Vì sao chủ nghĩa phát xít Đức Italia Nhật Bản thất bại

- Đầu những năm 30, các nước Đức, Italia, Nhật Bản đã liên kết với nhau thành lập khối liên minh phát xít.

- Giai đoạn 1931 – 1937, khối phát xít đẩy mạnh chính sách bành trướng xâm lược.

+ Nhật chiếm vùng Đông Bắc rồi mở rộng chiến tranh xâm lược trên toàn lãnh thổ Trung Quốc.

+ Italia xâm lược Êtiôpia [1935], cùng với Đức tham chiến ở Tây Ban Nha [1936 – 1939].

+ Đức công khai xóa bỏ hòa ước Vec xai, âm mưu thành lập một nước “Đại Đức” ở châu Âu…

- Thái độ của các nước lớn:

+ Liên Xô: kiên quyết chống chủ nghĩa phát xít, chủ trương liên kết với các nước Anh, Pháp để chống phát xít và nguy cơ chiến tranh.

+ Mĩ, Anh, Pháp: không liên kết chặt chẽ với Liên Xô để chống phát xít, trái lại còn thực hiện chính sách nhượng bộ phát xít hòng đẩy phát xít tấn công Liên Xô.

2. Từ hội nghị Muy-ních đến chiến tranh thế giới

* Hội nghị Muy-ních:

- Hoàn cảnh triệu tập:

+ Tháng 3/193, Đức thôn tính áo. Sau đó, Hít le gây ra vụ Xuy-đét nhằm thôn tính Tiệp Khắc.

+ Liên Xô kiên quyết giúp Tiệp Khắc chống xâm lược.

+ Anh – Pháp tiếp tục thỏa hiệp, yêu cầu chính phủ Tiệp Khắc nhượng bộ Đức.

=> Do đó, ngày 29/9/1938, Hội nghị Muy-ních được triệu tập gồm đại diện 4 nước Anh, Pháp, Đức, Italia.

- Nội dung: Anh – Pháp kí hiệp định trao vùng Xuy-đét của Tiệp Khắc cho Đức. Đổi lại, Đức cam kết chấm dứt mọi cuộc thôn tính ở châu Âu.

- Ý nghĩa:

+ Hội nghị Muy-ních là đỉnh cao của chính sách dung túng, nhượng bộ phát xít của Mĩ – Anh – Pháp.

- Pháp.

+ Thể hiện âm mưu thống nhất của chủ nghĩa đế quốc [kể cả Anh – Pháp – Mĩ và Đức – Italia – Nhật Bản] trong việc tiêu diệt Liên Xô.

* Sau hội nghị Muy-ních:

- Đức đưa quân thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc [3/1939].

- Tiếp đó, Đức gây hấn và chuẩn bị tấn công Ba Lan.

- Ngày 23/8/1939 Đức ký với Liên Xô “Hiệp ước Xô - Đức không xâm lược nhau”

Như vậy, Đức đã phản bội lại hiệp định Muy-ních, thực hiện mưu đồ thôn tính châu Âu trước rồi mới dốc toàn lực đánh Liên Xô.

II. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và lan rộng ở châu Âu [từ tháng 9/1939 đến tháng 9/1940]

Thời gian

Chiến sự

Kết quả

Từ 01/9/1939 đến ngày 29/9/1939

Đức tấn công Ba Lan

Ba Lan bị Đức thôn tính

Từ tháng 9/1939 đến tháng 4/1940

“Chiến tranh kì quặc”

Tạo điều kiện để phát xít Đức phát triển mạnh lực lượng.

Từ tháng 4/1940 đến tháng 9/1940

Đức tấn công Bắc Âu và Tây Âu

- Đan Mạch, Nauy, Bỉ, Hà Lan, Lúc-xăm-bua bị Đức thôn tính. Pháp đầu hàng Đức. Kế hoạch tấn công nước Anh không thực hiện được.

Từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1941

Đức tấn công Đông và Nam Âu

- Ru-ma-ni, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Nam Tư, Hi Lạp bị thôn tính.

III. Chiến tranh lan rộng khắp thế giới [từ tháng 6/1941 đến tháng 11/1942]

1. Phát xít Đức tấn công Liên Xô. Chiến sự ở Bắc Phi

* Mặt trận Xô - Đức:

- Ngày 22/6/1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô theo kế hoạch đã định.

Thời gian đầu nhờ có ưu thế về vũ khí và kinh nghiệm tác chiến nên quân Đức tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô.

- Tháng 12/1941, Hồng quân Liên Xô phản công quyết liệt, đẩy lùi quân Đức ra khỏi cửa ngõ Matxcơva, làm phá sản kế hoạch “Chiến tranh chớp nhoáng của Đức”.

- Cuối năm 1942 Đức chuyển mũi nhọn tấn công phía Nam nhằm chiếm Xtalingrat, song không thể chiếm được thành phố này.

* Mặt trận Bắc Phi

- Tháng 9/1940, quân đội Italia tấn công Ai Cập.

- Tháng 10/1942, liên quân Mĩ – Anh giành thắng lợi lớn trong trận En A-la-men [Ai Cập] và chuyển sang phản công trên toàn mặt trận.

2. Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ

 - Ngày 7/12/1941, quân Nhật bất ngờ tấn công hạm đội Mĩ ở Trân Châu Cảng. Bị thất bại nặng nề, Mĩ tuyên chiến với Đức – Italia – Nhật. Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ.

 - Từ tháng 12/1941 – tháng 5/1942, Nhật Bản mở một loạt cuộc tấn công và chiếm được một vùng rộng lớn ở Đông Á và Thái Bình Dương.

3. Khối đồng minh chống phát xít hình thành

- Nguyên nhân:

+ Hành động xâm lược của phe phát xít trên toàn thế giới đã thúc đẩy các quốc gia cùng phối hợp với nhau trong một liên minh chống phát xít.

+ Việc Liên Xô tham chiến đã cổ vũ mạnh mẽ cuộc kháng chiến của nhân dân của các nước bị phát xít chiếm đóng, và khiến cho Mĩ – Anh thay đổi thái độ, bắt tay cùng Liên Xô chống chủ nghĩa phát xít.

- Sự thành lập: Ngày 01/1/1942, 26 nước [đứng đầu là Liên Xô, Mĩ, Anh] ra tuyên ngôn cam kết cùng nhau tiến hành cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít. Khối đồng minh chống phát xít được thành lập.

- ý nghĩa: Việc Liên Xô tham chiến và sự ra đời của khối đồng minh chống phát xít làm cho tính chất của Chiến tranh thay đổi, trở thành một cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hòa bình nhân loại.

IV. Quân Đồng minh chuyển sang phản công. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc [từ tháng 11/1942 đến tháng 8/1945]

1. Quân đồng minh phản công [từ tháng 11/1942 đến tháng 6/1944]

* ở mặt trận Xô - Đức:

- Từ tháng 11/1942 đến tháng 2/1943, Hồng quân Liên Xô phản công, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ đạo quân tinh nhuệ gồm 33 vạn người của phát xít Đức ở Xtalingrát.

 Cuối tháng 8/1943, Hồng quân bẻ gãy cuộc phản động của Đức tại vòng cung Cuốcxcơ, đánh tan 50 vạn quân Đức.

Tháng 6/1944, phần lớn lãnh thổ Liên Xô được giải phóng.

* ở Mặt trận Bắc phi: Từ tháng 3 đến tháng 5/1943, liên quân Mĩ – Anh phản công quét sạch quân Đức – Italia khỏi châu Phi. Chiến sự ở châu Phi chấm dứt.

* ở Italia: Tháng 7/1943 đến tháng 5/1945, liên quân châu Mĩ – Anh tấn công truy kích quân phát xít, làm cho chủ nghĩa phát xít Italia bị sụp đổ, phát xít Đức phải khuất phục.

* ở Thái Bình Dương: Sau chiến thắng quân Nhật trong trận Gua-đan-ca-nan [1/1943] Mĩ phản công đánh chiếm các đảo ở Thái Bình Dương.

2. Phát xít Đức bị tiêu diệt. Nhật Bản đầu hàng. Chiến tranh kết thúc

 a. Phát xít Đức bị tiêu diệt

- Sau khi giải phóng các nước Trung và Đông Âu [1944], tháng 1/1945, Hồng quân Liên Xô mở cuộc tấn công Đức ở Mặt trận phía Đông.

- Tháng 2/1945, Liên Xô tổ chức hội nghị I-an-ta gồm 3 nước Liên Xô, Mĩ, Anh bàn về việc tổ chức lại thế giới sau chiến tranh.

- Năm 1944, Mĩ, Anh mở Mặt trận thứ hai ở Tây Âu và bắt đầu mở cuộc tấn công quân Đức ở Mặt trận phía tây từ tháng 2/1945.

- Ngày 16/4 đến ngày 30/4/1945, Hồng quân Liên Xô tấn công đánh bại hơn 1 triệu quân Đức tại Béclin. Chủ nghĩa phát xít Đức bị tiêu diệt.

- Tháng 5/1945, nước Đức đầu hàng không điều kiện. Chiến tranh chấm dứt ở châu Âu.

b. Nhật Bản đầu hàng. Chiến tranh kết thúc.

- Từ năm 1944, Mĩ – Anh triển khai tấn công quân Nhật ở Miến Điện, Philíppin, các đảo ở Thái Bình Dương.

- Mĩ tăng cường đánh phá các thành phố lớn của Nhật bằng không quân. Ngày 6/8/1945 và 9/8/1945 Mĩ ném 2 quả bom nguyên tử xuống 2 thành phố Hirôsima và Nagasaki giết hại hàng vạn người.

- Ngày 8/8, Liên Xô tuyên chiến với Nhật và tấn công đạo quân Quan Đông gồm 70 vạn quân chủ lực của Nhật ở Mãn Châu.

- Ngày 15/8/1945, Nhật đầu hàng không điều kiện. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc

V. Kết cục của Chiến tranh thế giới thứ hai

 - Chủ nghĩa phát xít Đức – Italia – Nhật sụp đổ hoàn toàn. Thắng lợi vĩ đại thuộc về các dân tộc trên thế giới đã kiên cường chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít. Trong đó, 3 cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh là lực lượng trụ cột, giữ vai trò quyết định trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.

- Gây hậu quả và tổn thất nặng nề nhất trong lịch sử nhân loại, làm cho 60 triệu người chết, 90 triệu người bị thương, thiệt hại về vật chất 4000 tỉ đôla.

- Ý nghĩa: Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã dẫn đến những biến đổi căn bản của tình hình thế giới.

Tại sao chủ nghĩa phát xít lại phát triển mạnh ở Đức, Italia, Nhật Bản mà không phát triển ở Anh, Pháp, Mĩ

Giúp mình với!
Tại sao chủ nghĩa phát xít lại phát triển mạnh ở Đức,Italia,Nhật Bản mà không phát triển ở Anh,Pháp,Mĩ

Chủ nghĩa phát xít là một hệ tư tưởng chính trị và phong trào chính trị cực hữu đặc trưng bởi sức mạnh độc tài, cưỡng chế, đàn áp đối lập, và sự đoàn kết mạnh mẽ giữa xã hội và kinh tế, nổi bật nhất là ở châu Âu vào đầu thế kỷ 20.[1][2][3] Số đông trong đó, muốn đưa quốc gia lên trên về lịch sử, văn hóa, sinh học độc nhất, tất cả là nhờ vào động lực của lòng trung thành, và muốn tạo nên một cộng đồng chung của quốc gia được huy động.[4] Rất nhiều đặc điểm được quy cho chủ nghĩa phát xít bởi nhiều học giả khác nhau, nhưng những yếu tố sau thường được xem như cấu thành: chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa độc tài quân sự, chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa hợp tác, chủ nghĩa toàn trị, chủ nghĩa chuyên chế[5], chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chống lại chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa Cộng sản. Có rất nhiều tranh cãi giữa các học giả về bản chất của chủ nghĩa phát xít và những loại phong trào chính trị và những chính phủ mà có thể bị gọi là phát xít. Trên thực tế chủ nghĩa phát xít ở Ý, nơi khởi đầu của nó, khác với ở Đức, hay "chủ nghĩa phát xít" ở Nhật, ở Tây Ban Nha, và một số nơi khác, và cũng như các phong trào phát xít mới phát triển ở châu Âu hiện nay, xem xét các khía cạnh kinh tế, thủ thuật giành chính quyền, cương lĩnh, tư tưởng, mô hình nhà nước,... nhưng có điểm chung là gắn với tinh thần dân tộc.

Benito Mussolini [trái] và Adolf Hitler [phải], hai thủ lĩnh phát xít.

Trong chương trình giáo dục tại Việt Nam, như trong Sách giáo khoa Lịch sử lớp 8, Việt Nam có định nghĩa khác, cho rằng chủ nghĩa phát xít là "hình thức chuyên chính của tư bản chủ nghĩa, là lực lượng đế quốc hiếu chiến nhất, có chủ trương thủ tiêu mọi quyền tự do cơ bản của con người, khủng bố, đàn áp tàn bạo nhân dân, gây chiến tranh xâm lược để thống trị thế giới".[6].

Phát xít có nguồn gốc chính thức tại Ý, còn có tên gọi là Fasium. Lúc đầu tổ chức này chỉ có ba người, mỗi người phải đi tuyên truyền chủ nghĩa này cho ba người khác và lại tiếp tục như vậy, nên cả tổ chức trở nên lớn mạnh. Đặc biệt người được tuyên truyền sau không biết mặt những người lãnh đạo lớn hơn mình.

Chủ nghĩa phát xít có nguồn gốc từ Fasces [tiếng Latinh], Fascismo [tiếng Ý], Fasciste [tiếng Pháp], Fascist [tiếng Anh], có nghĩa là bó hoặc nhóm.

Câu chuyện bắt đầu từ thời Servius Tullius [578-535 BC], vua [Rex] thứ sáu của La Mã cổ. Servius gả con gái của mình cho con của hoàng đế thứ 5, Tarquinius. Tuy nhiên cô con gái của Servius là một người vô cùng tham lam và không coi trọng bất cứ một nguyên tắc đạo đức nào. Chính cô này đã xui Tarquinius xông vào Viện Nguyên Lão để cướp ngôi của cha mình và đuổi cha mình ra khỏi ngai vàng. Tệ hơn, Servius đã bị giết bởi một nhóm người theo lệnh của Tarquinius khi trở về cung. Sau khi lên ngôi, Tarquinius làm đủ mọi chuyện ác gây phẫn nộ trong dân chúng. Cuối cùng, người con trai của nhà buôn từng bị Tarquinius giết chết đã kêu gọi nhân dân nổi dậy và giành lại quyền điều hành đất nước. Sau sự vụ này, Rome không còn ngôi vua nữa mà nhân dân bầu ra hai người đứng đầu gọi là Quan chấp chính. Vị quan chấp chính thường có các thị vệ [vệ sĩ] theo hầu, mỗi thị vệ vác theo mình một bó gậy [là một bó gồm nhiều que gỗ], giữa bó gậy được buộc chặt với một cái rìu dùng để trừng phạt những người làm sai pháp luật bằng các hình phạt thể xác và tử hình.[7][8]. Tuy nhiên, đây là một mô hình cực kỳ dân chủ và văn minh so với các mô hình ở thời cổ đại bởi có hai vị Quan chấp chính có quyền hành ngang nhau, thời gian chấp chính chỉ là 1 năm và nếu người dân có ý kiến bất đồng với Quan chấp chính thì có thể đưa ra Hội đồng Nhân dân hoặc Viện nguyên lão. Bó gậy mà người thị vệ vác theo mình được gọi là Fasces.

Ý nghĩa tượng trưng của bó que là sức mạnh thông qua sự thống nhất: một que gỗ thì dễ dàng bị bẻ gãy nhưng một bó gỗ thì rất khó để bẻ gãy.[9] Từ đó các biểu tượng tương tự đã được các phong trào phát xít khác mô phỏng theo. Ví dụ như biểu tượng bó tên của Đảng phát xít Falange Tây Ban Nha. Biểu tượng bó gậy cũng có thể là

  • Biểu trưng cho vương quyền hay luật pháp của giai cấp thống trị.
  • Tượng trưng cho quyền lực của nhân vật đứng đầu Nhà nước.
  • Biểu tượng của chính quyền hành chính nhân dân. Ví dụ con dấu của Thượng nghị viện Hoa kỳ vẫn còn sử dụng biểu tượng bó gậy để làm hình đại diện cho luật pháp của riêng Viện này. Từ Fascismo cũng được dùng để chỉ các tổ chức chính trị tại Ý như fasci, tương tự với công đoàn và phường hội.

Các nhà sử học, khoa học chính trị, và các học giả khác đã có nhiều tranh cãi xoay quanh bản chất tự nhiên của chủ nghĩa phát xít. [10] Kể từ thập niên 90, các học giả như Stanley Payne, Roger Eatwell, Roger Griffin và Robert O. Paxton đã có được sự nhất trí mạnh mẽ về các triết lý cốt lõi của chủ nghĩa. Mỗi dạng của chủ nghĩa phát xít có sự khác biệt. Điều này làm cho nó có nhiều định nghĩa khi thì quá rộng khi thì quá hẹp.[11][12]

Griffin định nghĩa:

"[Fascism is] a genuinely revolutionary, trans-class form of anti-liberal, and in the last analysis, anti-conservative nationalism. As such it is an ideology deeply bound up with modernization and modernity, one which has assumed a considerable variety of external forms to adapt itself to the particular historical and national context in which it appears, and has drawn a wide range of cultural and intellectual currents, both left and right, anti-modern and pro-modern, to articulate itself as a body of ideas, slogans, and doctrine. In the inter-war period it manifested itself primarily in the form of an elite-led "armed party" which attempted, mostly unsuccessfully, to generate a populist mass movement through a liturgical style of politics and a programme of radical policies which promised to overcome a threat posed by international socialism, to end the degeneration affecting the nation under liberalism, and to bring about a radical renewal of its social, political and cultural life as part of what was widely imagined to be the new era being inaugurated in Western civilization. The core mobilizing myth of fascism which conditions its ideology, propaganda, style of politics and actions is the vision of the nation's imminent rebirth from decadence." [13]

Còn theo Paxton thì chủ nghĩa phát xít là:

"a form of political behavior marked by obsessive preoccupation with community decline, humiliation or victimhood and by compensatory cults of unity, energy and purity, in which a mass-based party of committed nationalist militants, working in uneasy but effective collaboration with traditional elites, abandons democratic liberties and pursues with redemptive violence and without ethical or legal restraints goals of internal cleansing and external expansion." [14]

Được dịch là: "một hình thức của hành vi chính trị được ghi dấu bởi mối bận tâm ám ảnh với sự suy thoái của cộng đồng, sự sỉ nhục hoặc thèm khát địa vị và bởi sự tôn thờ bù đắp của đoàn kết, năng lượng và sự thuần khiết, trong đó một Đảng của các chiến binh dân tộc cam kết, làm việc trong sự cộng tác khó nhằn nhưng hiệu quả với những tinh hoa truyền thống, từ bỏ tự do dân chủ và theo đuổi với bạo lực cứu giúp và không có mục tiêu hạn chế về đạo đức, pháp lý của khai trừ nội bộ và mở rộng bên ngoài."[14]

Có nhiều quan điểm khác nhau về nguyên nhân dẫn đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít. Trong đó có một quan điểm cho rằng chủ nghĩa phát xít Ý ra đời là một sự đáp lại các thất bại của nền dân chủ, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa Marx. Những chủ nghĩa này được nhìn nhận là có thiên hướng về chủ nghĩa cá nhân và toàn cầu hóa, làm tổn hại đến quốc gia. Và chủ nghĩa phát xít khi đó đã tự xưng mình là sự thay thế căn bản mang tính quốc gia cho chủ nghĩa bolshevik. Dù vậy, nó lại mang nhiều đặc trưng của chủ nghĩa bolshevik như: nhà nước Đảng trị; quyền quyết định theo đa số và vận động ủng hộ từ giai cấp vô sản đặc biệt khi nhiều cựu binh trở về từ chiến tranh lại phải đối mặt với nạn thất nghiệp và các vấn đề kinh tế khác; nhà nước kiểm soát nền kinh tế và các lĩnh vực khác của xã hội; sùng bái lãnh tụ... Chủ nghĩa phát xít đã đưa ra mô hình chủ nghĩa tập thể và quốc hữu hóa các công ty độc quyền, cũng như đối đầu với chủ nghĩa Marx vì cho rằng chủ nghĩa này chống lại chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa yêu nước.[15][16] Hannah Arendt cho rằng Liên Xô dưới thời Stalin lẫn nước Đức dưới thời Hitler đều là những nhà nước toàn trị trong đó nhà nước cố gắng động viên toàn thể dân chúng đoàn kết trong việc hỗ trợ hệ tư tưởng, các mục tiêu của nhà nước đi kèm với sự trấn áp không khoan nhượng đối với những hoạt động đi ngược lại mục tiêu của nhà nước; đồng thời là sự kiểm soát toàn diện các cơ quan quyền lực nhà nước [lập pháp, hành pháp, tư pháp, công an, quân đội...]; sự điều khiển của nhà nước đối với các tổ chức quần chúng như công đoàn lao động, các cơ quan truyền thông đại chúng, các cơ sở học thuật, các cơ sở tôn giáo như nhà thờ, các tổ chức chính trị như là các đảng phái chính trị.[17] Trotsky cho rằng nếu không có Stalin thì cũng không có Hitler[18]. Benito Mussolini từng là lãnh đạo của Đảng Xã hội Ý còn Hitler học cách tuyên truyền và tổ chức của những người dân chủ xã hội Đức và đặt tên tổ chức chính trị của mình là Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa.

Là kết quả cuộc bạo loạn của giai cấp tiểu tư sản, do nó bị chèn ép giữa giới đại tư sản và phong trào công nhân. Vì vậy nó không mang tính chất giải phóng áp bức, bất công mà nó chỉ mang tính chất giúp giới tiểu tư sản dễ thở hơn trong cuộc đấu tranh của giới đại tư sản [bóc lột] và giai cấp công nhân [bị bóc lột] mà không sớm hay muộn giới tiểu tư sản sẽ bị lôi kéo nhảy vào cuộc. Tuy nhiên nó không dừng lại ở tính chất của cuộc cách mạng tiểu tư sản, nó thể hiện ý thức phi lý của con người đã bị bóp méo, trở nên đần độn dẫn đến những tư tưởng ảo tưởng nhưng coi đó là sự thật và cần phải đấu tranh thực hiện nó. Nhà sử học người Italia, Dele Piane, gọi chủ nghĩa phát xít là "cuộc phản cách mạng triệt để"; còn L. Longo thì xem đó là "một trong những hình thái phản cách mạng triệt để".

Chủ nghĩa phát xít ra đời trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, sự thất trận của một số quốc gia [Đức] tổn hại niềm tự hào dân tộc, những nguy cơ của các cuộc cách mạng thường trực do phân hóa xã hội sâu sắc, sự yếu kém của các nền dân chủ đại nghị trước nguy cơ của chủ nghĩa Cộng sản, hay vô chính phủ, những nguy cơ xâm lấn của các nền văn minh bên ngoài, cho nên chủ nghĩa phát xít có một sức hấp dẫn đối với dân chúng ở một số quốc gia trong những hoàn cảnh xã hội nhất định. Các đặc điểm cơ bản của nó có thể được thể hiện phương diện chính:

  • Xây dựng một Nhà nước tập trung hùng mạnh để đối phó các nguy cơ bạo loạn và các nguy cơ xâm lược từ phía bên ngoài, thủ tiêu dân chủ, nhà nước một Đảng phát xít nắm quyền
  • Xây dựng một quân đội hùng mạnh, các sĩ quan quân đội có một vị trí chính trị quan trọng theo mẫu của chủ nghĩa quân phiệt
  • Đàn áp tất cả các phong trào cánh tả như chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Cộng sản, chủ nghĩa công đoàn, chủ nghĩa vô chính phủ,...[mà họ cho là làm tổn hại đến quốc gia, nhà nước hay dẫn đến sự bất ổn], các tư tưởng dân chủ hoặc các đòi hỏi dân sinh.
  • Thủ tiêu kinh tế thị trường, đặt toàn bộ nền kinh tế dưới sự kiểm soát chặt chẽ nhà nước, phục vụ cho nhà nước và quốc gia, nhưng không xóa bỏ giai cấp mà hướng tất cả giai cấp làm việc phụng sự cho quốc gia, hi sinh các quyền lợi hoặc đòi hỏi cá nhân, khêu gợi một sự đoàn kết trên cơ sở của một trật tự xã hội có phân hóa và nếp sống kỷ luật
  • Khêu gợi tinh thần yêu nước phụng sự Tổ quốc của cả dân tộc, kích động tư tưởng dân tộc, chống lại các dân tộc mà họ cho là làm tổn hại đến lợi ích dân tộc họ [như người Do Thái ở Đức,..]
  • Đưa ra các chiêu bài lần lượt lấy lòng của các tầng lớp khác nhau trong xã hội, thường trước hết là tầng lớp trung lưu, sau đó đến tư sản và vô sản, nông dân [đây không phải đặc điểm riêng có của chủ nghĩa phát xít nhưng không thể thiếu]
  • Đưa ra các luận điệu mang màu sắc của chủ nghĩa sô vanh hay chủ nghĩa bá quyền [nhưng chỉ có một số nước], đặt dân tộc trước các nguy cơ bị hủy diệt hoặc xâm lấn, khôi phục lại một số truyền thống bị lãng quên nhằm khẳng định tư tưởng dân tộc, kích động các tư tưởng phân biệt sắc [chủng] tộc một cách cực đoan

Tuy nhiên chủ nghĩa phát xít vẫn hay gây ra tranh cãi, vì có phong trào có một số đặc điểm giống với chủ nghĩa phát xít nhưng không toàn bộ. Một số phong trào phát xít hay được gán là phát xít vẫn hoạt động ở một số nước mà đặc điểm cơ bản bề ngoài của nó là chống lại người nhập cư một cách cực đoan, hay các dân tộc thiểu số ở nước họ [như người Hồi giáo ở một số nước châu Âu,...] thường được theo dõi chặt chẽ, tuy nhiên một số có lúc nổi lên như một lực lượng chính trị lớn.

Về cơ bản chủ nghĩa phát xít trước hết là một phong trào dân tộc cực đoan, và là một dạng "cánh hữu cách mạng", để chống lại cánh tả. Nguồn gốc quyền lực Nhà nước là quốc gia, dân tộc, dưới bàn tay tạo hóa Thượng đế, khác hẳn cách lý giải quyền lực Nhà nước từ nảy sinh tư hữu và phân hóa giai cấp của những người Cộng sản. Tư tưởng phát xít đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa vô chính phủ.

  • Chủ nghĩa thực dân
  • Chủ nghĩa tự do
  • Chủ nghĩa tư bản
  • Chủ nghĩa xã hội
  • Chủ nghĩa dân túy

  1. ^ Paxton [2004], pp. 32, 45, 173; Nolte [1965] p. 300.
  2. ^ “fascism”. Merriam-Webster Online. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2017.
  3. ^ Peter Davies; Derek Lynch [2002]. The Routledge Companion to Fascism and the Far Right. Routledge. tr. 1–5.
  4. ^ Kevin Passmore, Fascism: A Very Short Introduction, pages 25-31. Oxford University Press, 2002
  5. ^ "collectivism." Encyclopædia Britannica. 2007. Encyclopædia Britannica Online. 12 Jan. 2007 "Collectivism has found varying degrees of expression in the 20th century in such movements as socialism, communism, and fascism."; Grant, Moyra. Key Ideas in Politics. Nelson Thomas 2003. p. 21; De Grand, Alexander. Italian Fascism: Its Origins and Development. U of Nebraska Press. p. 147 "Nationalism, statism, and authoritarianism culminated in the cult of the Duce. Finally, collectivism was important...Despite general agreement on these four themes, it was hard to formulate a definition of fascism..."
  6. ^ Sách giáo khoa lịch sử lớp 8,Sách giáo khoa lịch sử lớp 8, Bộ Giáo dục và Đào Tạo,trang 154
  7. ^ New World, Websters [2005]. Webster's II New College Dictionary. Houghton Mifflin Reference Books. ISBN 0618396012.
  8. ^ Payne, Stanley [1995]. A History of Fascism, 1914-45. University of Wisconsin Press. ISBN 0299148742.
  9. ^ Doordan, Dennis P [1995]. In the Shadow of the Fasces: Political Design in Fascist Italy. The MIT Press. ISBN 0299148742.
  10. ^ Gregor, A. James [2002]. Phoenix: Fascism in Our Time. Transaction Publishers. ISBN 0765808552.
  11. ^ Payne, Stanley G [1983]. Fascism, Comparison and Definition. University of Wisconsin Press. ISBN 0299080641.
  12. ^ Griffiths, Richard [2000]. An Intelligent Person's Guide to Fascism. Duckworth.
  13. ^ Roger Griffin, The palingenetic core of generic fascist ideology Lưu trữ 2008-09-10 tại Wayback Machine, Chapter published in Alessandro Campi [ed.], Che cos'è il fascismo? Interpretazioni e prospettive di ricerche, Ideazione editrice, Roma, 2003, pp. 97–122.
  14. ^ a b Paxton, Robert [2005]. The Anatomy of Fascism. Vintage Books. ISBN 1-4000-4094-9.
  15. ^ Judging Nazism and Communism, Martin Malia, The National Interest, No. 69 [Fall 2002], pp. 63-78
  16. ^ The Doctrine of Fascism, Benito Mussolini, 1932
  17. ^ Hannah Arendt, The Origins of Totalitarianism, New York: Harcourt, Brace & Co., 1951
  18. ^ Stalin đã đánh bại cánh tả như thế nào?, Leon Trotsky, Báo sự thật, Tháng 11/1935

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Chủ nghĩa phát xít.

  Bài viết chủ đề chủ nghĩa đế quốc này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Chủ_nghĩa_phát_xít&oldid=68298579”

Video liên quan

Chủ Đề