Thuốc ức chế miễn dịch là gì

SKĐS -SKĐS -Nhiều người mắc bệnh tự miễn như lupus ban đỏ, viêm khớp dạng thấp... băn khoăn, các thuốc ức chế miễn dịch có làm giảm hiệu lực của vắc xin COVID-19?

Trong làn sóng đại dịch COVID-19, nhiều người vừa tuân thủ phòng chống dịch theo khuyến cáo tiêm vắc xin, nhưng cũng vừa phải điều trị các bệnh mạn tính đang mắc như viêm khớp dạng thấp, viêm tuyến giáp tự miễn, bệnh lupus ban đỏ hệ thống, được cấy ghép nội tạng.... Điều này có ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả của vắc xin COVID-19 ?

Thuốc ức chế miễn dịch làm suy yếu hệ thống miễn dịch, có làm giảm đáp ứng của cơ thể đối với vaccine COVID-19?

Một nghiên cứu mới ở Hoa Kỳ [5/2021] phân tích dữ liệu bệnh nhân từ hơn 3 triệu người có hồ sơ bảo hiểm y tế, cho thấy, gần 3% người Mỹ trưởng thành dưới 65 tuổi dùng thuốc làm suy yếu hệ thống miễn dịch. Nghiên cứu được công bố trên JAMA Network Open, tập trung vào các bệnh nhân phải dùng thuốc ức chế miễn dịch, bao gồm thuốc hóa trị và corticosteroid như prednisone, dexamethasone.

Dữ liệu cho thấy hai phần ba số bệnh nhân này đã dùng thuốc uống corticosteroid ít nhất một lần, và hơn 40% dùng corticosteroid hơn 30 ngày trong một năm. Những loại thuốc này có thể làm giảm hiệu quả của vắc xin đồng thời làm tăng nguy cơ mắc bệnh COVID-19.

Người bệnh lupus ban đỏ hệ thống và người bệnh viêm đa khớp dạng thấp thường phải dùng các thuốc ức chế miễn dịch.

Hầu hết các nghiên cứu về hiệu quả của vaccine COVID-19 trên những người bị ức chế miễn dịch tập trung vào nhóm bệnh nhân cấy ghép nội tạng. Theo một nghiên cứu khác cũng ở Hoa Kỳ trên 658 bệnh nhân cấy ghép nội tạng, được tiêm hai liều vắc xin COVID-19 mRNA, cho thấy, chỉ 15% bệnh nhân có kháng thể chống lại vi rút sau lần tiêm vắc xin đầu tiên. Sau liều thứ hai, tỷ lệ này là 54%.

Thuốc ức chế miễn dịch là những thuốc có tác dụng ức chế hoặc ngăn chặn hoạt động của hệ thống miễn dịch trong cơ thể, nhằm: Giảm các phản ứng đào thải của cơ thể đối với các cơ quan cấy ghép;ngăn chặn sự tấn công của hệ miễn dịch lên chính các mô tế bào của cơ thể trong các bệnh tự miễn như lupus ban đỏ hệ thống, viêm đa khớp dạng thấp, viêm gan tự miễn, bệnh vẩy nến, đa xơ cứng...; ngoài ra còn điểu trị để điều trị một số bệnh viêm nhưng không tự miễn khác như viêm cột sống dính khớp, hen phế quản.

Thật không may, chính những thuốc ức chế miễn dịch cũng làm giảm khả năng đáp ứng của hệ thống miễn dịch đối với những tác nhân lạ xâm nhập vào cơ thể, như vi khuẩn và vi rút, các kháng nguyên có trong vắc xin như vắc xin COVID-19 chẳng hạn. Điều này giải thích vì sao hệ thống miễn dịch cơ thể đáp ứng không đầy đủ với vắc xin COVID-19 và tạo ra một lượng kháng thể thấp. Nghiên cứu còn cho thấy, một số loại thuốc ức chế miễn dịch có ảnh hưởng lớn hơn đến phản ứng với vắc xin so với những loại khác.

Người bị suy giảm miễn dịch do dùng thuốc ức chế miễn dịch có nên tiêm vắc xin COVID-19 ?

Người bị suy giảm miễn dịch có nguy cơ cao bị biến chứng nặng do COVID-19, bao gồm những người có bệnh lý nền như ung thư và đái tháo đường, người sử dụng corticosteroid hoặc các loại thuốc làm suy giảm miễn dịch khác. Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng virus SARS-CoV-2 có thể tồn tại lâu hơn ở những người bị ức chế miễn dịch, vì hệ thống miễn dịch của họ tạo ra phản ứng yếu hơn đối với vắc xin.

Do vậy, một số nhà nghiên cứu đề xuất, người bệnh chỉ nên sử dụng corticosteroid trước và sau tiêm vắc xin COVID-19 khoảng 2 tuần. Có thể dùng các thuốc giảm đau thay thế khác trong điều trị viêm khớp dạng thấp để hạn chế ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch của cơ thể.

Dù thế nào, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ [CDC] vẫn khuyến cáo những người bị suy giảm miễn dịch nên tiêm phòng vắc xin COVID-19. Và hơn ai hết, họ cần tiếp tục tuân thủ nghiêm ngặt những biện pháp phòng ngừa [ đeo khẩu trang, giữ khoảng cách với người khác và không tụ tập, rửa tay thường xuyên...] trước và sau khi đã tiêm vắc xin COVID-19.

Thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch [ICIs] là một loại thuốc ức chế miễn dịch được sử dụng trong điều trị một số bệnh ung thư. ICIs ức chế hệ thống thụ thể - chất gắn [gọi là điểm kiểm soát miễn dịch – immune checkpoints], cho phép tế bào lympho T chống lại các tế bào ung thư.

Các biến cố bất lợi liên quan đến miễn dịch [irAEs] [tác dụng tự miễn] có thể xảy ra bất kỳ thời điểm nào trong quá trình sử dụng ICIs, thậm chí ở khoảng thời gian vài tháng sau khi ngừng thuốc. Việc xác định sớm và có biện pháp để xử trí các irAEs là rất cần thiết để đảm bảo sử dụng ICI an toàn.

Trung tâm theo dõi phản ứng có hại của thuốc New Zealand [CARM] đã nhận được một báo cáo bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo đường type 1 sau khi sử dụng pembrolizumab.

Tổng quan về thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch [ICI]

- Thông thường, hệ miễn dịch sẽ sử dụng phối hợp các đồng thụ thể ức chế/ kích thích với chất gắn tương thích của chúng [gọi là điểm kiểm soát miễn dịch] nhằm bảo vệ cơ thể khỏi nhiễm trùng, rối loạn hệ thống tự miễn và dị ứng. Hai điểm kiểm soát miễn dịch chính được xác định là thụ thể tế bào lympho T-4 [CTLA-4] và thụ thể death-1 [PD-1] cùng chất gắn tương thích là PD-L1. Các điểm kiểm soát miễn dịch này cho phép hệ miễn dịch nhận diện và phân biệt giữa tế bào của cơ thể và mầm bệnh ngoại sinh.

- Tuy nhiên, các tế bào ung thư có thể phát triển cơ chế “trốn tránh” điểm kiểm soát miễn dịch này và trở nên khó kiểm soát. Cụ thể, các tế bào ung thư có thể tác động đến hoạt động của các điểm kiểm soát này [tăng biểu hiện PD-L1] dẫn đến ức chế hoạt động của tế bào T, do đó làm suy yếu khả năng chống lại ung thư của cơ thể.

- Các thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch [ICI] là các kháng thể đơn dòng có khả năng “mở khóa” các điểm kiểm soát miễn dịch. Cơ chế này giúp kích thích hệ miễn dịch của cơ thể [tăng hoạt động của tế bào T] giúp nhận biết và chống lại các tế bào ung thư. Một số ICI được chỉ định để điều trị bệnh ung thư tiến tiển hoặc di căn, bao gồm pembrolizumab, durvalumab, atezolizumab, nivolumab và ipilimumab.

Các biến cố bất lợi liên quan đến miễn dịch [irAEs]

- Với tác dụng nhắm trúng đích, thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch ICI đã phần nào loại bỏ đi một trong những hàng rào bảo vệ của hệ miễn dịch. Chúng tăng cường hoạt động của tế bào lympho T nhằm chống lại các tế bào ung thư, và đồng thời cũng có thể làm tăng nguy cơ gây hại các tế bào khỏe mạnh bình thường của cơ thể, từ đó gây nên các biến cố bất lợi liên quan đến miễn dịch.

- Các phản ứng bất lợi liên quan đến miễn dịch do sử dụng ICI có sự khác biệt về cơ quan bị ảnh hưởng và mức độ nghiêm trọng:

+ Biểu hiện thường gặp bao gồm: mệt mỏi, phát ban, ngứa, tiêu chảy và buồn nôn

+ Biểu hiện ít phổ biến hơn nhưng có mức độ nghiêm trọng hơn [trên phổi, gan, nội tiết như tuyến giáp và tuyến thượng thận, hệ tiêu hóa] bao gồm: rối loạn hô hấp, viêm gan, viêm tuyến giáp, viêm đại tràng và viêm tụy

+ Biểu hiện hiếm gặp bao gồm rối loạn thần kinh và hệ tạo máu, các tình trạng bệnh tự miễn như viêm khớp dạng thấp, đái tháo đường type 1 và suy thượng thận.

Giám sát các biến cố bất lợi liên quan đến miễn dịch

- Các biến cố bất lợi liên quan đến miễn dịch có thể xảy ra ở bất kỳ thời điểm nào trong quá trình điều trị bằng ICI và cũng có thể xảy ra sau khi đã ngừng điều trị. Bác sĩ/ nhân viên y tế nên đánh giá nguy cơ xảy ra các biến cố này ở bệnh nhân sử dụng ICI khi có xuất hiện bất kể biểu hiện/bệnh nào chưa xác định được nguyên nhân.

- Các biểu hiện của phản ứng này có thể giúp nhận biết cơ quan nào bị ảnh hưởng như khó thở [hô hấp], giảm ham muốn [nội tiết], hoặc đau khớp [cơ xương khớp]. Bên cạnh đó bệnh nhân cũng có thể có các kết quả xét nghiệm máu, chức năng gan, chức năng tuyến giáp bất thường như nồng độ cortisol thấp.

- Việc xác định sớm các biến cố bất lợi trên có thể giúp cải thiện kết quả lâm sàng của bệnh nhân. Dựa trên mức độ nghiêm trọng của chúng có thể tạm ngừng sử dụng thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch và cân nhắc dùng corticosteroid.

Nguồn: //www.medsafe.govt.nz/profs/PUArticles/June2023/Autoimmune-complications-immunotherapy.html

Chủ Đề