Vì sao phát triển kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội

Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay

Ngày phát hành: 05/08/2020 Lượt xem 2434


1. Phát triển kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội - Một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam

Qua các giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đề ra những quan điểm, chủ trương đúng đắn để xử lý mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tư tưởng đó dần được hoàn thiện qua các kỳ đại hội, thể hiện trong các văn kiện của Đảng và được thể chế hóa trong các chính sách của Nhà nước.Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [Cương lĩnh 1991], quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội luôn rõ ràng, nhất quán và xuyên suốt. Tăng trưởng kinh tế là cở sở đảm bảo cho sự phát triển kinh tế- xã hội, theo đó phát triển kinh tế là kết quả tổng hợp của sự tăng trưởng. Tiến bộ và công bằng xã hội luôn là mục tiêu hướng tới, có mối quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện ở nhiều nội dung, tiêu chí trong đó lấy con người làm trung tâm.

Điều này được thể hiện tầm quan trọng và nội dung của mối quan hệ này, được Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung, phát triển và được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần trong Cương lĩnh [bổ sung, phát triển năm 2011], trong các văn kiện của Đại hội XI, XII và các Nghị quyết của Trung ương.

Một là, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đây là một trong 8 mối quan hệ lớn, đến dự thảo văn kiện Đại hội XIII xác định 10 mối quan hệ lớn được đặt ra, cần nắm vững và giải quyết trong quá trình thực hiện các phương hướng phát triển cơ bản, nhằm thực hiện thành công các mục tiêu được đặt ra, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011] đã khẳng định ''Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc''[1]. Chính sách đó gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế và nhất quán trong suốt thời kỳ quá độ, theo đó: “…kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[2].

Từ Đại hội VII, đến Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục làm rõ, thể hiện sự nhất quán về vấn đề này. Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”[3], đã định hướng nội dung, phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam trong tình hình mới. Điều đó phản ánh sâu sắc tư duy mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Xác định mục tiêu quan trọng đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững.

Hai là, xác định đây là một chủ trương lớn, nhất quán so với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã phát triển quan điểm: “Kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội” [Cương lĩnh năm 1991] thành “Kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách”; tiếp đó phát triển chủ trương “Khuyến khích tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động” [Cương lĩnh năm 1991] thành “Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá nghèo bền vững” và; Phát triển chủ trương “thiết lập một hệ thống đồng bộ và đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp xã hội” [Cương lĩnh năm 1991] thành “hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội”. Điểm nhất quán và xuyên suốt của chủ trương này là mỗi bước phát triển kinh tế đều phải gắn với thực hiện các chính sách xã hội, trực tiếp là phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, lấy phát triển kinh tế là điều kiện, coi tiến bộ và công bằng xã hội là mục tiêu hướng tới và đảm bảo đồng bộ trong các chính sách.

Ba là, Đảng và Nhà nước Việt Nam cho rằng, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội có quan hệ chặt chẽ với mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, cũng như đảm bảo quốc phòng và an ninh. Việt Nam luôn xác định tính nhất quán trong xây dựng và thực hiện các chính sách phù hợp với từng giai đoạn, giữa phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định xã hội với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không được coi nhẹ lĩnh vực nào. Phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng đòi hỏi phải có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững, có khả năng huy động các nguồn lực vật chất cho việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Chỉ có phát triển kinh tế nhanh và bền vững mới có cơ sở để giải quyết các vấn đề xây dựng quốc phòng, an ninh vững mạnh và giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra trong quá trình phát triển, cũng như thực hiện mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người, vì con người. Ngược lại, không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững nếu trong xã hội không có sự công bằng nhất định, đa số dân chúng sống nghèo khổ, thấp kém về trí tuệ, ốm yếu về thể chất, và một bộ phận đáng kể lao động lâm vào cảnh thất nghiệp, nghèo đói, bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Bên cạnh đó, do điều kiện lịch sử và bối cảnh mới của khu vực và thế giới, Việt Nam không thể bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ của mình, nhất là tình hình căng thẳng diễn ra thường xuyên ở Biển đông nếu như không có kinh tế phát triển.

Bốn là, quan điểm về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội của Việt Nam, cụ thể: “Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”, là hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới [phát triển bền vững và bao trùm], góp phần làm phong phú và sâu sắc hơn quan điểm về phát triển bền vững, phát triển bao trùm hiện đang được thảo luận nhiều trên thế giới cũng như tính xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường mà Việt Nam đang xây dựng và phát triển. Ở đây, cần phải thấy rằng, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển bao quát nhiều nội dung sâu sắc: i]. Đó là không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội cần được thực hiện trên phạm vi cả nước, ở mọi lĩnh vực, địa phương ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hay lâu dài.ii] Khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo, chăm sóc những người có công, những người không may gặp khó khăn, cơ nhỡ. Điều này vừa thể hiện đúng quy luật của sự phát triển lành mạnh, bền vững trong thời đại ngày nay, vừa nói lên mục đích, bản chất của xã hội ta. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này thì không thể nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là không hơn gì kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, càng không thể nói đến tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.iii] Tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội sẽ tạo ra động lực cho tăng trưởng kinh tế chứ không phải là gánh nặng kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội nhằm phát triển xã hội mà trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố con người. Tăng cường đầu tư cho con người là cơ sở để thực hiện tăng trưởng kinh tế bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội một cách có hiệu quả, thiết thực. Để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, hưởng thụ với cống hiến.

2. Một số kết quả chủ yếu trong giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam những năm qua

Thứ nhất, giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với văn hóa đã thu được nhiều kết quả quan trọng i]. Nhận thức về văn hóa và gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội của các cấp, ngành và toàn dân được nâng lên. Vai trò của văn hóa ngày càng thể hiện rõ trong việc xây dựng con người, có tác động to lớn trong đời sống xã hội. ii] Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện ngay từ chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư phát triển, hưởng thụ kết quả, coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển. iii]. Các nội dung phát triển văn hóa, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, được thể hiện cụ thể trong tất cả các hoạt động văn hóa, như: chiến lược phát triển gia đình Việt Nam; các địa phương đã lồng ghép việc giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình với các đợt tuyên truyền khác. iv]. Tiến bộ và công bằng xã hội được nâng lên rõ rệt nhờ tăng trưởng ổn định của nền kinh tế, thể hiện rõ ở các lĩnh vực hoạt động văn hóa. Chính sách văn hóa trong lĩnh vực bảo tồn, bảo tàng, di sản được tiếp tục hoàn thiện. Phát huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam.v]. phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được cụ thể hóa trong xây dựng thể chế, phát triển ngành, lĩnh vực văn hóa. Trong đó, phát triển công nghiệp vănhóađi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường vănhóa đã có những kết quả bước đầu, tích cực.

Thứ hai, trong những năm qua, thực hiện mục tiêu giảm bất bình đẳng, Việt Nam đã thực hiện một loạt các biện pháp, điển hình là Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020; Các chính sách khác như miễn giảm học phí cho trẻ em theo học ở các cơ sở giáo dục công lập; Chính sách hỗ trợ tiền ăn cho trẻ em từ 3-5 tuổi đi học mẫu giáo; Chính sách chăm sóc sức khỏe, cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi và một số nhóm trẻ em khác; Quyết định bỏ hộ khẩu và giấy tờ công dân trong thủ tục hành chính, thực hiện các quy định trong Luật Cư trú; Đề án hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội các dân tộc thiểu số rất ít người giai đoạn 2016-2025; Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017-2020; Đề án Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2018-2025… So sánh mức độ bất bình đẳng của Việt Nam và một số nước khác trên thế giới trong khoảng thời gian 10 gần đây, theo ngân hàng thế giới, mức độ bất bình đẳng thu nhập của Việt Nam thấp hơn mức trung bình của các nước trong cùng nhóm thu nhập trung bình thấp. Như vậy, sự phân phối thu nhập của Việt Nam vẫn trong ngưỡng khá an toàn so với các nước cùng khung thu nhập. Ngoài ra, sự bất bình đẳng về thu nhập tại Việt Nam cũng thấp hơn so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Maylaisia và Thái Lan, và cao hơn Hàn Quốc, một nền kinh tế phát triển của châu Á.

Thứ ba, để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, Việt Nam đã có một hệ thống các chính sách khá toàn diện, điển hình là Nghị quyết số 80/NQ-CP về Định hướng giảm nghèo bền vững cho giai đoạn 2011-2020; Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, Chiến lược phát triển Ngân hàng Chính sách xã hội giai đoạn 2011-2020, Chương trình Mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020… Việt Nam đã hoàn thành được Mục tiêu Thiên niên kỷ được đặt ra về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói. Xét theo cách tiếp cận nghèo đa chiều, tỷ lệ nghèo cũng giảm dần theo thời gian cùng với quá trình tăng trưởng. Tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều của Việt Nam cũng giảm từ 9,9% năm 2015 xuống 9,2% năm 2016 và xuống còn dưới 7% năm 2017; trong đó tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người nghèo cũng được cải thiện như: tiếp cận bảo hiểm y tế tăng 11,7%, sử dụng dịch vụ viễn thông tăng 5,2%. Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, được Liên Hiệp Quốc đánh giá là một trong các nước có thành tích giảm nghèo ấn tượng nhất trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ.

Thứ tư, những nỗ lực trong tạo việc làm ở Việt Nam trong thời gian qua được thể hiện ở việc thông qua và triển khai thực hiện các luật, các chiến lược quốc gia và chương trình phát triển quốc gia, điển hình là Luật Lao động; Luật Việc làm; Luật An toàn và vệ sinh lao động; Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ; Luật Quy hoạch; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050; Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020; Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chương trình khuyến công quốc gia đến năm 2020; Đề án Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Chiến lược Hội nhập quốc tế về lao động và xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược Phát triển thanh niên giai đoạn 2011-2020; Chương trình hợp tác quốc gia Việt Nam - ILO về việc làm bền vững giai đoạn 2017-2021; Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và; Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030…Cùng với quá trình tăng trưởng của nền kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm được giữ ở mức thấp và cùng có xu hướng giảm dần. Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 6,9% của năm 2001 xuống còn 2,2% của năm 2017; tỷ lệ thiếu việc làm giảm hơn một nửa, từ 5,1% năm 2008 xuống 1,6% tại 2017, trong đó chủ yếu là ở nông thôn.

Thứ năm, trong thời gian qua, Việt Nam đã có những nỗ lực rất mạnh mẽ trong việc đảm bảo bình đẳng giới thông qua các luật, chiến lược và chính sách về bình đẳng giới, điển hình là Hiến pháp; Luật Bình đẳng giới; Luật Lao động; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020; Đề án Phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn đến năm 2030; Chương trình hành động quốc gia Phòng chống bạo lực gia đình 2014-2020; Đề án Giảm thiểu tình trạng bạo lực gia đình tại khu vực nông thôn Việt Nam 2015-2020; Kế hoạch hàng năm thực hiện giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hônnhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số; Đề án Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2018-2025...

Cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, bình đẳng giới ở Việt Nam đã được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực từ chính trị cho tới kinh doanh và văn hoá-xã hội. Tỷ lệ phụ nữ Việt Nam tham gia vào Quốc hội nhiệm kỳ 2016-2021 đạt 26,72%, tăng hơn nhiệm kỳ trước tới 2,62%. Tỷ lệ đại biểu nữ tham gia vào Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tăng từ 21,57% trong nhiệm kỳ 1999-2004 lên 26,54%, cấp huyện đạt 27,85%, cấp xã cũng tăng mạnh lên 26,59% vào nhiệm kỳ nhiệm kỳ 2016-2021. Ngoài ra, tính đến hết tháng 8/2017, có 12/30 bộ, ngành có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, Việt Nam là một trong số các nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt trên 25%. Lần đầu tiên trong lịch sử Quốc hội Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội là nữ [Quốc hội khóa XIV].

Thứ sáu, phát triển con người được Việt Nam đặc biệt chú trọng thông qua giáo dục và đào tạo với việc xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Điều này được thể hệ thông qua hệ thống các luật, chiến lược và chính sách phát triển, điển hình là Luật Giáo dục; Luật Giáo dục nghề nghiệp; Luật Dạy nghề; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Chiến lược phát triển giáo dục 2011-202024; Chiến lược phát triển Dạy nghề thời kỳ 2011-2020; Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2011-2020; Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020Nghị định số 20/2014/NĐ-CP của Chính phủ về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ; Kế hoạch hành động về bình đẳng giới của ngành giáo dục giai đoạn 2016-2020; Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020; Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020; Đề án Xóa mù chữ đến năm 2025... Với mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục, tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên trên cả nước đã tăng rõ rệt qua các thập niên vừa qua và đến năm 2016 đạt 95%, tăng hơn 7% so với năm 1989. Điều này cho thấy sự chuyển biến tích cực trong việc thực hiện các chương trình về xóa mù chữ. Năm 2016, ước tính tỷ lệ nam giới biết chữ là 96,6% trong khi tỷ lệ này ở nữ giới đã lên tới 93,5% và dự kiến đến năm 2030, khoảng cách này sẽ càng thu hẹp. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cũng có xu hướng tăng đều qua các năm. Như vậy, tăng trưởng kinh tế đã được song hành với sự cải thiện về vốn con người trong thời gian qua.

3. Phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý xã hội ở Việt Nam

Phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội góp phần to lớn vào việc quản lý, phát triển xã hội. Nhờ kinh tế tăng trưởng nhanh, theo hướng bền vững, Đảng và Nhà nước Việt Nam có nhiều nguồn lực, điều kiện tốt hơn trong quản lý, phát triển xã hội, thể hiện trên một số vấn đề lớn sau:

- Kinh tế phát triển, lòng tin của nhân dân được nâng lên, góp phần quan trọng vào việc giữ ổn định xã hội, nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, tin tưởng vào chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia cụ thể hóa và tổ chức thực hiện, thúc đẩy trở lại tăng trưởng kinh tế.

- Kinh tế phát triển góp phần giảm các điểm nóng, xung đột xã hội, chính người dân chủ động tham gia bảo vệ sự ổn định xã hội, đấu tranh chống lại các phần tử cơ hội làm mất ổn định môi trường sống, kinh doanh, hình ảnh của đất nước đối với bên ngoài.

- Có điều kiện để Nhà nước thực hiện các chính sách bình đẳng giữa các dân tộc, giai tầng xã hội; giữa thành thị, nông thôn và vùng đồng bào dân tộc, miền núi; hạ tầng kinh tế, xã hội được đầu tư, quản lý nhà nước về đô thị, nông thôn, vùng dân tộc, miền núi được hoàn thiện theo hướng phù hợp, công bằng.

- Có điều kiện thực hiện chính sách an sinh xã hội cho các đối tượng tốt hơn, người dân được chăm lo đầy đủ hơn về đời sống vật chất, tinh thần; có điều kiện hơn về đảm bảo sự bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực, con người có điều kiện phát triển toàn diện. Thực tế việc giải quyết đại dịch Covid- 19 vừa qua cho thấy, nhờ có phát triển kinh tế, nhà nước Việt Nam có nhiều điều kiện hơn để chăm lo sức khỏe cho người dân, giữ vững ổn định xã hội.

- Kinh tế phát triển, Nhà nước có thêm nhiều nguồn lực để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; an ninh xã hội, an ninh con người. Do vậy, để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ này bền vững, cần phải nhất quán trong nhận thức và hành động, phải gắn ngay từ đầu, trong từng bước đi và từng chính sách phát triển.

Bối cảnh thế giới và trong nước thời gian tới có nhiều nhân tố tích cực và hạn chế, thời cơ và thách thức trong việc phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam. Quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, những thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã đặt ra nhiều vấn đề mới cho Việt Nam, phhats triển kinh tế, văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, mặt trái của quá trình toàn cầu hóa, kinh tế thị trường.... Do đó, trong thời gian tới, Việt Nam cần tập trung vào một số giải pháp sau đây:

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong điều kiện mới. Xác định tiến bộ và công bằng xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với phát triển kinh tế, kinh tế chỉ phát triển nhanh và bền vững khi coi trọng phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và đặt con người là trung tâm của sự phát triển.

Tiến bộ và công bằng xã hội cần được tập trung trong phát triển văn hóa, con người. Do đó, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, con người Việt Nam phát triển toàn diện. Xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức lành mạnh; ngăn chặn sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức; xây dựng các cơ chế, chính sách để gắn kết chặt chẽ xây dựng văn hóa với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội.

Hai là, tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội XII về phát triển kinh tế, văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thành các chính sách, pháp luật của Nhà nước, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị với phát triển văn hóa; khắc phục tình trạng chạy theo lợi ích kinh tế, không quan tâm đúng mức các giá trị văn hóa. Thực hiện tốt quan điểm kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Mỗi chính sách phát triển kinh tế phải hướng tới phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Quản lý phát triển xã hội phải tập trung vào việc xây dựng mô hình phát triển xã hội hợp lý, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.

Ba là, quan tâm, giải quyết tốt những mâu thuẫn trong quá trình phát triển, như: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế phát triển chưa cao, nguồn lực còn hạn chế; tăng trưởng kinh tế với xây dựng văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Kinh tế phát triển, đời sống vật chất của nhân dân được nâng lên, nhưng một số lĩnh vực văn hóa, giáo dục phát triển không tương xứng; giữa chủ trương phát triển, quản lý xã hội với việc tổ chức thực hiện; giữa yêu cầu phát triển xã hội, phát triển con người với thực trạng hạn chế về nguồn nhân lực; giữa thực tiễn thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội với công tác lý luận, định hướng phát triển.

Bốn là, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy sự phát triển. Quán triệt quan điểm tiến bộ và công bằng xã hội trong thực hiện chủ trương phát triển nguồn nhân lực trong các lĩnh vực quan trọng, đặc biệt là các khu vực còn nhiều khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, các dân tộc thiểu số. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là trong việc quản lý, phát triển xã hội. Cần có định hướng và những chính sách nhằm phát huy năng lực, bồi dưỡng chuyên môn và nâng cao trách nhiệm của cán bộ trong lĩnh vực này. Bố trí cán bộ chỉ đạo, quản lý xã hội đúng chuyên môn sở trường, có năng lực, kinh nghiệm. Thường xuyên có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

Năm là, xây dựng, củng cố, phát huy thiết chế xã hội các cấp trong việc gắn kết phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Các địa phương quan tâm đầu tư, phải dành quỹ đất và ưu tiên bố trí địa điểm cho việc xây dựng và mở rộng, phát triển hệ thống thiết chế xã hội các cấp, đồng thời thực hiện chủ trương xã hội hoá. Xây dựng, hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ phát triển xã hội, quyền tiếp cận bình đẳng của người dân và phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương.

Chính quyền các cấp đầu tư đúng mức cho lĩnh vực quản lý, phát triển xã hội,tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để nâng cao khả năng dự báo về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và định hướng phát triển; xây dựng con người Việt Nam toàn diện, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, góp phần phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

PGS.TS Phạm Văn Linh

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận TW


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, H, 2011, tr.79.

[2] Cương lĩnh [bổ sung và phát triển 2011].

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiệnĐại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, tr.299.

Vì sự tiến bộ, công bằng xã hội trong phát triển kinh tế

Chia sẻ:

02/07/2019 - 10:37:00


Trên cơ sở lý luận và từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa có bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam". Bài viết khái quát cao về nhận thức Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ thực tiễn Đổi mới của Việt Nam và từ những thành công của thế giới, kể cả những thất bại để khái quát và tìm ra được đường đi riêng, mô hình riêng cho Việt Nam.

  • Phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội - Bài 5: Khẳng định vị thế của Việt Nam trên đại lộ hội nhập

  • Phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội - Bài 4: Tạo động lực từ chính sách và hướng tới người dân

  • Phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội - Bài 3: Khi nông thôn đẹp về diện, mới về chất

  • Phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội - Bài 2: Phát huysức mạnhtoàn bộ lực lượng sản xuất

Để cụ thể hóa hơn về các kết quả đạt được trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, TTXVN giới thiệu chùm bài cung cấp các góc nhìn về thành tựu kinh tế đạt được trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam qua thực tiễn 35 năm Đổi mới.

Cảng Quốc tế Lạch Huyện tại hải Phòng là cảng biển nước sâu đầu tiên của khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc. Ảnh minh họa: Đức Nghĩa/TTXVN phát

Không ai bị bỏ lại phía sau

Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định:Chủ nghĩa xã hội[CNXH]là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hộilà yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.Những thành tựu kinh tế xã hội trong thực tiễn 35 năm đổi mới đã minh chứng cho việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích chính đáng của từng người dân, đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam, cũng như đã khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn là tất yếu và đúng đắn.Công cuộc Đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn cho đất nước trong 35 năm qua.

Trong bài viết: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đưa ra những nhận thức rất mới, sâu sắc về mặt lý luận, tổng kết thực tiễn đối với CNXH Việt Nam.Theo đó, CNXH ở Việt Nam phải là vì con người, vì cuộc sống của nhân dân chứ không phải vì lợi nhuận của một nhóm người nào. Tổng Bí thư cũng nhấn mạnh CNXH Việt Nam là xử lý đúng đắn các mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, chăm lo an sinh xã hội, đó là lợi ích của nhân dân.

Đánh giá về quá trình này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đãkhẳng định “xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây”. Rõ ràng “phát triển theo định hướng XHCN không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản có cùng mức phát triển kinh tế”.

Thực tiễn 35 năm Đổi mới ở Việt Nam cho thấy, đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.

Điều đó có nghĩa là Việt Nam không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không "hy sinh" tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỉ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều [tiêu chí cao hơn trước]. Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người [HDI] của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Đánh giá của Tổng Bí thư khi nói về những thành tựu của thực tiễn 35 năm Đổi mới đã minh chứng cho việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích chính đáng của từng người dân, vì nó đã “… đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm…; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”.

Xét trên nhiều phương diện, có thể thấy, “người dân Việt Nam ngày càng có điều kiện sống tốt hơn so với bất kỳ thời kỳ nào trước đây”. Trong đại dịch COVID-19, những thành công đạt được trong việc hỗ trợ người dân chăm lo sức khỏe, phát triển kinh tế, ổn định đời sống đã minh chứng ở Việt Nam “không ai bị bỏ lại phía sau”. Việt Nam không chỉ tăng trưởng kinh tế mà còn giải quyết được nhiều vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế.

Tổng Bí thư xác định: "Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm"; "xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm"; "Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”…

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Hồ Trọng Hoài, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách xã hội [CNXH] khoa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng,trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, người dân được quan tâm; các nhóm xã hội yếu thế, người nghèo được quan tâm chăm sóc; sự phân hóa xã hội được kiềm chế, sự tước đoạt tự nhiên được giảm thiểu. Đây là một mô hình, cách thức tổ chức kinh tế rất sáng tạo, mới mẻ, là kết quả quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH.

Đây chính là sự cụ thể hóaCương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 [Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội], Nghị quyết các kỳ Đại hội; thể hiện rõ tính nhân văn của CNXH; là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội; là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi, dù thế giới có đổi thay.

Theo PGS.TS Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng,tính ưu việt của CNXH đã được Tổng Bí thư chỉ ra là một xã hội của dân, do dân và vì dân, Đảng ta không có 1 lợi ích gì cả ngoài lợi ích phục vụ nhân dân. Và Đảng mong muốn nhân dân vào cuộc với Đảng, dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra.

Mặc dù, vẫn còn những hạn chế, thách thức trong giải quyết hài hòa lợi ích quốc gia với lợi ích chính đáng của từng cá nhân, nhưng với những kết quả đạt được trên thực tế trong những năm qua ở Việt Nam, chúng ta hoàn toàn tin tưởng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội hướng tới các giá trị đích thực vì con người.

Dấu ấn hoàn thiện thể chế

Bà con nông dân xã Thạnh Lợi, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp thu hoạch lúa Đông Xuân. Ảnh: TTXVN

Qua các giai đoạn phát triển của đất nước, nhất là qua công cuộc Đổi mới, đánh dấu vai trò lãnh đạo của Đảng, ghi nhận những sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong hoàn thiện thể chế và vai trò lãnh đạo của Đảng.

Nhắc đến vai trò lãnh đạo của Đảng, không thể không nhắc đến sự lãnh đạo linh hoạt trong mỗi giai đoạn, hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Đảng cũng thẳng thẳn thừa nhận những sai lầm vấp phải và áp dụng linh hoạt, sáng tạo các đường lối, chính sách phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể của Việt Nam.

Dũng cảm nhận ra sự thật của những vấp váp của việc thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch tập trung trước năm 1986, Đảng đã thừa nhận và khắc phục những khuyết điểm ấy. Đảng và Nhà nước tập trung triệt để đổi mới cơ chế quản lý và các chính sách kinh tế. Điểm căn bản là chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hành chính, bao cấp, kinh tế hiện vật, khép kín sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Có thể nói, đó là bước khởi đầu quan trọng trong việc chuyển đổi tư duy kinh tế của Đảng sang hướng xây dựng, phát triển kinh tế thị trường. Việc xem đổi mới, trước hết phải đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, qua thực tiễn cho thấy đây là cách tiếp cận chính xác - khoa học của Đảng ta, là khâu đột phá về nhận thức luận, phương pháp luận của chủ thể lãnh đạo công cuộc đổi mới.

Nắm vững phép biện chứng duy vật, biết kế thừa những thành tựu của nhân loại trong tiến trình phát triển, biết sử dụng những hình thức trung gian quá độ để tìm ra những hình thức, bước đi phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa của dân tộc mình, Đảng đã tạo lập và hoàn thiện dần mô hình phát triển mới; đồng thời tìm được những phương thức huy động các nguồn lực để từng bước hiện thực hóa mô hình đó.

Theo tinh thần đó, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, để làm tròn vai trò nhân tố lãnh đạo, đòi hỏi Đảng phải giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan đến việc xác lập một mô hình phát triển và triển khai có hiệu lực, hiệu quả mô hình trong thực tiễn.

Đảng coi nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm và đã thành công trong lãnh đạo kinh tế. Đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội [1996], nền kinh tế phát triển vững chắc vượt qua tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ của khu vực [1997-2000], hạn chế thấp nhất ảnh hưởng xấu của khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008…

Có thể nói, hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN luôn được Ðảng ta quan tâm đặc biệt. Kể từ Ðại hội IX của Ðảng tháng 4/2001, Ðảng ta đã khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và kể từ đó đến nay vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được đặt ra cấp bách trong các Ðại hội X, XI, XII, XIII của Ðảng.

Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội.

Sự linh hoạt và sáng tạo trong các đường lối lãnh đạo của Đảng không chỉ thể hiện ở các đường lối vĩ mô, mà ở mỗi giai đoạn, mỗi một tình huống cụ thể.

Cụ thể hơn, trong giai đoạn hiện nay, trước những diễn biến phức tạp của dịch COVID-19, Đảng cũng đã tích cực chủ động chỉ đạo sát sao để ngăn chặn dịch bệnh. Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo các cấp, các ngành nắm chắc tình hình, diễn biến, kịp thời có những giải pháp hiệu quả phòng, chống dịch bệnh. Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường trực Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo, huy động sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị, sự tham gia của toàn dân.

Đảng cũng chỉ đạo việc xây dựng các kịch bản phát triển kinh tế, xã hội phù hợp với tình hình dịch bệnh; có kế hoạch tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các ngành bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống của nhân dân. Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt "chống dịch như chống giặc", kiên định thực hiện mục tiêu kép phòng, chống dịch hiệu quả đồng thời phát triển kinh tế, chăm lo đời sống, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, đã huy động được sự vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Đến nay, dịch bệnh tuy còn diễn biến phức tạp nhưng cơ bản được kiểm soát, Việt Nam được đánh giá là một trong các quốc gia phòng, chống dịch hiệu quả trên thế giới. Kinh tế - xã hội tiếp tục đạt kết quả tích cực, an sinh xã hội được bảo đảm, quốc phòng, an ninh được giữ vững, quan hệ đối ngoại tiếp tục được tăng cường. Đó là minh chứng cụ thể cho thấy sự lãnh đạo sát sao, linh hoạt trong mọi tình huống để đạt kết quả cao nhất.

Những thành công trên là những minh chứng cho sự đúng đắn và sáng tạo trong đường lối lãnh đạo của Đảng. Như tinh thần của Tổng Bí thư trong bài viết: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta…”

Kiên định và không thay đổi

Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng TổngBí thư Nguyễn Phú Trọng cũng khẳng định:Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định Đảng ta nhận thức rằng hiện nay Việt Namđang trong quá trình xây dựng, quá độ lên CNXH. TổngBí thư cho rằng, “…đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển”.

Phát triển kinh tế tri thức, tận dụng thành quả của cuộc cách mạngCông nghiệp lầnthứ tư; đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, đầu tư hoàn thiện hạ tầng… Đó là những giảiphápmà TổngBí thư cũng đã chỉ ra để ViệtNamcó thể hoàn thiện kinh tế thị trường, định hướng XHCN. Trong bối cảnh hiện nay, chỉ có như vậy mới có thể đưa đất nước phát triển, đi lên, không có sự lựa chọn khác.

Đi lên CNXH là khát vọng của Nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Với những thành tựu to lớn và quan trọng sau 35 năm Đổi mới, con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng được xác định rõ hơn, góp phần khẳng định tính hiện thực của chân lý độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong thời đại ngày nay.

Bài 2:Kinh tế nhiều thành phần: Phát huysức mạnhtoàn bộ lực lượng sản xuất

Quốc Huy [TTXVN]
Phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội - Bài 6: Bệ đỡ cho mọi khát vọng 'bay' lên

Nhìn lại hành trình 35 năm đổi mới và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của Việt Nam do Đảng khởi xướng và lãnh đạo có thể viết nên câu chuyện "thoát nghèo" của dân tộc.

Chia sẻ:
Từ khóa:
  • Phát triển kinh tế,
  • Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng,
  • chủ nghĩa xã hội,
  • thành tựu kinh tế,
  • nền kinh tế thị trường,
  • lực lượng sản xuất,
  • mô hình kinh tế,

Video liên quan

Chủ Đề