở 2 tác phẩm khác nhau.

– Cách kết thúc truyện “Chí Phèo”: Chí Phèo chết. Nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và trong đầu thị hiện ra hình ảnh “Cái lò gạch cũ bỏ không xa nhà cửa và vắng người qua lại”.

+ Cách kết thúc tạo nên một kết cấu vòng tròn cho tác phẩm gợi nhiều suy nghĩ: Lại sẽ có một Chí Phèo con ra đời – tình trạng lưu manh hóa, tha hóa vẫn còn tiếp diễn nếu không thay đổi thực tại.

+ Chí Phèo chết. Đó là kết cục tất yếu khi con người [đã thức tỉnh] bị dồn đẩy đến bước đường cùng buộc phải lựa chọn giữa cái chết và sống lưu manh, tha hóa.

– Cách kết thúc thể hiện cái nhìn bi quan, bế tắc trước hiện thực. Nhà văn chưa tìm ra được lối thoát cho số phận những người dân nghèo.

4. Lí giải nguyên nhân tạo nên sự khác nhau trong cách kết thúc:

- Do yếu tố thời đại nên cách nhìn hiện thực và cách giải quyết hiện thực của 2 tác giả khác nhau [2 tác phẩm thuộc 2 thời kì văn học khác nhau: Trước và sau cách mạng tháng Tám…; được viết theo hai nguồn cảm hứng khác nhau: hiện thực và sử thi lãng mạng…]

5. Đánh giá chung: Tác phẩm “Vợ nhặt” mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc [...]; giá trị nhân đạo có nét mới mẽ so với các tác phẩm văn học hiện thực trước Cách mạng.

Lưu ý: HS đạt điểm tối đa trong mỗi phần khi đảm bảo đủ 2 yêu cầu nội dung và hình thức – chữ viết, trình bày rõ ràng, diễn đạt trôi chảy; phân tích sâu sắc, thuyết phục, văn có cảm xúc.

“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm độc đáo của Kim Lân khi viết về cuộc sống và con người ở nông thôn. Khi viết về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Một trong những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn “Vợ nhặt” là đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn”. Có thể nói, đây chính là yếu tố tạo nên thành công của tác phẩm.

Là cây bút truyện ngắn vững vàng, Kim Lân viết về người nông dân và cuộc sống ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của người vốn là “con đẻ” của đồng ruộng. Những ông Hai, bà cụ Tứ, anh cu Tràng... hiện lên trong tác phẩm hồn hậu chân thực, chất phác và chiếm được nhiều thiện cảm trong lòng người đọc. Sáng tác ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công và sau này được viết lại vào khoản sau hòa bình lập lại [1954] truyện ngắn có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, là câu chuyện kể về cuộc sống của những người không có “hộ khẩu” chính thức trên mảnh đất mà mình sinh sống. Trên cái nền lịch sử của nạn đói năm 1945, Kim Lân đã đặt nhân vật của mình vào trong một tình huống độc đáo vừa buồn vừa vui, có hạnh phúc nhưng cũng đầy rẫy những lo toan.

Nghệ thuật xây dựng tình huống là việc đặt nhân vật vào trong những ngữ cảnh nhất định, làm môi trường cho nhân vật hoạt động qua đó bộc lộ phẩm chất, cá tính. Trong tác phẩm, Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống đặc biệt. Đó là tình huống anh nông dân nghèo tên Tràng, xấu trai, đang có nguy cơ ế vợ bỗng nhiên lại có vợ, mà lại là nhặt được vợ, là theo không chỉ nhờ một câu hát vu vơ và bốn bát bánh đúc. Tình huống ấy kéo theo hàng loạt các tình huống khác không kém phần lí thú.

Tình huống này gây nên sự ngạc nhiên cao độ trong xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng và ngay cả bản thân anh cu Tràng nữa bởi hai lý do: Ai có thể ngờ rằng một người nghèo túng, xấu trai, thậm chí có vẻ hơi ngờ nghệch lại là dân ngụ cư như Tràng, xưa nay con gái không ai thèm để ý, vả lại cũng không có tiền cưới vợ mà .nay bỗng dưng lấy được vợ, mà là theo khống hẳn hoi. Hơn nữa, trong một bối cảnh như thời điểm ấy, khi cái đói đang hoành hoành, khắp nơi đều vạ vật những người “xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ [...] Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” thì một người như Tràng đến nuôi thân còn chẳng lo nổi lại còn mẹ già, nói chi đến chuyện đèo bòng. Bằng ấy cái vô lý và không thể nhưng sự kiện chấn động ấy vẫn cứ diễn ra. Khi Tràng dẫn người đàn bà lạ về nhà, cả xóm ngụ cư đều ngơ ngác không hiểu. Chưa thể nào tin được đó là vợ Tràng họ bắt đầu phỏng đoán:

Ai đấy nhỉ?... Hay là người nhà dưới quê bà cụ Tứ mới lên?

- Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.

- Quái nhỉ?

Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc.

- Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để”.

Hạnh phúc của đồng loại tạm làm người ta quên đi cái đói khổ trong giây lát. “Hình như họ hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tối tăm ấy của họ”. Nhưng rồi ngay sau đó lại là nỗi lo lắng. “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”.

Từ đây, Kim Lân kéo người đọc về với tình huống trước đó như một lời lý giải cho việc nhặt được vợ của Tràng, một tình huống cũng thú vị không kém. Tràng nhặt được vợ chỉ nhờ vào câu hát vu vơ khi đẩy xe bò cho đỡ mệt nhọc:

“Muốn ăn cơm trắng với giò này

Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”

Cái đói khổ làm cho người ta mất hết cả sự xấu hổ và lòng tự trọng. Người đàn bà đã chớp lấy câu nói của Tràng như cái phao cứu sinh cho cuộc đời mình. Lần thứ hai gặp lại thì “xưng xỉa”: “Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt”, rồi không ngần ngại ngồi xuống làm một chập hết bốn bát bánh đúc. Thế là nên vợ nên chồng.

Có thể nói đây là một tình huống hết sức oái oăm, không biết nên vui hay nên buồn, không biết nên mừng hay nên lo? Thứ tâm trạng đan xen ấy hiện lên trong suy nghĩ đầy mâu thuẫn của những người trong cuộc. Tràng “mới đầu cũng chợn nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi hắn cũng tặc lưỡi. Cảm giác ấy cùng với những tình cảm mới lạ đan xen khiến Tràng giống như một đứa trẻ. Khác với Tràng, bà cụ Tứ là một người từng trải, nhìn thấy con trai về cùng với người đàn bà lạ mặt “lòng người mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà hiểu cả tình cảnh bất hạnh của người đàn bà, cũng như tình cảnh khó khăn sắp tới của cả gia đình. Nỗi lo lắng cùng với niềm hy vọng đan xen, “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết được?”. Bản thân người đàn bà, sau những phút giây chao chát chỏng lỏn để có được miếng ăn, theo không người ta về nhà, chắc chắn giờ đây cũng suy nghĩ mông lung nhiều lắm. Thị trở về với dáng vẻ ngượng ngùng, bẽn lẽn, e thẹn “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”.

Đặt nhân vật vào trong tình huống đặc biệt, éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật những ý nghĩa sâu sắc của truyện. Không cần đến những lời kết tội to tát câu chuyện thông qua tình huống nụ cười và giọt nước mắt đan xen ấy mà lên án gay gắt bọn phát xít thực dân phong kiến và tay sai đã gây ra nạn đói năm 1945, đẩy con người đến cái chết, dẫn đến những tình huống éo le, cùng cực, làm cho giá trị con người bị rẻ rúng: người ta có thể nhặt được vợ chỉ với bốn bát bánh đúc.

Tình huống ấy cũng chính là môi trường cho nhân vật bộc lộ đặc điểm tính cách cũng như đời sống tinh thần của mình. Tràng tỏ ra là một anh thanh niên chất phác, hiền lành, chăm chỉ làm ăn và có đời sống nội tâm có phần hơi đơn giản. Bà cụ Tứ mang trong mình sự từng trải, nghĩ trước sau chu toàn. Tràng “nhặt” được vợ, bà vừa mừng vừa lo. Bà hiểu cái tao đoạn mà bà và những người xung quanh đang phải trải qua, hiểu vị trí của những người dân ngụ cư trong quan niệm của người khác, hiểu được tình thế oái oăm, đèo bòng của con trai mình. Hơn thế nữa, bà cũng hiểu và cảm thông cho hành động theo không của người đàn bà “Người ta có gặp lúc khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình”. Ngày đầu tiên của cuộc sống mới, cũng chính bà là người gợi ra tương lai tươi sáng, gieo vào trong lòng đôi vợ chồng trẻ niềm hy vọng. Còn ở cô “vợ nhặt” thì tính cách có sự thay đổi đến bất ngờ: từ một người đàn bà chao chát, chỏng lỏn, chị khác hẳn trong tư cách một người vợ, một người quen, dịu dàng, biết thu vén cho cuộc sống gia đình.

Thông qua tình huống truyện đặc sắc Kim Lân cũng muốn thể hiện khát vọng của con người có thể chiến thắng hoàn cảnh để sống và có được hạnh phúc. Người lao động, dù trong tình huống bi thảm đến đâu, ngay cả khi gần kề cái chết vẫn khát khao hướng về ánh sáng, tin tưởng ở sự sống và tương lai. Giá trị nhân văn của tác phẩm là ở đó. Cầu chuyện kết thúc với những ánh sáng báo hiệu điều gì đó tốt đẹp hơn đang đến. Tràng “bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ...” và anh bắt đầu hi vọng: “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này “. Người mẹ già cũng “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường”, cái mặt bủng beo u ám “rạng rỡ hẳn lên”. Và tất nhiên, nhiều nhất phải nói tới sự thay đổi của người “vợ nhặt”, giờ đây đã trong vai trò của một người vợ hiền đảm đang. Hình ảnh đám người đi phá kho thóc cứ gieo vào trong lòng Tràng đầy ám ảnh như dự báo một cuộc cách mạng không sớm thì muộn cũng sẽ tất yếu xảy ra.

Xây dựng tình huống đặc sắc trong “Vợ nhặt”, Kim Lân đã một lần nữa chứng minh cái tâm, cái tài của mình với tư cách là một nhà văn một đời đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn.

“Vợ nhặt” là một truyện ngắn độc đáo trong nghệ thuật xây dựng tình huống. Chính điều này đã góp phần vào việc thể hiện chủ đề, tư tưởng cũng như tăng tính hấp dẫn trong tác phẩm.

Đề 2: Em hãy phân tích rõ chi tiết nụ cười của Tràng và giọt nước mắt của bà cụ Tứ

Chọn nạn đói năm 1945 – Trang sử bi thương nhất của lịch sử dân tộc làm bối cảnh của câu chuyện, Kim Lân đã kể cho ta nghe một câu chuyện lạ lùng nhất trong cuộc sống : chuyện anh Tràng bỗng nhiên có người đàn bà về trong những ngày tối sầm vì đói khát ấy. Chính tình huống độc đáo và éo le ấy đã nảy sinh bao nét tâm lý ngổn ngang, bao niềm vui, nỗi buồn. Và hình ảnh nụ cười, nước mắt trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm được coi là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc góp phần thể hiện tài năng của Kim Lân trong việc khắc họa tâm lí nhân vật và thể hiện tư tưởng nhà văn, chủ đề tác phẩm.

Hình ảnh nụ cười được nhà văn nhắc đến nhiều lần khi khắc họa chân dung nhân vật Tràng. Khi đẩy xe bò thóc hắn vuốt mồ hôi trên mặt cười, trên đường dẫn người vợ nhặt về: hắn tủm tỉm cười, hai con mắt sáng lên lấp lánh, khi trẻ con trêu chọc Tràng bật cười Bố ranh. Khi người vợ nén tiếng thở dài trước quang cảnh của nhà Tràng, hắn “quay lại nhìn thị cười cười”. Bà cụ Tứ về, Tràng tươi cười mời mẹ ngồi lên giường…

Nụ cười của Tràng đã góp phần khắc họa tính cách, tâm lý tính cách thuần phác, nhân hậu, yêu đời của gã trai quê mùa, thô kệch; nói cùng ta niềm hạnh phúc, sung sướng của con người trong tận cùng đói khát vẫn không thôi khao khát tình yêu, tổ ấm gia đình. Đặt trong bối cảnh của câu truyện viết về nạn đói thảm thương 1945, hình ảnh nụ cười của Tràng [lặp lại 8 lần] giống như cơn gió mát lành làm dịu đi cái căng thẳng ngột ngạt, cái trăm đắng ngàn cay của con người ngày đói, thể hiện cái nhìn lạc quan, niềm hy vọng của nhà văn vào cuộc sống. Phải chăng, nhà văn đã gửi gắm một thông điệp giản dị: chỉ có tình yêu thương mới có thể mang đến niềm vui, nụ cười hạnh phúc cho con người.

Bên cạnh việc khắc họa tâm lí của Tràng qua nụ cười, Kim Lân cũng chú ý nét tâm lí của nhân vật bà cụ Tứ qua chi tiết giọt nước mắt. Khi hiểu ra cơ sự nhặt vợ của con “kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Khi lo lắng cho cảnh ngộ đói khát của chúng: bà cụ nghẹn lời không nói, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Khi nghe thấy tiếng trống thúc thuế, bà vội ngoảnh mặt đi, bà không muốn để con dâu nhìn thấy bà khóc.

Giọt nước mắt của bà cụ Tứ góp phần thể hiện nỗi xót xa của người mẹ trước cảnh ngộ của con lấy vợ giữa “tao đoạn” và số phận không được bằng người. Việc lấy vợ của con là vui nhưng vì cái cái đói, cái chết mà khiến bà xót xa, tủi thân, tủi phận. Giọt nước mắt khổ đau ấy như lời kết án sâu sắc thực dân Pháp, phát xít Nhật đẩy dân ta đến thảm cảnh cùng cực đó.

Giọt nước mắt cho thấy tấm lòng chan chứa yêu thương con của người mẹ, những giọt nước mắt như cố kìm nén [ rỉ ra hai dòng nước mắt, ngoảnh vội ra ngoài]. Thương con, mừng lòng trước hạnh phúc của con, bà đào sâu chôn chặt, dấu đi nỗi lo lắng, bà khóc thầm, khóc vụng, để rồi chỉ nói những lời yêu thương, động viên con.

Nụ cười – nước mắt là biểu hiện của hai trạng thái cảm xúc đối lập nhau nhưng cùng lấp lánh ánh sáng của tình người, của tình yêu thương giữa những ngày đói khát, chúng góp phần thể hiện sự éo le của tình huống truyện, làm nên giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo sâu sắc. Khắc họa hình ảnh giàu ý nghĩa đó, Kim Lân chứng tỏ là nhà văn thấu hiểu tâm lí nhân vật, biệt tài xây dựng những chi tiết nghệ thuật nhỏ nhưng hàm chứa tầng ý nghĩa sâu xa, thể hiện quan niệm sáng tác “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”

Không chỉ thành công ở chi tiết nụ cười, nước mắt, Kim Lân cũng để lại trong ấn tượng đậm nét trong tâm trí người đọc ở hình tượng nồi cháo cám. Nhà văn đã để cho cái đói quay quắt se duyên cho một mối tình nhưng cũng đẩy họ đến bên bờ vực: liệu có nuôi nổi nhau qua cái thì tao đoạn này không. Bữa cơm đón nàng dâu mới minh họa rõ nét hơn cho cái thực trạng thảm thương của những con người khốn khó đó: giữa cái mẹt rách chỉ có niêu cháo loãng, một lùm rau chuối thái rối, đĩa muối trắng và nồi cháo cám. Cháo cám dẫu được mẹ già sang trọng gọi là chè khoán nhưng vẫn không sao xua được cảm giác đắng ngắt, chát xít nơi cổ họng, không sao nén được nỗi tủi hờn dâng lên trong tâm trí mỗi người. Bát cháo cám như đập tan cái không khí vui tươi ở phần đầu bữa ăn. Hiện thực về cái đói vô cùng khốc liệt và ám ảnh một lần nữa xuất hiện, đe dọa hạnh phúc của con người. Thứ hạnh phúc bé nhỏ, mong manh vừa mới nhen nhúm ngay lập tức bị đe dọa bởi cái đói. Nỗi xót xa, buồn tủi thấm trong trang văn của Kim Lân như lan sang người đọc.

Nhưng vượt lên trên nghĩa tả thực, bát cháo cám còn làm ngời sáng trước mắt ta tấm lòng, tình cảm của người mẹ già khốn khó. Bà cụ Tứ vừa múc cháo, vừa đùa vui: “ Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Nào phải bà không thấu cái vị đắng ngắt, chát xít của cháo cám, đâu phải bà không hay về tương lai mù xám của những đứa con mình? Người mẹ già ấy đã có nén lại nỗi lo lắng thắt lòng cho tương lai đôi trẻ, đã vượt qua mọi sượng sùng, ngần ngại với người con dâu về gia cảnh nhà mình để khơi dậy chút nguồn vui cho không khí gia đình. Bên tận cùng nỗi xót xa, ta lại cảm động vô cùng trước mênh mông tấm lòng người mẹ. Hơn nữa, chẳng phải ngẫu nhiên Kim Lân lại để cho người mẹ già nua tuổi tác, xế bóng ngả chiều lại là người khơi niềm vui trong thảm cảnh ngày đói. Là Kim Lân thấy lửa, khơi lửa và tin rằng có lửa ngay trong đống tro tưởng sắp lụi tàn, thấy mầm xanh sự sống chẳng những vươn lên từ thân non hay một đời cây cường tráng mà còn khỏe khoắn vươn lên từ chính một gốc cây sắp tròn cổ thục. Không nghi ngờ gì nữa, món chè khoán của bà cụ Tứ làm một chi tiết Kim Lân trọn vẹn gởi trao niềm tin và khát vọng sống của con người.

Chi tiết bát cháo cám cũng thể hiện khát khao hạnh phúc gia đình của người đàn bà vô danh. Ta hiểu thị nhắm mắt đưa chân không đơn thuần vì miếng ăn, thị không bỏ đi khi chứng kiến gia cảnh bần hàn của Tràng, nay ta càng thấu hiểu sâu sắc hơn cái khát vọng có một bến đỗ cho con thuyền phiêu dạt, một tổ ấm dừng chân nơi thị trong cái cử chỉ “ điềm nhiên và vào miệng miếng cháo cám”. Cái cử chỉ và thái độ ấy cho thấy thị thật ý tứ, sẵn sàng đồng cam cộng khổ với gia đình Tràng. Hạnh phúc mong manh vừa nhen nhóm ấy, phải chăng cần lắm những đôi bàn tay nâng niu như vậy. Lời nói của bà cụ Tứ và hành động của người con dâu chính là cách những người phụ nữ giữ gìn, bảo vệ và vun đắp cho niềm hạnh phúc vừa mới chớm nở.

Sáng tạo chi tiết bát cháo cám, Kim Lân không chỉ gợi lại sinh động thảm trạng ngày đói năm nào mà nhà văn còn muốn ca ngợi tình người nồng thắm nơi những tấm lòng thuần hậu, chất phác. Trong cảnh đói bi thương ấy, họ vẫn không thôi yêu thương, vẫn nương tựa vào nhau cùng sẻ chia và cùng hy vọng.

Đề 3: Anh/Chị hãy nêu cảm nhận về hình ảnh nồi cháo cám trong truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân

Thành công của một tác phẩm được làm nên từ rất nhiều yếu tố. Một trong số đó là những chi tiết đắt giá làm nên ấn tượng sâu sắc với người đọc và đồng thời qua đó phải thể hiện được dụng ý nghệ thuật cũng như tư tưởng của tác giả trong tác phẩm đó. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình ảnh nồi cháo cám vào trong tác phẩm, qua đó làm nổi bật tư tưởng nhân đạo của nhà văn đối với cuộc đời và con người.

“Vợ nhặt” là một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống cùng cực, thê thảm của người nông dân trong nạn đói lịch sử 1945. Tiêu biểu cho những người nghèo đói là gia đình anh Tràng. Trong hoàn cảnh nhà khó khăn đến vậy, việc lấy vợ của anh khiến cho ai nấy đều ngạc nhiên hết sức. Bởi giữa cảnh nghèo đói, cận kề với cái chết, nuôi thân mình còn chưa xong vậy mà lại còn đèo thêm miệng ăn, “rước cái của nợ ấy về”. Và trong bữa cơm đón nàng dâu mới, hình ảnh nồi cháo cám khiến cho người đọc không khỏi xót xa và thương cảm cho những số phận cùng khổ. Với chi tiết này, nhà văn cũng muốn nói lên tình yêu thương con người và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.

Nếu trong bữa ăn nghèo đói thường ngày thì đã đành, nhưng đây trong bữa sáng đầu tiên nhà có cô dâu mới mà cả nhà lại ngồi với nhau bên nồi cháo cám. Bà cụ Tứ sợ con dâu buồn nên phân trần: “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Tình cảnh khốn khó ấy lại càng khiến cho người đọc không khỏi nghẹn ngào vì bữa cơm đón nàng dâu mới thực sự thê thảm: “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cả bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ anh và cả người đọc đều hiểu rõ, với bữa cơm như vậy thì lấy đâu ra mà ăn ngon lành cho cho được. Nhưng ở đây, cả ba người đều “ăn rất ngon lành” là vì ai cũng hiểu, ai cũng nén trong lòng và cố làm ra vẻ vui tươi.

Nhưng có lẽ đó cũng là niềm vui thực sự. Bởi lẽ, vượt lên trên cái nghèo đói hiện diện trước mắt, con người ta cũng biết trân trọng những hạnh phúc đời thường. Bà cụ Tứ chính là một người mẹ đầy nhân hậu và bao dung, dù trong cảnh nghèo đói nhưng vẫn vui vẻ chấp nhận cô con dâu mới, thậm chí là còn vui mừng vì những tưởng con mình không có ai để ý đến vậy mà nay con đã lấy được vợ. Chính vì thế mà trong bữa cơm sáng, bà cụ đã nói toàn chuyện vui, chuyện tương lai để động viên các con: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. [..] Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. Những câu chuyện mà bà cụ nói đều là những chuyện tốt đẹp để mong tương lai sẽ rộng mở hơn. Đây cũng là những mong ước của tất cả mọi người trong hoàn cảnh khó khăn ấy.

Nhưng vừa mới nhen nhóm lên được chút hy vọng thì thực tại đã đổ sập ngay trước mắt. Khi mà bà cụ “lật đật chạy xuống bếp, lễ lễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. […] vừa khuấy vừa nói: Chè đây! Chè khoán đây!” nhưng kì thực đó lại là một nồi cháo cám. Đây được xem là một chi tiết đắt giá, nó vừa gợi lên cái nghèo đói cùng cực, vừa cho thấy tình người cao đẹp trong đó. Trong hoàn cảnh là nạn đói năm 1945, khi mà “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”, thì nồi cháo cám lại được xem là một món ăn cứu đói, là món “chè” xa xỉ hơn nhiều nhà khác rồi. Và vì thế, mặc dù có chút thất vọng nhưng cả ba người không một ai chê trách. Mẹ Tràng thì đon đả khen “ngon đáo để”. Tràng tuy cảm thấy nghẹn ứ nơi cổ họng nhưng vẫn cố gắng ăn để mẹ vui lòng. Còn người vợ thì “điềm nhiên và vào miệng”. Chi tiết này cũng cho thấy vợ Tràng không còn chao chát đỏng đảnh như hôm gặp trên phố nữa mà thị đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. Chính vì thế mà tất cả ba người cùng tin vào một tương lai sẽ tốt đẹp hơn.

Có thể nói rằng, hình ảnh nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng đậm nét trong tâm trí người đọc. Chi tiết này vừa có giá trị hiện thực lại vừa có giá trị nhân văn, nhân đạo rất lớn. Qua hình ảnh nồi cháo cám, người đọc hiểu rõ hơn về tình cảnh nghèo đói, khốn khó của đồng bào ta trong nạn đói 1945. Tuy vậy nhưng trong cảnh chết chóc nghèo đó, người ta vẫn thấy ánh lên tình người, tình yêu thương và lòng ham sống vô bờ bến. Tưởng chừng như đang trong bờ vực của cái chết lắt lay, người ta chỉ nghĩ đến những thống khổ nhưng không, ở đây người đọc vẫn bắt gặp tình thương của một người mẹ dành cho con, tình cảm của người vợ dành cho chồng và trách nhiệm của một người chồng dành cho gia đình của mình. Tất cả đều cùng hướng đến một tương lai hạnh phúc và no đủ hơn.

“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân. Truyện đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ. Điều đó được thể hiện qua vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt.

Người vợ nhặt hiện lên với vẻ ngoài xấu xí, thê thảm. Thị là nạn nhân của xã hội đói nghèo, cơ cực bị cuộc sống mưu sinh vắt kiệt sự sống. Tuy không được miêu tả nhiều nhưng vẫn hiện lên với những vẻ đẹp đáng trân trọng. Với tài năng miêu tả bậc thầy, Kim Lân đã xây dựng nhân vật đầy sống động, gây bất ngờ với những thay đổi ban đầu và về sau, trong cái đối lập giữa vẻ bề ngoài với những giá trị bên trong.

Thị là nạn nhân của nạn đói, đứng trên ranh giới của sự sống và cái chết, chị ta sống lang bạt, vất vưởng. Đây cũng là cơ duyên để chị ta gặp gỡ và nên vợ nên chồng với anh Tràng. Tuy nhiên đối lập với cảnh trôi dạt, vất vưởng ấy lại là lòng ham sống mãnh liệt. Chỉ vì bốn bát bánh đúc, chị ta chấp nhận theo không anh Tràng - một người đàn ông xấu xí, nghèo khổ về làm vợ vừa là con đường chạy trốn với cái đói, cái chết vừa thể hiện khát khao hạnh phúc mãnh liệt ở người đàn bà ấy. Nếu đặt trong hoàn cảnh bình thường, có lẽ thị sẽ không theo Tràng về làm vợ. Giống như lời bà cụ Tứ thầm nghĩ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Thế mới thấy được khao khát sống mãnh liệt của người vợ nhặt.

Tiếp đến, Kim Lân đã khắc họa hình ảnh người vợ nhặt hiện lên thật thê thảm, rách rưới. Lần thứ hai gặp lại Tràng, thị trở nên khác hẳn: “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Chỉ với vài nét miêu tả thôi, nhưng ta đã thấy được tình cảnh thảm hại của thị. Nhưng không chỉ xấu xí, rách rưới mà ấn tượng đầu tiên chị ta mang đến cho độc giả là sự chao chát, chỏng lỏn. Một người phụ nữ lại có thể lớn tiếng mắng mỏ và đòi trả công bằng bữa ăn với người đàn ông mà mình chỉ mới gặp trước đây vài ngày: “Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt”. Rồi thị còn cong cớn với Tràng khi anh ta mời ăn trầu: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Để rồi khi anh cu Tràng nói “Muốn ăn gì thì ăn”, thì đã chẳng ngại ngần gì mà “mắt còn sáng lên”, đon đả nói “ăn thì ăn thật chứ sợ gì”, “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn chiếc bánh đúc”, khi ăn xong còn cầm lấy đũa quẹt ngang miệng. Tuy nhiên, ẩn chứa bên trong vẻ ngoài nhếch nhác, chỏng lỏn ấy lại là người đàn bà biết điều, một người phụ nữ hiền hậu, một người vợ đúng mực. Khi theo anh Tràng về nhà, trước sự bàn tán của người dân xóm ngụ cư chị ta dù không thoải mái nhưng cũng chỉ dám lầm bầm trong miệng. Về đến nhà, thị cũng chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường”, rồi cất tiếng chào bà cụ Tứ thật nhẹ nhàng: “U đã về đấy ạ”. Nhìn thấy hình ảnh ngôi nhà lụp xụp của mẹ con anh Tràng, mặc dù cảm thấy thất vọng nhưng chị ta cũng không bỏ đi hay mắng chửi anh Tràng như trước đó mà chỉ cố nén tiếng thở dài, ánh mắt tối lại. Khi bà cụ Tứ về, người đàn bà ấy đã chủ động làm quen. Đến buổi sáng đầu tiên về nhà, chị ta cũng chủ động dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, chuẩn bị mâm cơm gia đình. Thị bỗng hóa thân thành một nàng dâu hiền thảo, một cô Tấm giữa đời thực. Khi mẹ chồng bưng ra mời cô con dâu mới nồi cháo cám, thị cũng không hề có những phản ứng thô thiển như lúc trước mà chỉ lặng lẽ và miếng cháo chát nghẹn vào miệng. Rồi thị kể cho Tràng và mẹ nghe những câu chuyện về những người đi phá kho thóc, gieo vào lòng họ những niềm tin về một tương lai tươi sáng. Như vậy, ấn tượng về người vợ nhặt hoàn toàn thay đổi khi chị ta theo anh Tràng về làm vợ, đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, bản chất đáng quý bên trong cái xù xì, xấu xí bên ngoài.

Người vợ nhặt hiện lên dưới ngòi bút của nhà văn Kim Lân với những vẻ đẹp khuất lấp của một nàng dâu mới. Thị chính là đại diện cho những người phụ nữ trong nạn đói năm 1945 với những vẻ đẹp đáng trân trọng.

Khi nói về truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã tâm sự: “Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà họ nghĩ đến cái sống”. Thật vậy, nơi ranh giới giữa sự sống và cái chết ấy con người vẫn khao khát tìm được sự sống và hạnh phúc. Đoạn trích: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại… lá cờ đỏ bay phấp phới” đã cho ta cảm nhận được tận cùng của sự xót thương về một khung cảnh khốc liệt của nạn đói nhưng con người vẫn khát khao ánh sáng, hạnh phúc và tương lai.

Con gái nhà Kim Lân viết về cha mình khi ông mất: “Sinh thời thầy tôi là một người mang rất nhiều mặc cảm”. Mặc cảm ở đây chắc hẳn do nhà văn là con của vợ ba, mẹ của nhà văn là người dân xóm ngụ cư. Cũng vì thế Kim Lân hiểu hơn cả con người nơi đó. Vì thế nhà văn được mệnh danh là nhà văn của đồng quê, của nông thôn Việt Nam. Tác phẩm ‘’Vợ nhặt’’ dựa trên tiểu thuyết ‘’ Xóm ngụ cư’’ được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng bị thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại [ 1954] cũng đã đưa một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này. Bằng tài năng uyên bác Kim Lân đã gây đòn vang lớn cho tác phẩm của mình.

Hình ảnh bữa cơm ngày đói thuộc phần cuối của tác phẩm. Đây là bữa cơm đầu tiên bà cụ Tứ chuẩn bị để đãi nàng dâu mới vào buổi sáng hôm sau, Tràng đưa người vợ nhặt của mình về nhà. Trước hết đây là hình tượng đã tái hiện hình ảnh khốn cùng đáng thương của gia đình Tràng qua đó phản ánh được bức tranh hiện thực tối tăm, ảm đạm của nước ta trong nạn đói lịch sử.Là bữa cơm sum họp đầu tiên - bữa ăn đón dâu mới. Vậy mà bà cụ Tứ chẳng thể sửa soạn được cho tươm tất, trước hết là để cúng gia tiên mời họ hàng sau nữa là mừng cho hạnh phúc của các con. Đoạn văn bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại giữa cái mẹt rách chỉ có đôi một lùm rau chuối thái rồi, một đĩa muối và một niêu cháo lỏng bỏng. Đây là những món ăn rất quen thuộc của người dân nghèo, tuy vậy mỗi người chỉ được lưng lưng 2 bát là hết nhẵn, ba mẹ con đối mặt với nồi cháo cám. Chi tiết để lại ám ảnh nhất với người đọc trong bữa ăn này chính là chi tiết đó - nồi chè khoán được nấu bằng cháo cám. Có thể thấy nạn đói khủng khiếp đã đẩy nhân dân ta vào cảnh cùng quẩn tới mức phải ăn những thức ăn vốn là của loài vật. Vậy mà, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ nơi cổ họng trong tình cảnh này vẫn được xem ngon đáo để hay lắm cơ và xóm ta khối nhà chẳng có cháo cám mà ăn. Trong tình cảnh ấy mọi người dù cố gắng đến đâu thì niềm vui cũng chẳng thể trọn vẹn. Ba mẹ con ngồi ăn lặng lẽ tâm trạng dâng đầy những nỗi tủi hờn, đầy những dự cảm lo âu. Sự thảm hại của bữa cơm ngày đói càng tăng lên trong không khí ngột ngạt căng thẳng với tiếng trống thúc thuế dồn dập và hình ảnh những đàn qua bay vẩn trên nền trời: như những đám mây đen. Âm thanh và hình ảnh này gợi lên không khí tang thương chết chóc. Từ tiếng trống thúc thuế ta còn thấy không khí hiện lên trong bữa cơm hình ảnh của bọn thực dân phát xít với những chính sách cai trị thâm độc tàn bạo, và tình cảnh của 2 triệu đồng bào ta trong thảm họa khủng khiếp này.

Tuy nhiên bữa cơm ngày đói trong tác phẩm này vô cùng cảm động, đó còn là một bữa cơm chan chứa tình người. Ở đó sáng lên những phẩm chất vô cùng đẹp đẽ của con người Việt Nam trong khó khăn hoạn nạn. Trước hết đây là bữa cơm diễn ra trong không khí gia đình đầm ấm hòa hợp - mẹ con trên kính dưới nhường, vợ - chồng thuận hòa đầm ấm. Mặc dù bữa ăn trông thật thảm hại nhưng bà mẹ toàn nói chuyện vui chuyện sung sướng về sau, bà vừa ăn vừa tính toán cho tương lai. Không phải ngẫu nhiên khi bà cụ Tứ trong buổi sáng hôm sau ấy lại bàn với con chuyện nuôi gà. Chuyện nuôi gà để vượt qua những hoàn cảnh cùng quẩn vốn mang một triết lí dân gian thể hiện một cách sâu sắc và cảm động. Niềm lạc quan vui sướng của nhân dân bao đời. Đáp lại lời mẹ, Tràng một mực dạ vâng ngoan ngoãn còn người dâu thì ý tứ lễ phép. Có thể thấy chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm hòa hợp như thế. Không khí bữa cơm gia đình đã khẳng định trong hoàn cảnh khốn cùng kể cả khi bị cái đói cái chết đe dọa con người Việt Nam vẫn giữ được đạo lí truyền thống đẹp đẽ của dân tộc mình. Không khí bữa cơm ngày đói ấy đã làm sáng lên những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam trong khó khăn hoạn nạn. Trước hết, đó là vẻ đẹp của tinh thần lạc quan. Không phải ngẫu nhiên khi trong bữa ăn bà mẹ toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng về sau và bàn với con chuyện nuôi gà: “có tiền ta mua lấy đôi gà … chả mấy chốc mà có đàn gà cho mà xem”. Bà còn nhắc đến câu tục ngữ: “ Ai giàu ba họ ai khó ba đời” chuyện nuôi gà để vượt qua cơn bị cực vốn dĩ là một kinh nghiệm sống đã được khái quát thành một bài học một triết lí dân gian. Triết lý ấy cùng với niềm tin: “ Ai giàu ba họ ai khó ba đời” có ý nghĩa khẳng định: Trong bế tắc cùng quẩn người dân vẫn luôn lạc quan để hướng về tương lai vui sướng, để hi vọng. Vẫn biết chắt chiu niềm hạnh phúc đời thường từ những điều vốn bình dị, giản đơn. Lẽ thường, những người trẻ tuổi mới hay nói chuyện tương lai, bàn định kế hoạch để bà cụ Tứ một người gần đất xa trời bàn với con những câu chuyện ấy chính là cách Kim Lân bộc lộ niềm tin vào những phẩm chất tốt đẹp của người lao động kể cả khi họ đã bị dồn đến hoàn cảnh khốn cùng. Nổi bật nhất xúc nhất trong bữa cơm ngày đói này chính là tình yêu thương. Trước hết đó là tình cảm mẹ con dành cho con. Do hoàn cảnh nhà bà cụ Tứ phải đãi nàng dâu bằng nồi cháo cám. Chắc chắn cũng hiểu nồi cháo đắng chát ấy chẳng có gì là “ ngon đáo để” là “ hay lắm cơ” song bà vẫn cố tạo ra không khí vui vẻ để an ủi, động viên các con. Ánh mắt của bà lấp lánh, lời nói của bà đon đả, cử chỉ lật đật đầy phấn chấn tất cả đều là những biểu hiện của tấm lòng người mẹ, bà đang cố khỏa lấp đang gắng xua tan bóng đen u ám tối tăm đang bày ra trước mắt để gieo vào lòng các con những niềm hi vọng. Không chỉ có tình cảm mẹ dành cho con trong bữa ăn còn có cả tình cảm mẹ mà người con dâu đã đưa hai tay đón lấy bát “chè khoán” mẹ trao và biết dù đó chỉ là cháo cám chị vẫn ăn ngon. Đó chính là hành động chị đem tấm lòng của mình để đáp lại tấm lòng của mẹ. Nếu tình cảm mẹ con dành cho nhau được biểu hiện qua chi tiết nồi cháo cám thì tình cảm vợ chồng dành cho nhau được khẳng định bằng việc xuất hiện đại từ nhân xưng trong cuộc trò chuyện “Việt Minh phải không” “Ừ sao nhà biết”. Từ ”nhà” cho thấy tình cảm giữa vợ chồng họ thật ấm áp hòa thuận. Bữa cơm ngày đói trong tác phẩm này còn phản ánh không khí đấu tranh cách mạng và niềm tin niềm hi vọng vào sự đổi đời của người dân nghèo.

Trong âm thanh của tiếng trống thúc thuế, cuối bữa ăn vợ nhặt đã thông báo một thông tin quan trọng: Việt Minh,…Thông tin ấy đã đem đến niềm hi vọng vào sự thay đổi lớn lao của nhân vật Tràng không chỉ bổn phận trách nhiệm đối với người thân gia đình mà còn có cả ý thức trách nhiệm đối với xã hội. Câu chuyện “ người ta không chịu đóng thuế nữa… người ta còn phá cả kho thóc của Nhật để chia chi người đói” mà người vợ nhặt kể cho mẹ con Tràng nghe đã hé mở sự vùng dậy của ý thức phản kháng, nghe chuyện, Tràng hỏi vợ: Việt Minh phải không”. Bằng hình ảnh đám người đói cùng lá cờ đỏ bay phấp phới trong óc Tràng gợi ta nghĩ đến con đường tất yếu mà vợ chồng Tràng mẹ con Tràng sẽ đi: con đường cách mạng. Đến với cách mạng để giải phóng quê hương đó là niềm tin tưởng, niềm lạc quan và cũng là tấm lòng trân trọng lòng yêu thương nhà văn Kim Lân dành cho người lao động.

Đúng như câu nói: “Tôi viết như một việc được thôi thúc bên trong nhưng cảm xúc, suy tư đòi hỏi tôi phải viết. Thực chất viết vào tôi viết về mình”. Hẳn tác giả phải thật sự hiểu và tôn trọng những con người khổ đau ấy để tìm cho họ những ánh sướng của hi vọng.

Đề 6: Em hãy phân tích cảm nhận của nhân vật Tràng sau khi có vợ

"Vợ Nhặt” là truyện ngắn được trích trong tập truyện “Xóm ngụ cư” của nhà văn Kim Lân. Câu chuyện kể về nhân vật anh cu Tràng một người nông dân hiền lành chất phác trong nghịch cảnh lại có được hạnh phúc lứa đôi. Không chỉ xây dựng nhân vật thành công qua nét tính cách và ngoại hình, Kim Lân còn khắc họa rất thành công diễn biến tâm trạng của nhân vật này. Đặc biệt thông qua đoạn trích:

“…Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.

[….]

Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà…”.

Vợ Nhặt được lấy bối cảnh từ nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 khi mà đất nước ta có đến 2 triệu người chết đói. Nhân dân ta chịu cảnh áp bức một cổ hai tròng. Ở miền Bắc, phát xít Nhật bắt dân ta phải nhổ lúa trồng đay. Thực dân Pháp thì ra sức vơ vét thóc gạo của người nông dân. Hậu quả là đến cuối năm 1945, người dân rơi vào thảm cảnh bi thương khi hàng triệu người bị chết đói. Đây được xem là nạn đói lớn nhất trong lịch sử. Nhưng kì lạ thay ngay cả trong hoàn cảnh đói khát tăm tối nhất khi người ta cận kề bên miệng vực của cái chết thì những con người lao động Việt Nam vẫn lạc quan hướng về tương lai hạnh phúc hơn.

Nhân vật Tràng trong truyện ngắn được miêu tả là một gã trai nghèo khổ. Nghèo đến tột cùng cái nghèo đấy được thể hiện qua “chiếc áo nâu tang”, ngôi nhà thì “vắng teo đứng rúm ró bên mảnh vườn mọc lổm ngổm những búi cỏ dại”. Và Tràng chỉ là một gã kéo xe bò thuê. Đến cái tên của hắn cũng thể hiện sự thô kệch nghèo khó. Ngòi bút của Kim Lân đã khắc họa nhân hình của Tràng một cách rất sống động: “hai mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra”. Bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn, vạm vỡ, cái đầu thì trọc lốc… Dưới ngòi bút của Kim Lân, hắn chỉ như một bức chân dung vẽ vội một hình hài được tạo hóa đẽo gọt quá ư sơ sài, cẩu thả. Không chỉ xấu xí mà cái sự nghèo khổ còn khiến cho hắn bị dở tính có tật “vừa đi vừa nói”. Hắn hay “lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ” thỉnh thoảng còn “ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”.

Trong cái cơn thóc cao gạo kém đó, một người vừa xấu xí lại nghèo như Tràng không ai có thể hình dung được là hắn có thể có vợ. Mà hoàn cảnh lấy được vợ cũng hết sức thú vị. Hắn nhặt được vợ trên đường đi đẩy xe bò trở thóc về nhà. Thị đã theo hắn về nhà sau lời mời chào tưởng như bông đùa và bốn bát bánh đúc ở chợ huyện.

Kim Lân đã dành rất nhiều trường đoạn để miêu tả diễn biến của nhân vật Tràng sau khi nhặt được vợ. Đầu tiên khi nghe những lời hàng xóm xì xầm, bàn tán chê bai: ”chao ôi, thời buổi nào còn rước cái của nợ ấy về, có nuôi nổi nhau sống qua ngày không?” Nhưng Tràng nghe thấy thế cũng chỉ “Chậc. Kệ” giờ đây hắn chỉ còn “tình nghĩa với người đàn bà đi kế bên”. Hắn tủm tỉm cười hai mắt sáng lấp lánh mơ về niềm hạnh phúc tương lai.

Buổi sáng hôm sau khi Tràng thức dậy tâm trạng của hắn thực sự thay đổi. Niềm vui lâng lâng trong người khi hắn nhìn thấy nhà cửa dọn sạch sẽ tinh tươm. Mẹ hắn đang nhổ cỏ vườn. Vợ đang quét sân tiếng chổi vang lên đều đều. Bỗng nhiên, hắn cảm thấy yêu thương gắn bó với cái nhà của hắn một cách lạ lùng. Thế là từ đây hắn đã có một gia đình, hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Cái nhà sẽ trở thành nơi che mưa che nắng cho vợ chồng hắn. Một nguồn sung sướng và phấn chấn dâng lên trong lòng Tràng. Lúc này, Tràng cũng biết bổn phận của người đàn ông trong gia đình cần lo lắng cho vợ. Hắn cũng chạy xăm xăm ra giữa sân và tham dự vào một phần giúp tu sửa căn nhà. Chỉ trong một đoạn văn ngắn ngủi mà Kim Lân đã lột tả được tâm trạng của nhân vật Tràng. Từ bất ngờ, bỡ ngỡ cho đến hạnh phúc tột cùng khi biết mình đã có gia đình.

Thông qua đoạn trích trên ta thấy nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc của nhà văn Kim Lân. Với những ngôn từ mộc mạc, giản dị đậm chất nông thôn có thêm sự gia công sáng tạo của nhà văn. Cùng lối kể chuyện hấp dẫn sinh động giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về nhân vật anh cu Tràng. Một người nông dân tuy sống trong hoàn cảnh nghèo khó, khổ cực nhưng chưa bao giờ từ bỏ mơ ước về một cuộc sống hạnh phúc sau này. Đó chính là tư tưởng nhân đạo được nhà văn khéo léo lồng ghép vào trong tác phẩm.

Đề 7: Em hãy so sánh hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và nồi cháo cám trong Vợ nhặt

Bên cạnh dòng văn học lãng mạn, văn học hiện thực Việt Nam cũng đạt được những thành tựu rực rỡ, với những tác phẩm nổi tiếng. Trong số những ngôi sao của làng văn học hiện thực ta không thể không nhắc đến Nam Cao và Kim Lân. Nam Cao là cây bút hiện thực xuất sắc với tác phẩm nổi tiếng Chí Phèo – là kết tinh nghệ thuật trong đời văn ông. Còn Kim Lân có sở trường viết truyện ngắn về nông thôn và người nông dân với tác phẩm để đời Vợ nhặt. Ở cả hai tác phẩm này đều có những chi tiết nghệ thuật đặc sắc bát cháo hành [Chí Phèo], nồi cháo cám [Vợ nhặt] góp phần thể hiện tư tưởng cũng như tài năng nghệ thuật của hai tác giả.

Chi tiết bát cháo hành xuất hiện ở phần giữa của tác phẩm Chí Phèo. Chí Phèo sau khi đi uống rượu nhà Tư Lãng, trở về căn lều của mình, trên đường trở về hắn thấy khó chịu nên không về nhà ngay mà rẽ xuống sông tắm, ở đây hắn đã gặp thị Nở đang nằm ngủ cạnh bụi chuối. Dưới ánh trăng mờ ảo, khung cảnh hữu tình đã nảy nở tình yêu giữa thị Nở và Chí Phèo. Đến nửa đêm, Chí Phèo bị cảm, nôn thốc, nôn tháo, thị Nở là người đã dìu Chí vào lều, đắp cho manh chiếu và trở về nhà. Nhưng khi về đến nhà thị vẫn chưa yên tâm, bởi: Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc đừ, thương cho Chí chỉ có một thân một mình thị Nở quyết định sẽ nấu cháo mang cho Chí Phèo giải cảm. Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa, giàu giá trị biểu đạt.

Bát cháo là sự quan tâm, chăm sóc ân cần không vụ lợi toan tính của thị Nở dành cho Chí Phèo. Sau cái đêm ăn nằm với nhau thị cảm thấy mình có trách nhiệm phải quan tâm, giúp đỡ Chí Phèo. Nhưng sâu xa hơn, nó còn xuất phát từ tình yêu thương Thị dành cho Chí: Cái thằng liều lĩnh ấy kể ra cũng đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình. Đây mới là nguyên nhân gốc rễ dẫn đến hành động thị dành cho Chí. Không chỉ vậy, bát cháo hành đã khơi nguồn, nảy nở tình yêu đẹp đẽ giữa hai con người bất hạnh. Xét ở một khía cạnh nào đó, thị Nở cũng là kẻ bị gạt ra ngoài rìa của xã hội, không tìm được hạnh phúc, bởi vậy, nhờ có bát cháo hành mà thị đã thực sự được làm thiên chức của một người phụ nữ, được quan tâm chăm sóc cho người mình thương.

Không chỉ vậy, bát cháo tuy bé nhỏ về vật chất nhưng lại là niềm an ủi to lớn về tinh thần với Chí Phèo. Đây là tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận trong khi tất cả mọi người đều xa lánh, hắt hủi Chí. Đây cũng hương vị tình yêu, hạnh phúc muộn màng mà Chí được được duy nhất đón nhận một lần. Lần đầu tiên chí được chăm sóc bởi tay một người đàn bà. Bát cháo không chỉ giúp Chí giải cảm, vượt qua cái mệt mỏi về thể xác mà còn giúp Chí thanh lọc, giải độc về tâm hồn. Chí thấy vừa xúc động, vừa vui, vừa buồn vừa như là ăn năn. Nó giúp Chí suy nghĩ về tình trạng thê thảm của bản thân hiện tại khi bị tất cả mọi người ruồng rẫy, gạt ra bên ngoài cuộc sống. Xưa nay hắn chỉ sống bằng cướp giật, dọa nạt. Nếu không còn đủ sức mà cướp giật, dọa nạt nữa thì sao […] Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có lúc mà người ta không thể liều được nữa. Và trong Chí bùng lên khát khao được trở thành người lương thiện, muốn làm hòa với mọi người và thị Nở chính là người sẽ mở đường cho hắn. Như vậy, với Chí Phèo bát cháo hành đã đánh thức phần người, phần nhân tính mà bấy lâu nay bị phần con che lấp mất.

Chi tiết bát cháo hành cũng có giá trị lớn về mặt nghệ thuật. Với chi tiết này đã giúp bộc lộ tính cách nhân vật : Thị Nở yêu thương, quan tâm người khác vô điều kiện, Chí Phèo phục hồi phần nhân tính bị khuất lấp. Không chỉ vậy chi tiết này còn góp phần thúc đẩy truyện phát triển, tạo nên trình tự truyện hợp lí, tự nhiên. Qua đó thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao : tin vào sức mạnh của sự cảm hóa.

Cũng như chi tiết bát cháo hành, chi tiết nồi cháo cám trong Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân cũng chứa đựng nhiều giá trị sâu sắc. Chi tiết này xuất hiện vào cuối tác phẩm, trong bữa cơm đầu tiên khi cô vợ nhặt bước chân vào nhà anh cu Tràng. Miếng cháo cám đắng ngắt, nhưng họ vẫn lặng lẽ ăn và không ai nói với nhau câu nào nữa.

Trong nạn đói năm 1945, hàng nghìn người chết đói, thì nồi cháo cám đó có đắng chát cũng là phương tiện giúp gia đình Tràng xua tan cơn đói, đây cũng có thể coi là bữa tiệc trong ngày đón nàng dâu mới về. Điều đó đã cho thấy sự nghèo đói và cuộc sống cực khổ của nhân dân ta vào thời điểm năm 1945. Ý nghĩa hơn cả, chi tiết nồi cháo cám còn giúp bộc lộ tính cách nhân vật. Nồi cháo cám được bà cụ Tứ niềm nở bê ra, đã cho thấy đó là một người phụ nữ đảm đang, yêu thương con hết mực. Trong cuộc sống khổ cực như vậy, nhưng bà vẫn tìm mọi cách để đem đến niềm vui nhỏ bé cho đôi vợ chồng trẻ. Đối với người vợ nhặt, tính chao chát, chỏng lỏn đã biến đi đâu mất, thay vào đó là người phụ nữ điềm nhiên, bình tĩnh : người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Người con dâu ấy đã có sự thay đổi về tính nết, chấp nhận hoàn cảnh và trong cô cũng sẵn sàng để cùng gia đình nhỏ bé mới này vượt qua mọi khó khăn. Không chỉ vậy, nồi cháo cám còn là biểu tượng của tình người, của niềm tin và hi vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, họ vẫn không ngần ngại cưu mang thêm một người, sống trong sự đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Quanh nồi cháo cám, bà cụ Tứ nói những chuyện vui, tương lai tốt đẹp để khơi dậy vào cuộc sống mới đẹp đẽ hơn cho đôi vợ chồng trẻ.

Đây là hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc, nó là biểu tượng của tình người ấm áp, của tình yêu thương chân thành con người dành cho nhau trong hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn. Với mỗi chi tiết còn góp phần bộc lộ, sự thay đổi tính cách của nhân vật. Không chỉ vậy nó còn thể hiện bi kịch của con người trong xã hội cũ : Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người, bị xã hội đẩy ra bên lề. Còn cô vợ nhặt, số phận con người cũng trở nên rẻ mạt hơn. Qua các chi tiết này, cả hai tác giả đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, niềm tin vào sức mạnh của tình yêu thương có thể thay đổi, cảm hóa con người.

Bên cạnh những điểm giống nhau, các chi tiết nghệ thuật này cũng có những điểm khác biệt. Bát cháo hành là tình yêu thương chân thành, không toan tính thị Nở dành cho Chí Phèo khi tất cả xã hội đã cự tuyệt Chí, coi Chí như con quỷ và đẩy Chí Phèo vào bước đường cùng. Qua đó, giúp người đọc hình dung được bộ mặt bất nhân, tàn bạo của xã hội thực dân nửa phong kiến. Còn chi tiết bát cháo cám là biểu tượng không chỉ của tình yêu thương mà còn là niềm tin vào tương lai, hi vọng vào tương lai tốt đẹp, khi trong bữa cơm ấy họ bàn về chuyện Việt Minh. Đó là cái nhìn đầy lạc quan, tin tưởng của Kim Lân vào cuộc sống. Có sự khác biệt như vậy là do phong cách sáng tác của hai tác giả là khác nhau. Không chỉ vậy, yếu tố thời đại chi phối đến nhãn quan của mỗi nhà văn : Nam Cao bi quan, bế tắc, Kim Lân lạc quan, tin tưởng.

Qua những chi tiết nghệ thuật đặc sắc của hai nhà văn người đọc đã thấy được tấm lòng nhân đạo bao la của họ vào con người, luôn mang niềm tin tưởng vào sự cảm hóa qua tình yêu thương. Không chỉ vậy, với các chi tiết nghệ thuật này còn cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của họ.

Đề 8: Em hãy nêu suy nghĩ của mình về kết thúc của truyện Vợ nhặt

Mỗi câu truyện khép lại, là mở ra một thông điệp nhân văn, và là một bài học lớn mà mỗi cá nhân có thể tự đúc rút ra cho mình. Mỗi câu truyện sẽ có một quá trình sống riêng trong lòng người đọc, và truyện nào gây được tiếng vang và trụ vững với thời gian, ấy ắt hẳn là một tác phẩm hay. Ta không thể không nhắc đến điều đó khi nghĩ tới Vợ nhặt của Kim Lân. Một nhà văn tài hoa đã khắc họa lại rõ nét bối cảnh cuộc sống và bối cảnh tâm trạng của người dân lúc bấy giờ. Và hơn hết, ta ấn tượng với kết truyện của vợ nhặt, đã mở ra cho ta một suy nghĩ mới thật đẹp.

Kim Lân vốn là một nhà văn có sở trường viết truyện ngắn, chuyện ông viết chủ yếu là về người nông thôn và đời sống của những người nông dân nghèo khổ. Và đặc biệt với ngòi bút hồn hậu, thông minh và hóm hỉnh của mình. Kim Lân đã viết ra vợ nhặt, đứa con tinh thần đầy tính nhân văn đã thành công xuất sắc.

Ta còn nhớ kết thúc của truyện ngắn Chí Phèo, nếu như sau cái chết của Chí, Nam Cao đã để cho Thị Nở nhìn xuống bụng và xuất hiện hình ảnh cái lò gạch cũ, và đó chính là một quy luật của hành trình nối tiếp hành trình, một Chí Phèo bố chết đi ngay sau đó sẽ có một Chí Phèo con ra đời. Sự áp bức, lặp đi lặp lại của chế độ phong kiến hà khắc với những Bá Kiến tiếp tục nắm ngôi, những bà ba sẽ còn mãi và lại xuất hiện thêm những anh chí phèo không có lối thoát. Thì với kết thúc truyện đầy tính mở của mình, Kim Lân đã để lại một ý nghĩa, thông điệp khác hẳn với cái nhìn của Nam Cao.

Nếu như Nam Cao là nhà văn lúc bấy giờ chưa được soi sáng bởi lí tưởng cách mạng. Thì Kim Lân lại là nhà văn đã tiếp xúc với tư tưởng cách mạng và biết được lối thoát cho người nông dân. Đó cũng chính là một điểm mới của Kim Lân so với nhà văn thời trước.

Tràng, một anh chàng khờ khạo lại dở tính, là người đến sống nhờ ở một miền đất khác, gọi “sang” là người xóm ngụ cư. Anh chàng xấu xí này lại tự nhiên “vớ” được một cô vợ và đem về sống chung. Truyện là những chi tiết, tình huống hết sức bất ngờ và éo le, kể về hành trình chính của anh cu Tràng, và qua đó cũng là nổi bật lên vẻ đẹp của những nhân vật khác, như bà cụ Tứ mẹ của chàng và cô vợ mới của anh, cũng được xem là một người dâu hiền vợ thảo. Và tự nhiên ta cảm thấy Chàng thật may mắn làm sao, một chàng trai như vậy cuối cùng cũng đã lấy được vợ, tuy cuộc sống chẳng thể nào khá hơn khi nhà vừa nghèo, lại phải nuôi thêm một miệng ăn nữa. Nhưng qua đó Kim Lân đã cho ta thấy một tình người thật ấm áp làm sao, dù cuộc sống có bộn bề và những khó khăn nối tiếp khó khăn, con người ta vẫn dành cho nhau sự quan tâm sẻ chia, một thái độ tích cực tìm đến chân trời của hạnh phúc. Và không nơi đâu có thể giam hãm được nó, tiếng gọi của sự hạnh phúc gia đình.

Cuối truyện, Kim Lân đã kể cho ta nghe về cuộc nói chuyện của người con dâu với Tràng và bà cụ Tứ. Có lẽ Thị là người phụ nữ ngoài xã hội, Thị đến từ đâu ta cũng không rõ, Thị như một con người bị vứt vẩn vơ ngoài đường, thế nên thị mới hỏi: “Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?” và nhờ thông tin của mình, Thị kể: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc giang… người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy” và thật đúng là một tin quan trọng trong sự sống và cái chết của cái đói đang đe dọa. Chính nhờ điều này, đã khiến Tràng thầm nhớ tới cái hình ảnh “cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp.” rồi hắn tự nhiên thấy vẩn vơ, ân hận đâu đâu. Vậy hóa ra, là Việt Minh đã giúp người dân phá kho thóc của Nhật. Trong óc Tràng “vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…” vậy đấy, thật là một kết thúc mở, khẳng định ý nghĩa và niềm tin với cuộc sống. Vậy là dường như trong cái âm u của cuộc đời, cái u tối của kiếp người, đã có một mầm hy vọng nảy nở lên thật rồi. Dường như trong tương lai ta cũng có thể nhìn thấy hình ảnh anh Cu Tràng theo Việt Minh đi phá kho thóc của Nhật. Vậy là cuộc sống mới sẽ đến, và niềm tin sẽ đến, tương lai tươi sáng đang ở trước mặt họ. Kim Lân đã gieo vào lòng người một niềm tin và khát khao sống như thế đấy.

Hình ảnh kết thúc truyện, khi “trong óc tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” không chỉ mang một ý nghĩa nội dung mà còn khẳng định một ý nghĩa nghệ thuật độc đáo. Một xu hướng vận động tích cực được mở ra, dành thời gian để người đọc suy tưởng và phán đoán. Đã mang đến một âm hưởng lạc quan của cuộc đời, một trái tim ấm và nhen nhóm lên những mầm hy vọng tươi xanh.

Ý nghĩa của chi tiết kết thúc truyện thật độc đáo và ấn tượng. Từ đó truyện được mở ra một âm hưởng lạc quan và niềm tin tất thắng. Cảm ơn Kim Lân, và qua cách kết thúc truyện này ta còn biết rõ hơn về một nhà văn nhân đạo và tha thiết với con người là Kim Lân.

Chủ Đề