Ca sĩ canada với clip ca nhạc sex là ai?

Ngày 1.12, Spotify vừa công bố danh sách các nghệ sĩ, bài hát, album sở hữu lượng người nghe nhiều nhất trên dịch vụ nghe nhạc trực tuyến này. Trong đó, nam ca sĩ người Canada Drake tiếp tục đem về danh hiệu Nam nghệ sĩ có nhiều người nghe trực tuyến nhất trong năm 2016 với 4,7 tỉ lượt nghe trên Spotify. Con số này thậm chí còn nhiều gấp đôi thành tích 1,8 tỉ lượt nghe mà năm ngoái anh lập được.

Bên cạnh đó, ca khúc One Dance cũng như album Views được phát hành vào năm nay cũng dẫn đầu các hạng mục Bài hát được nghe nhiều nhất, Album được nghe nhiều nhất. Bản hit đình đám One Dance đã đánh bật kỷ lục của Lean on, trở thành bài hát được nghe trực tuyến nhiều nhất trong lịch sử Spotify với 970 triệu lượt kể từ khi ra mắt vào tháng 4.

Rihanna được vinh danh ở hạng mục dành cho nữ

Ảnh: Reuters

Trong khi đó, cô bạn gái tin đồn của Drake là Rihanna cũng “ẵm” luôn danh hiệu Nữ ca sĩ có nhiều người nghe trực tuyến nhất năm 2016. Và đây cũng là lần thứ hai liên tiếp người đẹp gốc Barbados được vinh danh với thành tích này.

Với việc phát hành album ANTI trong năm 2016, Rihanna đã thu về cho mình 2,5 triệu lượt nghe trực tuyến. ANTI cũng trở thành album được nghe nhiều thứ ba trong lịch sử, chỉ sau Views của Drake và “hiện tượng” 25 của “họa mi nước Anh” Adele. Ca khúc song ca Works của bộ đôi đình đám này cũng xếp vị trí thứ tư trong danh sách những bài hát sở hữu lượt người nghe nhiều nhất năm nay.

Xếp sau Drake là những cái tên cũng nổi tiếng không kém như Kanye West, Justin Bieber và hai nhóm nhạc nam Coldplay và Twenty One Pilots. Trong khi đó ở hạng mục nữ thì Sia, Adele, Ariana Grande và Beyoncé là những nghệ sĩ còn lại lọt vào top 5.

Spotify là một trong những dịch vụ âm nhạc trực tuyến hàng đầu thế giới, hiện nay đang có hơn 75 triệu người sử dụng trên toàn cầu với hơn 20 triệu người dùng trả phí. Trong thời đại công nghệ hóa, người nghe nhạc ngày càng chuộng hình thức này thay vì mua đĩa gốc bởi tính đơn giản và thuận tiện của các ứng dụng này mang lại.

Không thể khẳng định là chính xác nhưng số liệu từ Spotify cũng phần nào cho giới quan sát một cái nhìn tổng quan về thị hiếu âm nhạc của công chúng trong những năm gần đây, nhất là của những người trẻ.

Tin liên quan

Las Vegas Residency : Cỗ máy kiếm tiền bằng âm nhạc

Las Vegas từng được coi là “nhà dưỡng lão” cho các ngôi sao hết thời và sự nghiệp xuống dốc. Quan niêm đó hoàn toàn thay đổi sau thành công sáng chói của Céline Dion. Năm 2022, hàng loạt ngôi sao trên đỉnh cao sự nghiệp muốn đổ bộ lên ánh đèn sân khấu Las Vegas. Thế giới giải trí sôi động và hiện đại bậc nhất Để hiểu sức cảm dỗ của Las Vegas, chúng ta phải xem bộ phim hài ăn khách Hangover [2009] mô tả bữa tiệc chia tay độc thân của ba gã thanh niên tại thành phố “tội lỗi”. Trước đại dịch, các sòng bài tại Las Vegas đón tiếp 42 triệu lượt khách trong năm 2019. Thành phố này là địa điểm lý tưởng tổ chức tiệc tùng trước đám cưới. Không chỉ cờ bạc và rượu chè, Las Vegas còn có đầy đủ mọi hoạt động giải trí như ảo thuật, xiếc, đấm bốc, show ca nhạc, thoát y vũ. Trong đó, ba sân khấu ca nhạc lớn nhất hiện nay là Ceasar Palace có 4.000 chỗ, Zappos Theater có 7.000 chỗ và Resort World Theater 5.000 chỗ. Hệ thống âm thanh với công suất 100.000 watts, kỹ xảo hiệu ứng tối tân của Hollywood. Trong đó, Ceasar Palace là một địa điểm đón đầu trào lưu mang tên Las Vegas Residency, nơi trình diễn đình kỳ hàng năm của các nghệ sỹ. Các ngôi sao tạo dựng tên tuổi ở Ceasar Palace phải kể tới Celine Dion, Rod Stewart, Shania Twain. Khi dịch bênh bùng lên năm 2020, sâu khấu các sòng bạc lớn tại Las Vegas hứng chịu tổn thất nặng nề. Các nghệ sỹ lớn phải hủy show do giãn cách xã hội, vắng khách du lịch. Năm 2021, tín hiệu hồi phục rõ nét hơn khi số lượt khách đến Las Vegas lên đến 32 triệu lượt. Năm 2022, hàng loạt các nghệ sỹ tên tuổi công bố trở lại Las Vegas trong đó có Adele, Rod Stewart, Shania Twain, Sting. Thống kê cho thấy trung bình 1 khách tới Las Vegas chi tiêu 177 đô la Mỹ xem show và hoạt động giải trí, chỉ đứng sau mua sắm [342 đô la]. Tổng chi tiêu khách du lịch tới Las Vegas là 36,9 tỷ đôla/năm. Con số biết nói này cũng hé lộ đươc tầm vóc ngành công nghiệp giải trí tại vùng đất hoang mạc này. Thay đổi cuộc chơi tại Las Vegas Trong thập niên 1970 và 80, người ta cho rằng chỉ có các nghệ sỹ hết thời mới tìm đến biểu diễn tại các sòng bạc. Las Vegas được so sánh là nhà dưỡng lão cho sự nghiệp âm nhạc của các ngôi sao cựu trào. Họ sẽ ngân nga liên khúc bất tử cho những kẻ say rượu, du khách nghỉ ngơi sau khi chơi poker. Nhắc đến Las Vegas, không thể quên được tới hai nghệ sỹ kỳ cựu Frank Sinatra, Elvis Presley. Họ đã biến thế giới sòng bài tại Las Vegas thành thánh đường biểu diễn âm nhạc trong 70 năm qua. Ngôi sao Frank Sinatra được gọi là “ông vua” Las Vegas nhờ chiếm sóng trong suốt 43 năm. Sau khi ông qua đời năm 1998, trào lưu trình diễn Las Vegas trở nên cực mờ nhạt như cuộc “thảm sát” sự nghiệp của nghệ sỹ. Năm 2003, Céline Dion đã thay đổi hoàn toàn cuộc chơi tại Las Vegas. Khi ở đỉnh cao sự nghiệp, cô ký hợp đồng biểu diễn 5 năm [từ 2003 đến 2007] với sòng bài Ceasar Palace với chủ đề A New Day [Một ngày mới]. Diva người Canada được trả thù lao 500.000 đôla cho một show biểu diễn với 70 buổi trình diễn trong một năm. Tổng cộng, cô bỏ túi được 35 triệu đô la cho một năm trong khi tiền bán vé thu về khoảng 48 triệu đôla/năm. Mặc dù đảm bảo cát xê khổng lồ, áp lực với Céline không hề nhỏ. Diva phải biểu diễn 5 đêm liên tiếp trong 40 tuần. Chưa kể đến rủi ro như mất giọng khi trình diễn sân khấu quy mô lớn đến 20.000 foot, 60 vũ công và ban nhạc. Nhờ tài năng nổi trội và êkip hỗ trợ chuyên nghiệp, trong vòng 16 năm biểu diễn, chương trình của Céline thu về doanh số kỷ lục 681 triệu đô la. Thành công của Céline kéo theo làn sóng nghệ sỹ đổ bộ tới Las Vegas như tìm kiếm cỗ máy in tiền, ví dụ như Mariah Carey, Def Leppard, Guns N’ Roses, Boyz II Men, Thậm chí, các ngôi sao trẻ đang ở đỉnh cao sự nghiệp cũng muốn tìm kiếm danh vọng và tiền bạc tại Las Vegas. Adele, Katty Perry, Carrie Underwood hay nhóm BTS sớm công bố lịch diễn Las Vegas để bán vé đặt trước. Phổ âm nhạc và phân khúc nghệ sỹ ở Las Vegas trở nên rất đa dạng. Theo chân đàn chị, nữ ca sỹ Britney Spear cũng từng kiếm được 475.000 đô la cho một đêm diễn tại nhà hát Colosseum theo bản hợp đồng 4 năm từ 2013 đến 2017. Las Vegas đang hấp dẫn lượng lớn nghệ sỹ trẻ, chứ không phải các ngôi sao hết thời. Khác với tour lưu diễn, cát sê cho nghệ sỹ ổn định hơn nhiều nhờ bản hợp đồng dài hạn. Các nghệ sỹ trẻ như Katty Perry còn nhấn mạnh về ưu thế địa điểm hay logistic ở Las Vegas. Họ chỉ mất 45 phút bay từ Los Angeles đến Las Vegas để biểu diễn. Celine Dion là ví dụ hiếm hoi vì cô chọn sinh sống luôn tại Las Vegas. Với Rod Stewart, ông thường bay về nhà sau biểu diễn mà không ở lại thành phố tội lỗi. Do vậy, ưu thế địa điểm giúp các nghệ sỹ cân bằng cuộc sống gia đình. Ván bài của nghệ sỹ và sòng bạc Ưu điểm không thể phủ nhận tại Las Vegas là sân khấu hiên đại, thích hợp cho trình diễn lâu dài. Điều này khó có thể thực hiện trong các tour lưu diễn do quá tốn kém và thời gian lắp dựng. Chương trình Las Vegas của Céline Dion mang ảnh hưởng không nhỏ show Cirque du Soleil, với nhà hát Ceasar Palace được xây mới. Ngoài ra, đội ngũ sản xuất sẽ giảm được gánh nặng di chuyển hàng chục chiếc xe tải trong đêm so với đi lưu diễn. Tuy nhiên, các nghệ sỹ cân nhắc việc đánh đổi biểu diễn tại Las Vegas với doanh số bán album sẽ chậm lại. Họ khó có thể thể đi lưu diễn toàn cầu nếu ký hợp đồng với các sòng bạc ở Las Vegas. Bốn mươi đêm diễn thường kỳ tại Las Vegas khó có thể có doanh thu cao hơn 40 đêm diễn tại sân vận động. Tuy nhiên, hiệu ứng kỹ xảo đặc biệt của Las Vegas sẽ khiến nghệ sỹ và khán giả thích thú, như chia sẻ của Steven Tyler, thủ lĩnh nhóm Aerosmith. Đó là giá trị gia tăng cho khán giả thay vì hình thức lưu diễn cổ điển. Đối với các sòng bạc, họ phải tính toán chặt chẽ kinh phí sản xuất để đảm bảo có lời. Ngoài cát xê cố định cho nghệ sỹ, các casino phải đầu tư không nhỏ cho quá trình sản xuất. Ví dụ như show của Lady Gaga phải có robot khổng lồ, Ricky Martin có nhiều màn nhào lộn không trung hay Jennifer Lopez đòi hỏi lượng vũ công hùng hậu. Do đó, đối với thù lao 1 triệu đô la/đêm diễn cho Lady Gaga, giá vé nâng lên tới 412 đô la nhưng vẫn “cháy”. Giá trị lớn nhất của Las Vegas Residency nằm ở giá trị sản xuất, dàn dựng sân khấu thu hút khán giả. Phần lớn khán giả tới Las Vegas là giới trẻ, họ hưởng thụ và xả stress, không phải lo lắng bảo mẫu giữ trẻ. Các nghệ sỹ trên đỉnh cao sự nghiệp dường như muốn đánh cược vào khả năng kiếm tiền tại Las Vegas. Ở chiều ngược lại, ông chủ casino muốn dựa vào tiếng tăm các nghệ sỹ để thu hút lượng khách khổng lồ đến giải trí. Mối quan hệ “hai bên cùng có lợi” tại Las Vegas dường như vẫn kết trái ngọt.   [Theo Variety, Discover Music, Las Vegas Statistics]

Alanis Nadine Morissette [sinh ngày 1 tháng 6 năm 1974] là một nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc, nhạc công guitar, nhà sản xuất thu âm và diễn viên người Mỹ gốc Canada.[1] Cô khởi nghiệp từ hai album nhạc dance-pop Alanis [1991] và Now Is the Time [1992] ở lứa tuổi thiếu niên bởi hãng thu âm MCA Records Canada. Cô đạt được thành công trên toàn cầu kể từ album phòng thu quốc tế đầu tiên, Jagged Little Pill [1995] với những ảnh hưởng của dòng nhạc rock. Jagged vượt 33 triệu bản trên toàn cầu[2][3][4] giúp Morissette phá vỡ kỷ lục cho người trẻ tuổi nhất giành giải Grammy cho "Album của năm"[5] và được xuất hiện trong nhiều danh sách vinh danh của các nhà phê bình.[6][7] Hai album phòng thu kế tiếp, Supposed Former Infatuation Junkie [1998] và Under Rug Swept [2002] được tiếp nhận tích cực bởi các nhà phê bình[8][9] và đều giành được chứng nhận Bạch kim tại Mỹ.[10] Cô tiếp tục cho ra các album So-Called Chaos [2004], Flavors of Entanglement [2008] và Havoc and Bright Lights [2012].

Alanis Morissette

Morissette trình diễn tại Saban Theater, Beverly Hills California vào ngày 19 tháng 5 năm 2014

SinhAlanis Nadine Morissette
1 tháng 6, 1974 [47 tuổi]
Ottawa, Ontario, CanadaTư cách công dânCanada và Hoa KỳNghề nghiệpCa sĩ, người viết bài hát, nhà sản xuất thu âm, diễn viênNổi tiếng vìJagged Little Pill [1995]Phối ngẫu

Mario Treadway [cưới 2010]

Bạn đời

  • Dash Mihok [1997–2001]

Ryan Reynolds [2002–07]Con cái1Sự nghiệp âm nhạcDòng nhạcAlternative rock, post-grunge, pop rock, electronicaNhạc cụHát chính, dương cầm, guitar, sáo, harmonicaNăm hoạt động1985–nayHãng đĩaMCA Canada, Maverick, Collective SoundsHợp tác vớiTim Thorney, Dave Matthews BandWebsitealanis.com

Cho đến nay, Morissette đã bán ra hơn 60 triệu album trên toàn cầu,[11][12] giành 16 giải Juno, 7 giải Grammy và 2 đề cử giải Quả cầu vàng.[13] Cô được biết đến bởi chất giọng mezzo-soprano[14] và được tạp chí Rolling Stone mệnh danh là "Nữ hoàng alt-rock angst".[15]

Bài chi tiết: Danh sách đĩa nhạc của Alanis Morissette

  • Alanis [1991]
  • Now Is the Time [1992]
  • Jagged Little Pill [1995]
  • Supposed Former Infatuation Junkie [1998]
  • Under Rug Swept [2002]
  • So-Called Chaos [2004]
  • Flavors of Entanglement [2008]
  • Havoc and Bright Lights [2012]
Phim Năm Tựa đề Vai Ghi chú
1993 Anything For Love Alanis Không được ghi nhận
1999 Dogma God
2004 De-Lovely Ca sĩ vô danh Hát "Let's Do It, Let's Fall in Love"
2005 Fuck Chính cô Phim tài liệu
2005 Just Friends Chính cô Không được ghi nhận [Định dạng DVD]
2010 Radio Free Albemuth Sylvie
Truyền hình Năm Tựa đề Vai Ghi chú
1986 You Can't Do That on Television Chính cô
1996 Malhação Chính cô Phim dài tập Brazil
2000 Sex and the City Dawn Tập "Boy, Girl, Boy, Girl"
2002 Curb Your Enthusiasm Chính cô Tập "The Terrorist Attack"
2003 Celebridade Chính cô Phim dài tập Brazil
2004 American Dreams Ca sĩ Tập "What Dreams May Come"
2005 Degrassi: The Next Generation Hiệu trưởng Tập "Goin' Down the Road: Part 1"
2006 Lovespring International Lucinda
2006 Nip/Tuck Poppy 3 tập
2009–2010 Weeds Dr. Audra Kitson 8 tập
2012 Up All Night Amanda Tập "Travel Day"
Sân khấu Năm Tựa đề Vai
1999 The Vagina Monologues
2004 The Exonerated Sunny Jacobs
2010 An Oak Tree

  1. ^ “Alanis Morissette becomes U.S. citizen: Canadian-born singer to maintain dual citizenship”. Associated Press. ngày 17 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2012.
  2. ^ “Alanis Morissette: You ask the questions”. London: The Independent. ngày 21 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
  3. ^ “Alanis Ties For Highest-Selling Debut Ever”. Rolling Stone. Jann Wenner. ngày 5 tháng 8 năm 1998. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2011. Morissette's 1995 bow is now tied with Boston's self-titled 1976 album as the best-selling debut of all time
  4. ^ Caulfield, Keith. “Ask Billboard: Missy Elliott, Hot 100 And The Best Selling Album Of All Time”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2011. We're including Morissette's "Jagged," as it was her U.S. major label debut
  5. ^ Grace Stanisc [8 tháng 2 năm 2013]. “Grammy Awards 2013: Flashback to Alanis Morissette's big night in 1996”. Yahoo!. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |access-date= [trợ giúp]
  6. ^ “The 500 Greatest Albums of All Time”. Rolling Stone. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2011.
  7. ^ Women Who Rock: The 50 Greatest Albums of All Time
  8. ^ Erlewine, Stephen Thomas. “Supposed Former Infatuation Junkie: Allmusic”. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2011.
  9. ^ “Under Rug Swept Reviews, Ratings, Credits, and More at Metacritic”. Metacritic. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2012.
  10. ^ Trust, Gary. "Ask Billboard: What Are the Billboard 200's Longest-Charting Albums Ever?". Billboard. ngày 24 tháng 12 năm 2012.
  11. ^ Beech, Mark [ngày 2 tháng 6 năm 2008]. “Alanis Morissette Marries Sexy Electrobeats, Heartbreak, Anger”. Bloomberg L.P. Bloomberg L.P. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2011. she has shifted about 60 million CDs in total
  12. ^ Skye, Dan [ngày 21 tháng 12 năm 2009]. “Land of Alanis”. High Times. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2011. Now 35, the Canadian-born singer has sold over 75 million albums worldwide
  13. ^ Patch, Nick [ngày 7 tháng 6 năm 2010]. “Alanis Morissette marries rapper Souleye”. MSN News. Canada: MSN. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2011. She's sold more than 60 million albums and has won seven Grammy Awards and 12 Junos
  14. ^ POP REVIEW; A Good Girl Getting Good and Mad
  15. ^ “Alanis Morissette Biography”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2015. Truy cập 19 tháng 5 năm 2015.

  • Rock on the Net
  • "Alanis Morissette – Artist Chart History". Billboard. Lưu trữ 23 tháng 8 năm 2006.
  • "Alanis Morissette – Billboard Singles". Allmusic. Lưu trữ 23 tháng 8 năm 2006.
  • "Alanis Morissette". Mariah-charts.com. Lưu trữ 23 tháng 8 năm 2006.
  • Rock Chicks:The Hottest Female Rockers from the 1960s to Now của Stieven-Taylor, Alison [2007]. Sydney. Rockpool Publishing. ISBN 978-1-ngày 95 tháng 6 năm 1295

Tìm hiểu thêm về
Alanis Morissette
tại các dự án liên quan

  Tập tin phương tiện từ Commons
  Danh ngôn từ Wikiquote
  • Trang web chính thức
  • Danh sách đĩa nhạc của Alanis Morissette trên Discogs
  • Alanis Morissette trên Internet Movie Database

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Alanis_Morissette&oldid=67508154”

Video liên quan

Chủ Đề