Ứng xử là gì và vai trò của ứng xử năm 2024

Một trong những yếu tố góp phần quyết định sự bền vững của doanh nghiệp trước cơn khủng hoảng đó chính là nguồn nội lực văn hóa doanh nghiệp. Đồng thời, chìa khóa thành công cho sự vững vàng và phát triển doanh nghiệp cũng chính là văn hóa ứng xử của doanh nghiệp. Văn hóa ứng xử của doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Không chỉ là nguồn động viên, nguồn cảm hứng, ý chí, nghị lực của các thành viên trong doanh nghiệp, văn hóa ứng xử còn tạo nên sức mạnh chung đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển. Ngoài ra, văn hóa ứng xử của doanh nghiệp còn góp phần xây dựng thái độ an tâm công tác, tạo hứng khởi làm việc trong toàn doanh nghiệp, xây dựng và củng cố tinh thần hợp tác, xây dựng văn hóa doanh nghiệp có bản sắc riêng. Văn hóa ứng xử của doanh nghiệp cũng góp phần tạo nên hình ảnh doanh nghiệp, giúp hình ảnh doanh nghiệp trở nền gần gũi, thân quen với đối tác, khách hàng, nâng cao úy tín và niềm tin với thị trường, hình thành nên nét khác biệt giữa các doanh nghiệp. Chính vì vậy, cần xây dựng và phát huy vai trò của văn hóa ứng xử ở mỗi doanh nghiệp./.

Văn hóa ứng xử luôn đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống. Không chỉ ảnh hưởng đến nhiều hoạt động cuộc sống đời thường mà còn đóng vai trò quan trọng quyết định đến sự thành công trong công việc. Chính vì thế văn hóa ứng xử luôn được coi là chìa khóa thành công. Khái niệm “văn hóa ứng xử”: Văn hóa là cơ sở hình thành cách thức giao tiếp, hành vi hay đúng hơn là văn hóa ứng xử của mỗi cá nhân trong cuộc sống. Văn hóa ứng xử là một lĩnh vực đời sống văn hóa sinh động, phong phú của con người diễn ra hàng ngày, luôn luôn gắn liền với sự tồn tại, phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó cũng chính là sức mạnh mềm làm nên nét đẹp và là chìa khóa thành công của mỗi người, mỗi dân tộc. Đối với mỗi cá nhân con người, văn hóa giao tiếp, ứng xử không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống đời thường hàng ngày, mà còn quyết định đến hiệu quả làm việc ở cơ quan và xã hội cũng như mức độ thành công trong sự nghiệp của người đó. Ví dụ như một cán bộ chuyên môn chưa giỏi, thậm chí chỉ ở mức trung bình mà biết giao tiếp, ứng xử hợp tác với đồng nghiệp một cách tốt đẹp, linh hoạt, nhạy bén thì có thể thu hái nhiều thành công hơn những người có thể khá về chuyên môn, nhưng kiêu ngạo, chủ quan, giao tiếp ứng xử kém và thiếu tinh thần hợp tác. Kỹ năng giao tiếp – văn hóa ứng xử thể hiện rõ rệt về năng lực trí tuệ, khả năng tư duy và ứng xử văn hóa của con người, bộc lộ khả năng của người đó trong thực tiễn cuộc sống công tác ở cơ quan, công sở cũng như trong gia đình, ngoài xã hội. Qua cách ứng xử của một con người, ta hiểu được bản chất của con người đó. Đây chính là mối quan hệ giữa nội dung [bên trong] và hình thức [bên ngoài] của một người.

Bài viết cùng chủ đề

  • Đắk Nông: Triển khai Chương trình về phòng, chống bạo lực gia đình trong tình hình mới đến năm 2025
  • Giáo dục đạo đức lối sống trong gia đình gắn với ứng xử văn hóa
  • Công tác tham mưu, xây dựng và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về gia đình tỉnh Bình Phước
  • Điện Biên: Tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị 49-CT/TW về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
  • Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống xâm hại trẻ em trên địa bàn tỉnh Bến Tre
  • Cần hướng tới sự thống nhất trong quan điểm và hành động về việc giáo dục truyền thống gia đình cho thế hệ trẻ

Hồ Chí Minh là “ Nhà chính trị chuyên nghiệp”, Người đã để lại cho chúng ta một di sản vô giá, trong đó có Phong cách ứng xử chính trị. Tuy nhiên, nghiên cứu phong cách ứng xử chính trị Hồ Chí Minh là một vấn đề khó, đòi hỏi chúng ta phải dựa trên hệ thống phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, phải khu biệt tương đối vấn đề nghiên cứu trong cả hệ thống phong cách của Người, làm rõ cách tiếp cận nghiên cứu và đòi hỏi sự trừu tượng hóa cao. Để có thể đưa ra được quan niệm ban đầu về vấn đề nghiên cứu, cần phải luận giải rõ các khái niệm như : Phong cách; Ứng xử; Chính trị…

1. Phong cách - Ứng xử : Có rất nhiều định nghĩa về phong cách - ứng xử, theo Giáo sư Đặng Xuân Kỳ, phong cách “ được hiểu theo nghĩa rộng là lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành nền nếp ổn định của một người hoặc một lớp người, được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt [nói và viết].…tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó” [1]. Như vậy, phong cách là những cái riêng độc đáo, có tính hệ thống, ổn định đặc trưng của chủ thể; Ứng xử “Là cách sống ở đời, cách xử lý những sự việc, với những con người trong cuộc đời, ở trên đời” [2]. Theo đó, “ Ứng xử chỉ có trong giao tiếp, được thể hiện bằng ngôn từ, cử chỉ, thái độ, phong thái, phong độ của chủ thể đối với đối tượng và chủ thể đối với bản thân mình trong quan hệ với đối tượng [3]. Như vậy, nói đến ứng xử là nói đến sự tương tác xã hội, được thể hiện thông qua việc giải quyết các mối quan hệ của con người, biểu hiện qua thái độ và hành vi của chủ thể với đối tượng. Ứng xử của chủ thể rất phong phú và đa dạng, trong đó có ứng xử trên lĩnh vực chính trị, tức là giải quyết các mối quan hệ chính trị” .

2. Chính trị : Là một lĩnh vực cơ bản của xã hội có giai cấp. Đó là “quan hệ giữa các giai cấp, các quốc gia, các dân tộc, các lực lượng xã hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước” [4]. Như vậy, phong cách ứng xử chính trị là những nét riêng tiêu biểu, có tính hệ thống, ổn định của một người hay nhóm người được thể hiện khi giải quyết các mối quan hệ chính trị, nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị [Trung tâm quyền lực Nhà nước] để thực hiện hóa các lợi ích của mình.

- Từ những luận giải trên, chúng ta có thể đưa ra quan niệm : “ Phong cách ứng xử chính trị Hồ Chí Minh là những nét riêng tiêu biểu, có tính hệ thống, ổn định của Người được thể hiện khi giải quyết các mối quan hệ chính trị, chủ yếu nhằm giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cũng cố, phát triển phong trào cách mạng và phong trào đấu tranh vì sự tiến bộ của nhân dân thế giới”. Như vậy, phong cách ứng xử chính trị Hồ Chí Minh là những nét riêng, có tính hệ thống, ổn định, tạo nên những nét độc đáo của nhà chính trị Hồ Chí Minh. Những nét đặc trưng đó, cho phép chúng ta có thể phân biệt được Hồ Chí Minh với các nhà lãnh tụ chính trị khác ở Việt Nam và trên thế giới trong giải quyết các mối quan hệ chính trị. Những mối quan hệ mà Người phải giải quyết được xem xét trên nhiều khía cạnh: Lãnh tụ của Đảng và của dân tộc, nguyên thủ quốc gia, chiến sĩ cách mạng quốc tế. Trên cơ sở đó, chúng ta nhìn nhận Hồ Chí Minh trong quá trình hoạt động chính trị với những cương vị cụ thể, để tìm ra những đặc trưng tiêu biểu, ổn định, có tính hệ thống tạo nên phong cách ứng xử chính trị của Người.

- Xét theo mối quan hệ, chính trị là một lĩnh vực rộng lớn gồm nhiều mối quan hệ khác nhau, tồn tại trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể, xác định. Những mối quan hệ đó có thể khái quát thành hai mối quan hệ chính là : Quan hệ chính trị đối nội [quan hệ bên trong] và quan hệ chính trị đối ngoại [quan hệ bên ngoài] hay nói cách khác là chính trị đối nội và chính trị đối ngoại. Đi sâu vào các vấn đề cụ thể, chúng ta thấy rằng, các mối quan hệ chính trị rất phong phú đa dạng và việc giải quyết chúng có liên quan trực tiếp đến việc giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị, trung tâm là quyền lực Nhà nước. Nhìn nhận vấn đề này, phải thấy rõ hai khía cạnh, thứ nhất là Hồ Chí Minh giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân mình với tập thể, dân tộc, với nhân loại; thứ hai là trên cơ sở là Lãnh tụ chính trị, nguyên thủ quốc gia, chiến sĩ cách mạng quốc tế, Hồ Chí Minh giải quyết các vấn đề có liên quan đến nhân dân, vận mệnh dân tộc, đất nước, vận mệnh loài người. Do đó, tiếp cận phong cách ứng xử chính trị Hồ Chí Minh phải có cái nhìn bao quát toàn diện về chính trị, trọng tâm là các mối quan hệ chính trị.

- Xem xét phong cách ứng xử chính trị Hồ Chí Minh phải nắm cái cốt lõi của chính trị và phải thấy được mục tiêu then chốt của Người là giành, giữ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, củng cố, phát triển phong trào cách mạng và phong trào đấu tranh vì sự tiến bộ của nhân dân thế giới. Hồ Chí Minh cùng với Đảng và nhân dân giành lấy quyền lực chính trị, tìm cách giữ và thực thi quyền lực để cứu nước, cứu dân, giành độc lập cho dân tộc, mưu cầu tự do, hạnh phúc cho nhân dân và con người, nhằm thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

* Với cách nhìn nhận nêu trên, thông qua khái quát hóa, trừu tượng hóa, phong cách ứng xử chính trị Hồ Chí Minh được biểu hiện rõ nét trong các đặc trưng sau:

1. Luôn vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân và sự tiến bộ của nhân loại

Cuộc đời Hồ Chí Minh là một hành trình không mệt mõi mưu cầu lợi ích cho Tổ quốc và hạnh phúc cho nhân dân. Trong mối quan hệ giữa cá nhân với đất nước, lãnh tụ với nhân dân, Hồ Chí Minh luôn sẵn sàng hiến dâng vì nước, vì dân không một chút so đo, tính toán. Người khẳng định: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó ” [5]. Chính cái xuất phát điểm và đích đến cho mọi ứng xử đó không làm cho Hồ Chí Minh rơi vào những suy tính tranh giành quyền lực cá nhân, bè phái. Điều đó có ý nghĩa quan trọng đối với việc đoàn kết trong Đảng, trong nước và quốc tế. Vì vậy, Hồ Chí Minh đứng cao hơn chúng ta, nhìn xa hơn chúng ta. Đối với Hồ Chí Minh, làm việc gì, dù ở đâu, là người công nhân làm thuê để tìm đường cứu nước hay trở thành chiến sĩ lỗi lạc trong phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, trở thành Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng thì Người đều yêu nhất là cái thiện, ghét nhất là cái ác và điều mong muốn nhất là độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc, nhân dân mình cũng như các dân tộc khác trên khắp hoàn cầu.

Trong ứng xử chính trị, Hồ Chí Minh không chỉ vì lợi ích của dân tộc mình mà Người còn quan tâm đến lợi ích của dân tộc khác. Hồ Chí Minh không chỉ cảm nhận nổi đau mất nước của đồng bào mình, dân tộc mình mà Người còn chỉ ra nguồn gốc khổ đau của nhân dân lao động trên thế giới, điều đó trở thành máu thịt trong con người Hồ Chí Minh. Để rồi, từ khi nhận thức được vấn đề, đến khi về thế giới người hiền, Hồ Chí Minh đã kiên trì đi theo con đường cách mạng, lật đổ chủ nghĩa đế quốc, giải phóng con người. Hồ Chí Minh là của dân tộc Việt Nam nhưng cũng là của nhân loại, là niềm tự hào của nhân loại trong quá trình đấu tranh để giải phóng mình, mà trước hết là giành lấy những quyền mà “không ai chối cãi được”.

2. Bao quát toàn diện cục diện chính trị, nắm vững then chốt, ứng xử chủ động, linh hoạt, sáng tạo, thiết thực

Là một nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp, từng trải trong thực tiễn, có vốn hiểu biết sâu sắc, Hồ Chí Minh hiểu rất rõ tầm quan trọng của việc ứng xử chính trị. Vì thế, giải quyết các mối quan hệ chính trị, trong bất cứ tình huống nào, Người cũng đặt nó trong tính toàn diện để xem xét, đánh giá tác động của từng mối quan hệ tới cục diện chung để cân nhắc, xử lý. Toàn diện trong ứng xử chính trị Hồ Chí Minh là ở cả hai chiều không gian [mối quan hệ giữa các lực lượng, các yếu tố và các bộ phận ] và thời gian [quá trình phát sinh, phát triển và biến đổi qua các giai đoạn]. Hay nói một cách khác, toàn diện trong tính chỉnh thể của các mặt và quá trình phát triển của hiện tượng, của từng vấn đề chính trị. Do đó, ứng xử chính trị Hồ Chí Minh có tính thuyết phục cao, không rơi vào phiến diện, luôn sáng tỏ, nhất quán. Mặc dù ứng xử trong tính toàn diện, nhưng Hồ Chí Minh luôn nắm được khâu then chốt, điểm then chốt của vấn đề, giữ vững cái then chốt, dựa trên cái then chốt để ứng xử linh hoạt, thiết thực, phù hợp với tình hình thực tế và khả năng có thể của đất nước và nhân dân. Người luôn đặt đại cục lên trên hết, trước hết, giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc, những vẫn đề có tính sống còn của sự nghiệp cách mạng. Với Người, chỉ cần điều gì có lợi cho dân, cho nước dù nhỏ cũng phải làm, những điều gì có hại cho dân, cho nước thì dù nhỏ cũng phải tránh. Chính vì nắm được những điểm căn bản đó nên trong ứng xử chính trị, Hồ Chí Minh không cứng nhắc, máy móc mà rất sáng tạo, hòa quyện tuyệt với giữa tính khoa học, cách mạng, nghệ thuật và nhân văn. Trong ứng xử chính trị, Hồ Chí Minh luôn thấm nhuần tinh thần của phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tinh thần biện chứng phương Đông và dường như thấy ở đó sự thực hiện tài tình lời cảnh báo của Lãnh tụ V.I. Lênin : “ Đối với một người cách mạng chân chính thì mối nguy hiểm lớn nhất, thậm chí có thể là mối nguy hiểm duy nhất là phóng đại tinh thần cánh mạng, là quên mất những giới hạn và những điều kiện của một sự vận dụng có kết quả và thỏa đáng những phương pháp cách mạng” [6]. Bởi vậy, với Hồ Chí Minh “chẳng có việc gì là không thể đổi mới” và bản thân cách mạng cũng là thay cũ đổi mới; do đó, không nên sợ cái mới. Cái gì mới thì lúc đầu cũng lạ, nhưng sau rồi quen. Cách mạng là tiến công nhưng cũng phải biết lùi khi tình thế bắt buộc phải lùi, nhưng đó là cái lùi chủ động và có kế hoạch, lùi trong trật tự. Và chính điều đó đem lại cho chúng ta một thời cơ tạm nghỉ, một sức dự trữ để cho ta có thể đứng vững được về mặt vật chất và tinh thần để rồi tiến.

3. Lấy cái tương đồng để khắc chế các dị biệt, luôn hướng tới hài hòa

Một vấn đề có tính nguyên tắc trong ứng xử chính trị Hồ Chí Minh là luôn tìm kiếm những điểm tương đồng, nâng những điểm tương đồng lên, dùng những điểm tương đồng để khắc chế cái dị biệt, lấy lợi ích chung của dân tộc để cố kết các thành phần, các lực lượng xã hội, thay vì khoét sâu sự khác biệt, chấp nhận sự khác biệt nhưng không để vì nó mà đi đến chia rẽ, mất đoàn kết. Người luôn cố gắng để giữ cho lực lượng cả dân tộc luôn hướng tâm, đồng lòng cùng với hạt nhân lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, Hồ Chí Minh không bao giờ có kiểu ứng xử là chỉ biết bênh vực lớp này, chống lại lớp khác, không chia bè, kết phái mà luôn biết làm cho các tầng lớp nhân nhượng lẫn nhau, hòa thuận với nhau, gắn kết với nhau để tạo nên sự đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh.

Là Lãnh tụ chính trị, Hồ Chí Minh luôn hướng mọi người đến mục tiêu mà ở đó hội tụ vận mệnh của tất cả, hạnh phúc của tất cả; đồng thời, biết thực hiện mục tiêu đó bằng những hành động hàng ngày. Mặc dù nhấn mạnh đến điểm tương đồng, lấy cái tương đồng để khắc chế cái dị biệt, nhưng không phải là thủ tiêu cái dị biệt, mà chỉ hạn chế những cái dị biệt dẫn đến phá vỡ đại cục hoặc hạn chế sức mạnh chung. Trong ứng xử chính trị, Hồ Chí Minh luôn tôn trọng sự khác nhau, xem sự khác nhau đó là chuyện bình thường và dễ hiểu. Những lực lượng khác nhau đều có những đặc điểm riêng của mình, có đời sống riêng trong cộng đồng và nếu đồng hành, đóng góp vào sức mạnh của dân tộc đều được Người rất trân trọng. Chỉ có cái riêng nào đi trái với quyền lợi của dân tộc, lợi ích của nhân dân mới bị Người lên án và phê phán. Bởi vậy, ứng xử của Hồ Chí Minh cũng rất hài hòa. Người không rơi vào thái quá hay bất cập, quá tả hay quá hữu. Người biết tìm ra điểm cân bằng và hành động trong khoảng cân bằng giữa các thái cực khác nhau, theo những cách khác nhau rất sáng tạo, đó là điều mà không phải lãnh tụ chính trị nào cũng làm được.

4. Chú trọng giải quyết những vấn đề của thực tại nhưng luôn hướng tới tương lai, suy tính cho tương lai, tin tưởng vào tương lai

Trong lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh quan tâm và tập trung giải quyết những vấn đề nóng bỏng đang đặt ra của tình hình đất nước và mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước. Đồng thời, Người luôn thận trọng trong nhìn nhận và đánh giá tình hình thực tế của cách mạng. Kiên quyết, triệt để nhưng không phải là phiêu lưu, mạo hiểm. Hồ Chí Minh là người luôn nắm chắc tình thế, nhạy cảm với từng biến đổi nhỏ nhất của tình hình chính trị. Trong từng điều kiện cụ thể, Người luôn nắm rõ tương quan so sánh lực lượng, chiều hướng phát triển của tình hình để giải quyết những vấn đề nóng bỏng, bảo đảm giữ được những lợi ích căn bản, thành quả căn bản nhất, đồng thời, chờ thời cơ và thúc đẩy thời cơ, khi có điều kiện sẽ chủ động giải quyết ở một mức độ cao hơn. Cách giải quyết các mối quan hệ chính trị của Hồ Chí Minh là luôn đặt trong một tổng thể chung lâu dài. Mỗi ứng xử chính trị cụ thể trong những hoàn cảnh nhất định chỉ là một bước đi để đạt tới mục tiêu lâu dài của dân tộc, nhân dân và nhân loại. Trong từng bước đi đó, có bước ngắn, bước dài, có lúc phải bước sang ngang hoặc thậm chí bước lùi tạm thời, nhưng luôn được đặt trong chiến lược tổng thể, là những sách lược cụ thể để đạt được mục tiêu chiến lược. Người không chỉ là nhà sách lược mà còn là nhà chiến lược có tầm nhìn thời đại, nên không dừng lại ở những vấn đề trước mắt, lợi ích trước mắt mà Hồ Chí Minh luôn suy tính cho tương lai, mở cách cửa cho tương lai, không vì những bất đồng trước mắt mà khép lại tất cả những đối thoại sau này.

Người căn dặn: “ Làm chính trị…phải chín chắn, thận trọng, phải cân nhắc những hậu quả có thể xảy ra của từng bước đi. Thật không phải vô cớ mà người ta nói rằng rút dây động rừng” [7]. Ngay trước khi về với thế giới người hiền, Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một bản Di chúc bất hủ. Qua đó, ta thấy được cách ứng xử chính trị của Người, Người luôn trù tính lo xa cho tương lai. Ở đó chứa đựng những lời căn dặn về cách ứng xử của một con người đã suốt đời đấu tranh cho cách mạng. Di chúc cũng là một cương lĩnh xây dựng đất nước sau chiến tranh, về những việc lớn, về những vấn đề cơ bản cần phải làm để thực hiện mục tiêu cách mạng.

5. Lấy nhân hòa làm trung tâm, lấy nhân văn làm nền tảng cho ứng xử chính trị

Khi nhận thức và giải quyết các vấn đề chính trị, Hồ Chí Minh luôn xem xét trong mối quan hệ biện chứng giữa ba yếu tố cơ bản nhất là thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Tuy nhiên, vị trí, vai trò của các nhân tố đó không ngang bằng nhau. Trong đó, theo Hồ Chí Minh thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa. Nhân hòa là quan trọng nhất, nhân hòa là mọi người đều nhất trí. Do vậy, trong ứng xử chính trị của mình Hồ Chí Minh luôn tìm cách để tạo lập nhân hòa, duy trì nhân hòa, không chỉ nhân hòa ở trong nước mà còn là nhân hòa ở tầm quốc tế. Không chỉ là sự tin tưởng đồng tâm hiệp lực của nhân dân, mà còn là sự tin tưởng, nhất trí, ủng hộ cách mạng Việt Nam của bạn bè và nhân dân tiến bộ trên thế giới; Làm cho mọi người nhất trí, mọi người ủng hộ cách mạng là một nét đặc trưng xuyên suốt, nhất quán trong phong cách ứng xử chính trị Hồ Chí Minh. Mọi hành động của Người đều thu hút và gắn kết nhân dân một cách kỳ lạ, đến với Người ai cũng tìm thấy cái tốt trong mình để phát huy và chủ động khắc phục cái chưa hoàn thiện. Hồ Chí Minh luôn lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của dân để phục vụ dân tốt hơn, để giải quyết những khó khăn của dân. Người sẵn sàng nhận lỗi trước Đảng, trước nhân dân với tư cách là người đứng đầu để xảy ra nhưng sai lầm khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo và nhờ nhân dân đóng góp để sửa chữa những sai lầm. Là một người suốt đời vì dân, Hồ Chí Minh đau xót trước những mất mát của nhân dân, nhất là những mất mát do sai lầm chủ quan của đội ngũ cán bộ, đảng viên gây ra.

Nếu như tạo lập nhân hòa trong nền chính trị trước đây về cơ bản là thủ đoạn chính trị của các thế lực cầm quyền, thì tạo lập nhân hòa ở Hồ Chí Minh lại mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Nó không phải là một thủ đoạn chính trị nhất thời, mà là một chiến lược xuyên suốt, dựa trên một nền tảng nhân văn cao cả, chung quy lại là tin tưởng con người, phát huy sức mạnh của con người để giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, khổ đau, để họ được tự do và sống một đời hạnh phúc. Đó là nền tảng của chính trị Hồ Chí Minh và cũng là nền tảng ứng xử của Người. Chỉ khi đứng trên một nền tảng nhân văn vững chắc thì ứng xử chính trị mới thực sự giữ vững định hướng, chính trị đó mới thực sự cách mạng, chỉ mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc, cho nhân dân và con người mà không rơi vào những vun vén cho lợi ích và quyền lực cá nhân. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, ứng xử chính trị Hồ Chí Minh cũng không rời xa nền tảng nhân văn cao cả đó. Bởi vậy, ứng xử chính trị của Người khoan dung, bao dung nên công bằng với con người, đối xử đúng dắn với mặt mạnh và mặt hạn chế, cái hay và cái dở của từng người và hướng mỗi con người đến sự hoàn thiện của Chân - Thiện - Mĩ.

6. Phát huy dân chủ, tôn trọng nguyên tắc, đề cao đoàn kết, cầu thị

Trong giải quyết các vấn đề chính trị, Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc phát huy dân chủ, lắng nghe ý kiến đóng góp từ các bộ phận có liên quan rồi mới ra quyết định. Dù xét về quyền lực, Người giữ chức vụ cao nhất trong bộ máy Đảng và Nhà nước, xét về uy tín, Hồ Chí Minh có uy tín tuyệt đối. Với cương vị đó, quyền hạn đó, đối với người khác rất dễ xảy ra độc đoán, chuyên quyền, tệ sùng bái cá nhân. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không như vậy, Hồ Chí Minh là người rất quyết đoán nhưng không áp đặt, luôn tôn trọng ý kiến người khác, thuyết phục họ bằng lý lẽ khoa học, văn hóa, đạo đức, cách ứng xử mệnh lệnh, quan liêu hoàn toàn xa lạ với Hồ Chí Minh; Là lãnh tụ, Người luôn gương mẫu làm việc theo nguyên tắc của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Bởi vì, theo Người : “ Phát huy dân chủ chính là chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết các vấn đề, làm cho ai cũng thấy mình được tham gia, được tôn trọng, được lắng nghe, bởi vậy sẽ thấy trách nhiệm của mình trong các quyết định của tập thể và tích cực thực hiện các quyết định của tập thể khi được thông qua. Mặt khác, phát huy dân chủ là con đường nhanh nhất để tìm ra chân lý và cũng là cách để tìm ra kế sách giải quyết các vấn đề chính trị nảy sinh trong thực tiễn một cách đúng đắn, chính xác, tránh được những sai lầm không đáng có.

Việc phát huy dân chủ ở Hồ Chí Minh luôn có nguyên tắc và luôn theo nguyên tắc. Bản thân việc phát huy dân chủ cũng là một vấn đề có tính nguyên tắc trong ứng xử chính trị của Hồ Chí Minh. Trong chính trị, Người đặc biệt đề cao sự đoàn kết, đoàn kết được Người xem như một chiến lược xuyên suốt trong hoạt động chính trị. Với Người, đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là lực lượng, đoàn kết “ cũng là điểm mẹ” mà thực hiện tốt “ thì đẻ ra con cháu đều tốt” [8]. Đoàn kết càng rộng, càng sâu, càng chắc chắn thì thành công càng lớn. Bởi vậy, trong mỗi ứng xử chính trị của mình, Hồ Chí Minh luôn thể hiện rõ tinh thần đoàn kết, đoàn kết trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Hồ Chí Minh mong muốn làm bạn bè với tất cả các nước, không gây thù oán với một ai.

7. Đề cao sự trung thành và trong sạch; thương yêu, kính trọng, tin tưởng nhân dân

Trong ứng xử chính trị, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao lòng trung thành. Cả cuộc đời Người trước sau như một, đều một một lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng nhằm giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho người. Người đã tuyên bố trước quốc dân đồng bào : “ Tôi thà chết chứ không bao giờ bán nước” [9]. Chưa bao giờ và vì bất cứ lý do gì mà Hồ Chí Minh xa rời mục tiêu đó. Đối với Hồ Chí Minh đạo đức cách mạng cao nhất là trung thành với sự nghiệp cách mạng, dù gặp bất kỳ khó khăn, gian khổ, dù phải hi sinh cả tính mạng cũng phải giữ vững tinh thần và khí tiết, tuyệt đối không được phản bội Tổ quốc, phản bội nhân dân. Ứng xử chính trị Hồ Chí Minh luôn gắn bó chặt chẽ và thống nhất với đạo đức, đạo đức thống nhất với việc thực hiện mục tiêu cao cả của chính trị. Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, đó là chính trị nhưng đồng thời cũng là đạo đức, do đó, bảo vệ sự nghiệp chính trị cao cả cũng là biểu hiện của đạo đức cao nhất.

Hồ Chí Minh đặc biệt yêu thương, kính trọng, tin tưởng nhân dân, xem dân là gốc, lấy dân làm gốc, là nền tảng thắng lợi của cách mạng. Điều này biểu hiện mối quan hệ giữa lãnh tụ chính trị với nhân dân, một mối quan hệ cơ bản thể hiện bản chất của của chế độ chính trị, lột tả được nhân cách lãnh tụ chính trị. Hồ Chí Minh chỉ xem mình là một người đầy tớ phục vụ nhân dân, một người lính vâng mệnh quốc gia ra trận. Hồ Chí Minh gắn bó với cuộc sống nhân dân, luôn đi sâu, đi sát vào đời sống nhân dân,lắng nghe được tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp, những lời phê bình chân thành từ nhân dân. Người luôn biết lắng nghe nhân dân để lãnh đạo, biết học hỏi từ trong nhân dân để phục vụ nhân dân tốt hơn. Hồ Chí Minh hòa mình vào nhân dân để rồi biết tập hợp, động viên và phát huy sức mạnh của nhân dân. Hồ Chí Minh là người của nhân dân và nhân dân lấy Người làm điểm tựa, làm niềm tin, làm động lực và hi vọng vào tương lai của mình. Do đó, Người trở thành biểu tượng cao đẹp nhất của một nền chính trị mới. Hồ Chí Minh đã “ Thức tỉnh kẻ u mê, ân cần đỡ dậy người trượt ngã, biến vạn ức người dân bình thường thành anh hùng vô danh và hữu danh trong lao động, trên chiến trường, trong ngục tối, trước máy chém” [10]

8. Chân thành nhưng tỉnh táo, kiên quyết nhưng bình tĩnh, lịch lãm và tự chủ, biết mình, biết người

Đây là nét đặc trưng trong ứng xử chính trị đối ngoại của Hồ Chí Minh. Khi giải quyết các mối quan hệ, Người luôn hết sức chân thành, không giấu giếm ý định và mục đích của mình, trình bày nó một cách công khai, với một tình cảm nồng nhiệt. Tuy nhiên, sự chân thành ở Hồ Chí Minh là sự chân thành của một bậc trí tuệ thấu suốt lẽ đời và lòng người. Bởi thế, sự chân thành của Người luôn đi liền với sự tỉnh táo. Người nhận thức rõ đâu là giới hạn của vấn đề, phải làm gì, dựa vào ai để đạt được mục đích của mình. Sự tỉnh táo ở Hồ Chí Minh là dựa trên sự phân tích khoa học những vấn đề chính trị, trên cơ sở hiểu rõ thời thế cũng như thái độ và tính toán của các quốc gia, các lực lượng có liên quan tới cách mạng Việt Nam và sức mạnh của dân tộc, nhân dân Người. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Muốn thành công phải biết trước mọi việc”. Tỉnh táo để thực hiện được mục đích, tỉnh táo để biết rõ mưu mô của nước cừu địch, để vượt qua khó khăn và cả trong chiến thắng”; Trong bất kỳ tình huống nào, Hồ Chí Minh đều giữ được sự điềm tĩnh lạ thường, điềm tĩnh trước phong ba, sóng gió để tìm hướng đi, cách đi đúng cho cách mạng Việt Nam, tìm ra những biện pháp để giải quyết hợp lý các vấn đề chính trị. Chính sự hiểu biết sâu rộng, cùng với trải nghiệm thực tiễn và trí tuệ mẫn tiệp của mình trong một bản lĩnh kiên cường đã khiến cho Hồ Chí Minh thống nhất được hai thái cực kiên quyết và bình tĩnh trong những ứng xử chính trị của mình một cách hoàn hảo.

* Quan việc nghiên cứu, tìm hiểu đặc trưng phong cách ứng xử Hồ Chí Minh để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh,phản bác quan điểm sai trái,thù địch của các thế lực thù địch trong tình hình mới chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Thứ nhất, Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có bản lĩnh, lập trường kiên định, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên sao cho thực sự là “công bộc” của Nhân dân. Người đánh giá cao vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức trong sự nghiệp cách mạng và chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”; Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là người đứng đầu phải: Hiểu rõ và đánh giá đúng cán bộ. Hiểu rõ và đánh giá đúng cán bộ mới bố trí và sử dụng đúng cán bộ, mới phát hiện đúng ai là cán bộ tốt, ai là cán bộ xấu, ai là người có tài, ai là kẻ bất tài; mới kích thích mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực trong con người cán bộ;… Muốn đánh giá đúng cán bộ phải căn cứ vào những chuẩn mực nhất định, những chuẩn mực đó có thể thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Như trong cách mạng dân tộc dân chủ, nhiệm vụ hàng đầu của người cán bộ là nêu gương trong cuộc đấu tranh giữa cái sống và cái chết, phấn đấu hy sinh để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc; trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ hàng đầu của người cán bộ là cống hiến hết sức mình cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; ngày nay, cán bộ phải là người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới, có thái độ đúng đắn đối với công cuộc đổi mới, có kiến thức và năng lực thực hiện đường lối đổi mới. Vì vậy, công việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên được coi là “ then chốt của then chốt”càng cần được coi trọng hơn bao giờ hết, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy ý chí và quyết tâm phát triển đất nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh công tác đấu tranh, phòng chống các âm mưu, hoạt động chống phá của thế lực thù địch.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “thiết lập thế trận an ninh liên hoàn bên trong với bên ngoài biên giới quốc gia và trên không gian mạng; đặc biệt coi trọng an ninh mạng” Thực tiễn cho thấy, hiện nay Việt Nam có hơn 60 triệu người dùng internet, đây là điều kiện thuận lợi để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tiến hành các hoạt động tuyên truyền, phá hoại. Yêu cầu đặt ra trong thời gian tới, chúng ta cần chủ động trong công tác nắm tình hình, nhận diện những mưu đồ, hoạt động chống phá của thế lực thù địch trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội; tuyệt đối không để bị động, bất ngờ trong bất kỳ mọi tình huống. Kịp thời phát hiện, bóc gỡ, xử lý nghiêm những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng; “bóp nát từ trong trứng nước” những âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá, bạo loạn, khủng bố của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, tàn dư chế độ cũ Việt Nam Cộng hòa trong và ngoài nước. Tuyệt đối không để các thế lực thù địch có cơ hội, điều kiện lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để khoét sâu, thổi phồng những vấn đề tiêu cực của xã hội, tuyên truyền những giá trị “ảo” của Phương Tây, gây chia rẽ nội bộ, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá vỡ niềm tin của Nhân dân vào Đảng và Nhà nước.

Thứ ba, chủ động cung cấp thông tin định hướng nhận thức tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, internet, mạng xã hội đã trở thành nhu cầu thiết yếu trong đời sống con người; tác động trực tiếp và mạnh mẽ làm thay đổi nhận thức, hành vi của mỗi cá nhân nói riêng, đến sự ổn định và phát triển của xã hội nói chung. Tận dụng những lợi thế về phạm vi, đối tượng sử dụng không gian mạng, các thế lực thù địch tăng cường các thông tin xuyên tạc, bịa đặt chống phá Đảng, Nhà nước ta. Vì vậy, các cơ quan chức năng phải nhạy bén, kịp thời, chủ động cung cấp thông tin theo luật An ninh mạng và Quy chế phát ngôn, nhất là các vấn đề liên quan đến bí mật Quốc gia. Đối với các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, phạm vi tác động, ảnh hưởng lớn, lãnh đạo các cấp cần chỉ đạo cơ quan chức năng bám sát định hướng của cấp trên, chủ động xây dựng các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn tạo sự đồng thuận cao trong các cơ quan, đơn vị và nhân dân. Cơ quan thường trực ban chỉ đạo các cấp cần tập trung biên soạn các tài liệu, chuyên khảo, tham khảo làm tài liệu tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, kỹ năng cho lực lượng đấu tranh trên không gian mạng. Ở từng cấp, cần duy trì tốt nền nếp chế độ hội ý cung cấp thông tin, định hướng nội dung, thống nhất biện pháp đấu tranh. Trong đó, cần chỉ rõ mục tiêu, luận điểm chống phá của các thế lực thù địch trong các tin, bài; cung cấp luận cứ đấu tranh phản bác, làm cơ sở cho lực lượng viết bài tham gia đấu tranh.

Thứ tư, ứng dụng các phương tiện, kỹ thuật hiện đại vào đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên không gian mạng.Các ngành liên quan theo chức năng, nhiệm vụ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, internet trong đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên không gian mạng. Khai thác, sử dụng các phần mềm quản lý đấu tranh và hỗ trợ các hoạt động đấu tranh trên không gian mạng, thực hiện các chiến dịch truyền thông. Đấu tranh phòng, chống các quan điểm, sai trái, thù địch bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên không gian mạng hiện nay là cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt, gay gắt, lâu dài và vô cùng phức tạp. Các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên,công chức, viên chức cần thực hiện đồng bộ các giải pháp đấu tranh hiệu quả, thiết thực góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình', "bạo loạn lật đổ" của các thế lực thù địch.

Phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại cho dân tộc ta, trong đó có phong cách ứng xử của Người. Giá trị của những luận điểm, tư tưởng trong phong cách ứng xử Hồ Chí Minh đã trở thành cơ sở cho việc hoạch định đường lối cách mạng đúng đắn, là một trong nhưng nhân tố có tính nền tảng, tiền đề, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Kế thừa và phát huy những giá trị của phong cách ứng xử Hồ Chí Minh trong xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức hiện nay là việc làm có ý nghĩa thiết thực góp phần nâng cao nhận thức về những giá trị to lớn trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung và phong cách ứng xử của Người nói riêng. Nó góp phần xây dựng và phát triển phẩm chất, năng lực, phong cách công tác, phong cách làm việc, phong cách ứng xử của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác, vừa tăng cường nhận thức để có những tư duy đúng, hành động đúng góp phần thực hiện tốt Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị khẳng định: “Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân...”.

Nguyễn Phú Vinh

[1] Đặng Xuân Kỳ [Chủ biên, 1997], Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.154.

[2] Nguyễn Văn Khoan [1995], Bao dung Hồ Chí Minh, Nxb. Lao động, Hà Nội, tr.62.

[3] Đặng Xuân Kỳ [Chủ biên, 1997], Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.218.

[4] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh [Viện Khoa học chính trị], Tập bài giảng chính trị học, NXB. Lý luận chính trị, HN, 2004, tr8.

[5] Hồ Chí Minh [2011], Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 4, tr.272.

[6] V.I.Lênin [2006], Toàn tập, tập 44, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.276.

[7] E.Côbêlép [2010], Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr.385.

[8] Hồ Chí Minh [2011], Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 10, tr.589.

[9] Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh [1993], Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.159.

[10] Nguyễn Văn Khoan Trần Văn Giàu [2009], Vĩ đại một con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.82-83.

Văn hóa ứng xử có vai trò gì?

Văn hóa ứng xử thể hiện trí tuệ, khả năng ứng biến, tư duy của con người trong thực tế cuộc sống. Từ xa xưa, khả năng giao tiếp với văn hóa đã được ông cha ta coi là thước đo nhân cách, đạo đức của một con người: “Lửa thử vàng, lấy tiếng thử than, chữ hiền thử người”.

Hành vi ứng xử có văn hóa là gì?

Hành vi ứng xử văn hóa là những biểu hiện hoạt động bên ngoài của con người, được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ và cách ứng xử của con người đối với bản thân, với những người chung quanh, trong công việc và môi trường hoạt động hằng ngày.

Biểu hiện văn hóa ứng xử là gì?

Văn hoá ứng xử là các giá trị cốt lõi để giải quyết vấn đề từ các vấn đề đơn giản cho đến phức tạp. Văn hoá ứng xử sẽ được thể hiện thông qua lời nói, cử chỉ, hành vi, tốc độ xử lý vấn đề, v.v. Văn hoá ứng xử cũng thể hiện tính cách của một người nào đó.

Thế nào là văn hóa ứng xử trọng cộng đồng?

Ứng xử nơi công cộng là sự giao tiếp của con người với nhau và ý thức của mỗi người đối với môi trường sống. Khi xã hội càng phát triển thì con người càng phụ thuộc vào nhau. Vì vậy, sống và giao tiếp trong cộng đồng, mọi người phải biết “cảm ơn” và “xin lỗi” một cách chân thành.

Chủ Đề