Các yếu tố nguy hiểm gây tai nạn lao động trong sản xuất có thể phân thành máy nhóm cơ bản

  • Khí hậu là trạng thái lý học của không khí trong khoảng không gian thu hẹp ở nơi làm việc bao gồm có các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm và các bức xạ nhiệt cùng tốc độ vận chuyển của không khí. Những yếu tố này cần phải đảm bảo giới hạn nhất định và phù hợp với sinh lý của con người.
  • Nhiệt độ cũng là yếu tố ảnh hưởng khá lớn đến sức khỏe lao động. Nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp hơn tiêu chuẩn cho phép sẽ làm suy nhược cơ thể làm tê liệt sự vận động. Do đó sẽ làm tăng mức độ nguy hiểm khi sử dụng máy móc thiết bị. Nhiệt độ nóng quá cao sẽ gây ra bệnh thần kinh, tim mạch, say nóng và nhiệt độ quá thấp sẽ khiến gây ra các bệnh về hô hấp và thấp khớp, cảm lạnh vv.
  • Yếu tố độ cao cũng khiến cho nhiệt độ dẫn và cách điện tăng và làm tăng nguy cơ nổ do bụi khí. Cơ thể sẽ khó bài tiết qua đường mồ hôi hơn.
  • Với các tốc độ gió, bức xạ nhiệt nếu cao hoặc thấp hơn tiêu chuẩn vệ sinh cho phép đều có ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động. Chúng sẽ khiến gây ra bệnh tật và giảm khả năng lao động của con người.

Lỗi tiếng ồn chính là phần âm thanh gây ra khó chịu cho con người phát sinh ra do sự chuyển động của các chi tiết hoặc bộ phận của máy do va chạm.

Trong điều kiện tiếng ồn kéo dài sẽ khiến phát sinh ra một số bệnh nghề nghiệp như điếc, viêm thần kinh thực vật và rối loạn cảm giác hoặc khả năng tập trung lao động sản xuất. Cơ thể người lao động trở nên mệt mỏi và hay cáu gắt kèm buồn ngủ. Ngoài ra việc tiếp xúc với tiếng ồn lâu sẽ khiến người lao động bị giảm thính lực và điếc.

Rung là hoạt động cơ học có ảnh hưởng lâu dài đến cơ thể của người lao động. Việc rung từng bộ phận có ảnh hưởng cục bộ xuất hiện ở cánh tay và ngón tay khi làm việc với cưa máy và búa máy, máy đánh bóng. Qúa trình làm việc bị rung nhiều và lâu sẽ khiến cho tay bị mất cảm giác và ngoài ra còn gây ảnh hưởng đến huyết quản của thần kinh cũng như khớp xương và cơ bắp về lâu dài.

Rung toàn thân thường xảy ra đối với những người làm việc trên phương tiện giao thông, máy hơi nước, máy nghiền... Chấn động làm co hệ thống huyết mạch, tăng huyết áp và nhịp đập tim. Tuỳ theo đặc tính chấn động tạo ra thay đổi ở từng vùng, từng bộ phận trên cơ thể người

Nguồn bức xạ: Một số nguồn bức xạ có thể kể đến như sau:

-Mặt trời phát ra các bức xạ hồng ngoại và tia tử ngoại.

-Hồ quang trong việc hàn cắt kim loại và nắn đúc thép phát ra bức xạ tử ngoài.

Với những người bị ảnh hưởng bởi các bức xạ như này có thể bị say nắng, giảm thị lực và gặp những hiện tượng như đau đầu, chóng mặt và giảm thị lực dẫn đến các tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.

Phóng xạ:

Đây là dạng đặc biệt của bức xạ: Chính tia phóng xạ pahts ra do sự biến đổi bên trong của hạt nhân nguyên tử ở một số nguyên tố và khả năng I ôn hóa vật chất. Những nguyên tố đó gọi là nguyên tố phóng xạ.

Những tia phóng xạ này gây ra tác hại đến cơ thể người lao động ở dạng: gây nhiễm độc cấp tính hoặc mãn tính. Biểu hiện là khiến rối loạn các chức năng của thần kinh trung ương, nơi bị chiếu phóng xạ thường bị bỏng hoặc rộp đỏ, vô sinh, ung thư và tử vong.

  1. Chiếu sáng không hợp lý [chói quá hoặc tối quá]

Việc chiếc sáng không đảm bảo sẽ làm tăng phế phẩm và giảm năng suất lao động một cách đáng kể. Chiếu sáng thích hợp góp phần bảo vệ thị lực, chống căng thẳng và mệt mỏi và tránh được các bệnh nghề nghiệp đồng thời làm tăng năng suất lao động.

Bụi là tập hợp của nhiều hạt có kích thước nhỏ bé tồn tại trong không khí, Nguy hiểm nhất có lẽ là bụi có kích thước từ 0,5 cho đến 5 micromet. Một khi công nhân, người lao động hít phải khí thải hoặc các loại bụi này sẽ có đến 80% lượng bụo đi vào phổi và làm tổn thương hoặc gây ra bụo phổi.

       - Bụi hữu cơ: nguồn gốc từ động vật, thực vật.

       - Bụi nhân tạo: nhựa, cao su...

       - Bụi kim loại: sắt, đồng ...

       - Bụi vô cơ: silic, amiăng ...

Mức độ nguy hiểm, có hại của bụi phụ thuộc vào tính chất lý học, hóa học của bụi. Bụi có thể gây cháy hoặc nổ ở nơi có điều kiện thích hợp; làm giảm khả năng cách điện của bộ phận cách điện, gây chập mạch; Gây mài mòn thiết bị trư­ớc thời hạn; Làm tổn th­ương cơ quan hô hấp xây sát, viêm kinh niên, tuỳ theo loại bụi có thể dẫn đến viêm phổi, ung thư phổi; Gây bệnh ngoài da; Gây tổn thương mắt.

      Bệnh bụi phổi phổ biến hiện nay bao gồm:

      + Bệnh bụi phổi silíc [Silicose] là do bụi silic, hiện nay ở nước ta có tỷ lệ rất cao chiếm khoảng 87% bệnh nghề nghiệp.

      + Bệnh bụi phổi Amiăng [Asbestose] do bụi Amiăng.

      + Bệnh bụi phổi than [Antracose] do bụi than.

      + Bệnh bụi phổi sắt [Siderose] do bụi sắt.

Hóa chất ngày càng được dùng nhiều trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản như:  Asen, Crụm, Benzen, rư­ợu, các khí bụi, các dung dịch axít, bazơ, kiềm, muối, các phế liệu, phế thải khó phân hủy.  Hóa chất độc có thể ở trong trạng thái rắn, lỏng, khí, bụi....tùy theo điều kiện nhiệt độ và áp suất.

  • Hóa chất độc có thể gây ảnh hưởng tới người lao động dưới dạng nhiễm độc cấp tính, nhiễm độc mạn tính. Hoá chất độc thường được phân loại thành các nhóm sau:

       Nhóm 1: Chất gây bỏng kích thích da như­ Axít đặc, Kiềm...

       Nhóm 2: Chất kích thích đường hô hấp  như  Clo, amoniắc, SO3,...

       Nhúm 3: Chất gây ngạt nh­ư  các oxít  các bon [CO2, CO], mê tan [CH4]...

       Nhóm 4: Tác dụng lên hệ thần kinh trung ương như H2S [mùi trứng thối] , xăng...

       Nhóm 5: Chất gây độc cho hệ thống cơ thể như  hyđrôcacbon các loại [gây độc cho nhiều cơ quan], benzen, phênol, chỡ, asen ....

Khi tiếp xúc với hóa chất độc, người lao động có thể bị nhiễm độc qua đường tiêu hóa, đường hô hấp hoặc qua da. Trong đó, theo đường hô hấp là nguy hiểm nhất và chiếm tới 95% trường hợp nhiễm độc. Chất độc thâm nhập vào cơ thể và tham gia cỏc quá trình sinh hoá có thể đổi thành chất không độc, nhưng cũng có thể biến thành chất độc hơn. Một số chất độc xâm nhập vào cơ thể và tích tụ lại. Chất độc cũng có thể đư­ợc thải ra khỏi cơ thể qua da, hơi thở, nước tiểu, mồ hôi, qua sữa... tùy theo tính chất của mỗi loại hóa chất.

  1. Các yếu tố vi sinh vật có hại

Một số nghề người lao động phải tiếp xúc với vi sinh vật gây bệnh, vi khuẩn, siêu vi khuẩn, ký sinh trựng, cụn trựng, nấm mốc như các nghề: chăn nuôi, sát sinh, chế biến thực phẩm, người làm vệ sinh đô thị, người làm lâm nghiệp, nông nghiệp, người phục vụ tại các bệnh viện, khu điều trị, điều dưỡng phục hồi chức năng, các nghĩa trang...

  1. Các yếu tố về cường độ lao động, tư thế lao động gò bó và đơn điệu trong lao động không phù hợp với hoạt động tâm sinh lý bình thường và nhân trắc của cơ thể người lao động trong lao động
  • Hiện nay việc áp dụng máy móc công nghệ hiện đại đã giải phóng sức lao động của con người khá nhiều tuy nhiên lại hướng về việc chuyên nghiệp hóa từng khâu trong quá trình sản xuất. Chính vì thế nảy sinh ra các vấn đề như cường độ làm việc quá mức vì phải làm theo ca, theo dây chuyền nên khôn thể làm trong thời gian dài. Một số ngành nghề chỉ làm đúng một tư thế gò bó trong một thời gian dài như ngửa người, vẹo người, treo người lên cao vv.
  • Điều kiện lao động trên gây nên những hạn chế cho hoạt động bình thường, gây trì trệ phát triển, gây hiện tượng tâm lý mệt mỏi, chán nản dẫn tới những biến đổi ức chế thần kinh, gây bệnh tâm lý mệt mỏi, uể oải, suy nhược thần kinh, đau mỏi cơ xương, có khi dẫn đến tai nạn lao động.

03/11/2020 1,684

Câu hỏi Đáp án và lời giải

Đáp án và lời giải

đáp án đúng: B

Nguyễn Hưng [Tổng hợp]

1. Phân nhóm các yếu tố nguy cơ

 Các yếu tố nguy hiểm gây tai nạn lao động rất đa dạng, tuy nhiên có thể chia thành 5 nhóm cơ bản.

 1.1. Nhóm yếu tố nguy hiểm cơ học gồm:

- Các bộ phận, cơ cấu truyền động [đai truyền, bánh răng, trục khuỷu…]

- Các bộ phận chuyển động quay với vận tốc lớn [đá mài, cưa đĩa, bánh đà, máy li tâm, trục máy tiện, máy khoan, trục cán ép…].

- Các mảnh dụng cụ, vật liệu gia công văng bắn [phoi, bụi vật liệu gia công hoặc các mảnh dụng cụ gẫy vỡ như: đá mài, dao cắt gọt lưỡi cưa…].

-Vật rơi từ trên cao, gẫy sập đổ các kết cấu công trình.

- Trơn, trượt, ngã…

 1.2. Nhóm yếu tố nguy hiểm về điện: Điện giật, bỏng điện, chập cháy nổ do điện, sét đánh…

 1.3. Nhóm yếu tố nguy hiểm về hóa chất [thể rắn, lỏng, khí và hơi]: gây nhiễm độ cấp tính [SO2, SO3, oxit cacbon: CO, CO2; oxit nitơ: NO2; hóa chất bảo vệ thực vật và các loại hóa chất độc hại khác thuộc danh mục phải khai báo, đăng ký] hoặc bỏng do hóa chất [độ 2, độ 3].

 1.4. Nhóm yếu tố nguy hiểm nổ: Nổ hóa học [nổ cháy xăng dầu, khí đốt, thuốc nổ..]; nổ vật lý [nổ nồi hơi, bình nén khí…].

2. Nguyên nhân gây tai nạn lao động

 2.1. Nhóm nguyên nhân kỹ thuật gồm:

- Bản thân nguyên lý hoạt động làm việc của máy móc, thiết bị đã chứa đựng các yếu tố nguy hiểm và các vùng nguy hiểm.

- Độ bền cơ-lý-hóa của kết cấu chi tiết máy không đảm bảo.

- Thiếu các thiết bị, cơ cấu che chắn an toàn.

- Thiếu cơ cấu phòng ngừa quá tải: phanh hãm, khóa liên động, thiết bị khống chế hành trình; van an toàn, áp kế, nhiệt kế, ống thủy…

- Không thực hiện nghiêm túc các quy định an toàn trong vận hành, sử dụng máy móc, thiết bị.

- Thiếu phương tiện cơ giới hóa hoặc tự động hóa trong những khâu lao động nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm.

- Sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân không thích hợp hoặc hư hỏng.

 2.2. Nhóm nguyên nhân về tổ chức sản xuất gồm:

- Tổ chức chỗ làm việc không hợp lý: không gian làm việc chật hẹp, vị trí tư thế thao tác gò bó, khó khăn…

- Bố trí mặt bằng sản xuất, đường đi lại, vận chuyển không an toàn: đường đi chật hẹp, gồ ghề…

- Bố trí sắp đặt máy móc thiết bị sai nguyên tắc an toàn, sự cố trên một máy có thể gây nguy hiểm cho các máy khác…

- Bảo quản thành phẩm, bán thành phẩm không đúng nguyên tắc an toàn: sắp xếp chi tiết thành chồng quá cao, để lẫn các hóa chất có thể phản ứng.

- Không cung cấp cho người lao động những phương tiện bảo vệ cá nhân đặc chủng, phù hợp.

- Tổ chức huấn luyện, giáo dục bảo hộ lao động không đạt yêu cầu: tổ chức huấn luyện không đúng định kỳ, thiếu nội quy an toàn vận hành thiết bị tại chỗ, làm việc  cho từng máy cũng như tranh ảnh, áp phích bảo hộ lao động trong phân xưởng sản xuất.

- Chiếu sáng chỗ làm việc không hợp lý, độ rọi thấp, phân bố độ rọi không đều gây chói lóa, sấp bóng…

- Tiếng ồn, rung động vượt tiêu chuẩn cho phép.

- Phương tiện bảo vệ cá nhân không đảm bảo các yêu cầu vệ sinh gây bất tiện cho người sử dụng.

[Nguồn: Nguyễn Thị Hồng Tú [2009], Hướng dẫn an toàn Vệ sinh lao động trong cộng đồng, Cục An toàn lao động, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội]

Video liên quan

Chủ Đề