12 thg 5, 2022 07:29+00:00
Europa LeagueManchester UnitedMilan vs Manchester UnitedMilan
11 cầu thủ trong đội hình Man Utd lên ngôi ở Europa League 5 năm trước nay chỉ còn 3 người còn gắn bó với đội chủ sân Old Trafford.
Chiếc cúp Europa League 2017 là lần gần nhất MU giành danh hiệu ở đấu trường châu Âu. Dàn cầu thủ do HLV Jose Mourinho dẫn dắt năm đó cũng lần lượt rời đi để tìm kiếm thử thách mới. Cùng GOAL nhìn lại 11 cái tên góp mặt trong trận chung kết của năm 2017 đã phát triển như thế nào.
Romero là sự lựa chọn thứ 2 rất đáng tin cậy ở thời điểm đó. Trong trận chung kết với Ajax, thủ thành người Argentina đã có màn thể hiện xuất sắc. Đây cũng là 1 trong 8 lần anh giữ sạch lưới cho MU ở Europa League mùa 2016/17.
Trong những năm qua, anh vẫn là "kép phụ" cho David de Gea. Đến mùa giải 2020/21, khi Dean Henderson trở lại Old Trafford, Người gác đền này không còn được trọng dụng và đã bị loại khỏi danh sách tham dự Ngoại hạng Anh và cả Champions League/ Europa League.
Một năm sau, anh phải rời đi và gia nhập Venezia của Italia.
Valencia gắn bó với MU suốt 10 năm, từ 2009 đến 2019 và cùng đội bóng giành được 2 chức vô địch Ngoại hạng Anh và 1 Europa League.
Sau khi bị "thất sủng" dưới thời HLV Solskjaer, cựu đội trưởng Quỷ đỏ rời đi sau tổng cộng 339 lần ra sân. Anh gia nhập LDU Quito ở quê nhà Ecuador.
Cuối năm 2020, Valencia ra đi theo dạng tự do. Anh chuyển đến CLB Queretaro của Mexico và thi đấu tại đây với bản hợp đồng có thời hạn 1 năm trước khi giải nghệ.
Smalling trở thành người thừa khi Victor Lindelof và Harry Maguire đến MU. Anh không còn nằm trong kế hoạch của HLV Solskjaer và được đem đi cho mượn ở AS Roma. Tại đây, anh thể hiện phong độ ấn tượng và được CLB này mua đứt vào mùa Hè 2020.
Blind từng là một trong những trụ cột quan trọng của hàng thủ MU. Thế nhưng, việc phong độ đi xuống dần khiến cầu thủ người Hà Lan đánh mất niềm tin nơi BHL. Đến năm 2018, anh nói lời chia tay sân Old Trafford để trở về Ajax với bản hợp đồng có thời hạn 4 năm
Tại đây, hậu vệ này nhanh chóng chiếm được suất đá chính và lấy lại phong độ. Blind cũng trở thành một trụ cột của đội tuyển Hà Lan dưới thời HLV Ronald Koeman và Frank de Boer.
Ngay sau khi kết thúc mùa giải 2016/17 thành công, Darmian đã không còn nằm trong kế hoạch của HLV Mourinho và phải ngồi dự bị trong một thời gian dài.
Kế hoạch chia tay MU bị trì hoãn cho tới năm 2019, Darmian mới có thể gia nhập Parma. Đầu mùa 2020/21, anh chuyển đến Inter Milan dưới dạng cho mượn rồi được CLB này mua đứt.
Mata - bản hợp đồng thời David Moyes vẫn đang tiếp tục gắn bó với đội chủ sân Old Trafford. Tuy nhiên, ở mùa giải 2020/21, anh không còn được tin tưởng ra sân thường xuyên.
Juventus, AS Roma và Inter Milan đều đang quan tâm đến Mata. Tuy nhiên, tiền vệ người Tây Ban Nha và MU quyết định gia hạn hợp đồng thêm một năm, đến mùa hè 2022.
Không đạt được thỏa thuận gia hạn vào năm 2019, cầu thủ người Tây Ban Nha đã quyết định ra đi theo dạng chuyển nhượng tự do và gia nhập PSG.
Sau năm 2020 chật vật với hàng loạt chấn thương, Herrera dần được trọng dụng ở PSG.
Pogba được MU mua về với phí chuyển nhượng kỷ lục. Đẳng cấp của tiền vệ người Pháp là điều không cần phải bàn cãi. Tuy nhiên, anh thường xuyên gặp vấn đề với các chấn thương và những câu chuyện trong phòng thay đồ.
Lúc này, chuyện đi hay ở của Pogba cũng đang là vấn đề tốn nhiều giấy mực suốt thời gian qua. Anh được cho là sẽ rời MU ngay trong mùa hè năm 2022.
Cầu thủ người Bỉ là một trong những cầu thủ yêu thích của HLV Jose Mourinho, nhưng sau khi "Người đặc biệt" bị sa thải, cơ hội ra sân của Fellaini cũng dần bị hạn chế. Dưới thời HLV Solskjaer, anh gần như chỉ ngồi dự bị.
Đầu năm 2019, Fellaini gia nhập CLB Shandong Luneng của Trung Quốc.
Cựu sao Dortmund đã kết thúc mùa giải 2016/17 một cách hoàn hảo khi ghi bàn thắng ấn định tỉ số 2-0 cho MU trước Ajax. Tuy nhiên, phong độ thất thường khiến Mkhitaryan bị loại khỏi đội hình của Quỷ đỏ trong mùa giải tiếp theo.
Sau đó, anh gia nhập Arsenal rồi bị mang cho mượn ở AS Roma. Mùa hè năm 2020, đội bóng Serie A quyết định mua đứt cầu thủ này.
Thời điểm đó, Rashford vẫn chưa là một tiền đạo chủ chốt như vai trò hiện nay của anh dưới thời HLV Solskjaer. Chân sút 23 tuổi tiến bộ qua từng mùa giải và cho thấy tầm quan trọng của mình trong lối chơi của Quỷ đỏ.
Mùa giải 2020/21, Rashford đã ra sân 44 trận và ghi được 18 bàn thắng cùng 12 kiến tạo, là nhân tố không thể thiếu đưa MU gặt hái được nhiều thành tích khả quan tại lúc đó. Không may cho Rashford là sau khi sút hỏng quả luân lưu ở trận chung kết EURO 2020, anh lại phải nghỉ thi đấu dài hạn vì chấn thương vai.
Lúc này, Rashford đang xuống phong độ thê thảm và dần mất vị trí tại MU.
Dưới đây là danh sách những CLB vô địch châu Âu kể từ mùa giải 1955/56 [trước khi giải đấu đổi tên thành Champions League] đến năm 2021.
Mùa giải 2020/21 là lần đầu tiên trong lịch sử Manchester City bước vào tới trận chung kết Champions League. Còn đối với Chelsea, cũng đã 9 năm trôi qua, đại diện của London mới có cơ hội xuất hiện trở lại tại trận đấu cuối cùng. Chính vì vậy, trên SVĐ Dragao, hai đội bóng đã nỗ lực cống hiến tất cả những gì tinh túy nhất.
HLV Pep Guardiola gây bất ngờ khi mạo hiểm cất cả Rodri và Fernandinho trên băng ghế dự bị trong trận đấu quan trọng nhất mùa giải. Thi đấu mà không có một tiền vệ phòng ngự đúng nghĩa nào, vị chiến lược gia người Tây Ban Nha đã phải trả giá đắt.
Chelsea rõ ràng là những người có màn ttrình diễn tốt hơn trong trận chung kết toàn Anh. Bàn thắng duy nhất của Kai Havertz ở phút 42 đã giúp The Blues trở thành nhà vua mới của châu Âu. Đây cũng là lần thứ hai đại diện đến từ London bước lên ngôi tại giải đấu cấp cao nhất lục địa già.
Đọc tiếp bài viết ở dưới
Tuy nhiên, các đội bóng đến từ Tây Ban Nha mới nắm giữ thành tích đáng ngưỡng mộ nhất trong suốt chiều dài lịch sử của giải đấu.
Ngay bây giờ, hãy cùng GOAL tìm hiểu về danh sách tất cả đội bóng từng vô địch C1/Champions League!
Danh sách các đội bóng vô địch C1/Champions League [1956-2019]
Real Madrid | 4–3 | Stade de Reims | Parc des Princes, Paris | 38.239 | |
Real Madrid | 2–0 | Fiorentina | Santiago Bernabeu, Madrid | 124.000 | |
Real Madrid | 3-2 [hiệp phụ] | AC Milan | Heysel, Brussels | 67.000 | |
Real Madrid | 2–0 | Stade de Reims | Neckarstadion, Stuttgart | 80.000 | |
Real Madrid | 7–3 | Eintracht Frankfurt | Hampden, Glasgow | 127.621 | |
Benfica | 3–2 | Barcelona | Wankdorf, Bern | 33.000 | |
Benfica | 5–3 | Real Madrid | Olympisch Stadion, Amsterdam | 65.000 | |
AC Milan | 2–1 | Benfica | Wembley, London | 45.700 | |
Internazionale | 3–1 | Real Madrid | Prater, Vienna | 72.000 | |
Internazionale | 1–0 | Benfica | San Siro, Milan | 85.000 | |
Real Madrid | 2–1 | Partizan | Heysel, Brussels | 55.000 | |
Celtic | 2–1 | Internazionale | Estádio Nacional, Lisbon | 56.000 | |
Manchester United | 4–1 [hiệp phụ] | Benfica | Wembley, London | 92.225 | |
AC Milan | 4–1 | Ajax | Santiago Bernabeu, Madrid | 50.000 | |
Feyenoord | 2–1 [hiệp phụ] | Celtic | San Siro, Milan | 50.000 | |
Ajax | 2–0 | Panathinaikos | Wembley, London | 90.000 | |
Ajax | 2–0 | Internazioanle | De Kuip, Rotterdam | 67.000 | |
Ajax | 1–0 | Juventus | Red Star, Belgrade | 93.500 | |
Bayern Munich | 4–0 | Atlético Madrid | Heysel, Brussels | 23.000 | |
Đá lại sau khi trận đầu tiên kết thúc với tỷ số hòa 1-1 | |||||
Bayern Munich | 2–0 | Leeds United | Parc des Princes, Paris | 50.000 | |
Bayern Munich | 1–0 | AS Saint-Étienne | Hampden Park, Glasgow | 54.864 | |
Liverpool | 3–1 | Borussia Mönchengladbach | Olimpico, Rome | 52.000 | |
Liverpool | 1–0 | Club Brugge | Wembley, London | 92.000 | |
Nottingham Forest | 1–0 | Malmö FF | Olympiastadion, Munich | 57.000 | |
Nottingham Forest | 1–0 | Hamburg | Santiago Bernabeu, Madrid | 50.000 | |
Liverpool | 1–0 | Real Madrid | Parc des Princes, Paris | 48.360 | |
Aston Villa | 1–0 | Bayern München | De Kuip, Rotterdam | 46.000 | |
Hamburg | 1–0 | Juventus | Olympic, Athens | 75.000 | |
Liverpool | 1–1 | AS Roma | Olimpico, Rome | 69.693 | |
[Pen 4-2] | |||||
Juventus | 1–0 | Liverpool | Heysel, Brussels | 59.000 | |
Steaua București | 0–0 | Barcelona | Ramón Sánchez Pizjuán, Seville | 70.000 | |
[Pen 2-0] | |||||
FC Porto | 2–1 | Bayern München | Prater, Vienna | 62.000 | |
PSV Eindhoven | 0–0 | Benfica | Neckarstadion, Stuttgart | 70.000 | |
[Pen 6-5] | |||||
AC Milan | 4–0 | Steaua București | Camp Nou, Barcelona | 97.000 | |
AC Milan | 1–0 | Benfica | Prater, Vienna | 57.500 | |
Red Star Belgrade | 0–0 | Olympique de Marseille | San Nicola, Bari | 56.000 | |
[Pen 5-3] | |||||
Barcelona | 1–0 [hiệp phụ] | Sampdoria | Wembley, London | 70.827 | |
Olympique de Marseille | 1–0 | AC Milan | Olympiastadion, Munich | 64.400 | |
AC Milan | 4–0 | Barcelona | Olympic, Athens | 70.000 | |
Ajax | 1–0 | AC Milan | Ernst Happel, Vienna | 49.730 | |
Juventus | 1–1 | Ajax | Olimpico, Rome | 67.000 | |
[Pen 4-2] | |||||
Borussia Dortmund | 3–1 | Juventus | Olympiastadion, Munich | 59.000 | |
Real Madrid | 1–0 | Juventus | Amsterdam, Amsterdam | 48.500 | |
Manchester United | 2–1 | Bayern Munich | Camp Nou, Barcelona | 90.045 | |
Real Madrid | 3–0 | Valencia | Stade de France, Saint-Denis | 78.759 | |
Bayern Munich | 1–1 | Valencia | San Siro, Milan | 71.500 | |
[Pen 5-4] | |||||
Real Madrid | 2–1 | Bayer Leverkusen | Hampden, Glasgow | 52.000 | |
AC Milan | 0–0 | Juventus | Old Trafford, Manchester | 63.215 | |
[Pen 3-2] | |||||
FC Porto | 3–0 | AS Monaco | AufSchalke, Gelsenkirchen | 52.000 | |
Liverpool | 3–3 | AC Milan | Atatürk Olympic, Istanbul | 70.024 | |
[Pen 3-2] | |||||
Barcelona | 2–1 | Arsenal | Stade de France, Saint-Denis | 79.500 | |
AC Milan | 2–1 | Liverpool | Olympic, Athens | 74.000 | |
Manchester United | 1–1 | Chelsea | Luzhniki, Moscow | 67.310 | |
[Pen 6-5] | |||||
Barcelona | 2–0 | Manchester United | Olimpico, Rome | 62.467 | |
Internazionale | 2–0 | Bayern Munich | Santiago Bernabeu, Madrid | 73.170 | |
Barcelona | 3–1 | Manchester United | Wembley, London | 87.695 | |
Chelsea | 1-1 | Bayern Munich | Allianz, Munich | 62.500 | |
[Pen 4-3] | |||||
Bayern Munich | 2-1 | Borussia Dortmund | Wembley, London | 86.298 | |
Real Madrid | 4-1 [hiệp phụ] | Atlético Madrid | Estadio da Luz, Lisbon | 80.000 | |
Barcelona | 3-1 | Juventus | Olympiastadion, Berlin | 70.442 | |
Real Madrid | 1-1 | Atlético Madrid | San Siro, Milan | 71.942 | |
[Pen 5-3] | |||||
2016-17 | Real Madrid | 4-1 | Juventus | Thiên niên kỷ, Cardiff | 65.842 |
2017-18 | R eal Madrid | 3-1 | L iverpool | Olympisky, Kiev | 61.561 |
2018-19 | Liverpool | 2-0 | Tottenham Hotspur | Metropolitano, Madrid | 63.272 |
2019-20 | Bayern Munich | 1-0 | Paris Saint-Germain | Estadio da Luz. Lisbon | Không khán giả |
2020-21 | Chelsea | 1-0 | Manchester City | Dragao, Porto | 6000 |
CLB nào giữ kỷ lục về số lần vô địch C1/Champions League?
Đội bóng Hoàng gia Tây Ban Nha, Real Madrid đang nắm giữ kỷ lục về số lần lên ngôi tại giải đấu này. Ba chức vô địch liên tiếp vào các năm 2016, 2017, 2018 đã nâng số cúp trong phòng truyền thống của họ lên thành 13.
AC Milan chính là đội bóng giàu truyền thống thứ nhì tại giải đấu này. Trong thời kỳ đỉnh cao, đội bóng đến từ Italia cũng đã có 7 lần trở thành nhà vô địch châu Âu. Tuy nhiên, lần gần nhất họ được vinh danh là từ năm 2007 – cách đây hơn một thập kỷ.
13 | 3 | 1956, 1957, 1958, 1959, 1960, 1966, 1998, 2000, 2002, 2014, 2016, 2017, 2018 | 1962, 1964, 1981 |
7 | 4 | 1963, 1969, 1989, 1990, 1994, 2003, 2007 | 1958, 1993, 1995, 2005 |
6 | 3 | 1977, 1978, 1981, 1984, 2005, 2019 | 1985, 2007, 2018 |
6 | 5 | 1974, 1975, 1976, 2001, 2013, 2020 | 1982, 1987, 1999, 2010, 2012 |
5 | 3 | 1992, 2006, 2009, 2011, 2015 | 1961, 1986, 1994 |
4 | 2 | 1971, 1972, 1973, 1995 | 1969, 1996 |
3 | 2 | 1964, 1965, 2010 | 1967, 1972 |
3 | 2 | 1968, 1999, 2008 | 2009, 2011 |
2 | 7 | 1985, 1996 | 1973, 1983, 1997, 1998, 2003, 2015, 2017 |
2 | 5 | 1961, 1962 | 1963, 1965, 1968, 1988, 1990 |
2 | 1 | 2012, 2021 | 2008 |
2 | 0 | 1979, 1980 | |
2 | 0 | 1987, 2004 | |
1 | 1 | 1997 | 2013 |
1 | 1 | 1967 | 1970 |
1 | 1 | 1983 | 1980 |
1 | 1 | 1986 | 1989 |
1 | 1 | 1993 | 1991 |
1 | 0 | 1970 | |
1 | 0 | 1982 | |
1 | 0 | 1988 | |
1 | 0 | 1991 | |
0 | 3 | 1974, 2014, 2016 | |
0 | 2 | 1956, 1959 | |
0 | 2 | 2000, 2001 | |
0 | 1 | 1957 | |
0 | 1 | 1960 | |
0 | 1 | 1966 | |
0 | 1 | 1971 | |
0 | 1 | 1975 | |
0 | 1 | 1976 | |
0 | 1 | 1977 | |
0 | 1 | 1978 | |
0 | 1 | 1979 | |
0 | 1 | 1984 | |
0 | 1 | 1992 | |
0 | 1 | 2002 | |
0 | 1 | 2004 | |
0 | 1 | 2006 | |
0 | 1 | 2019 | |
0 | 1 | 2020 | |
0 | 1 | 2021 |