Thế nào là sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả

Mục lục

Tổng quanSửa đổi

Việc sử dụng năng lượng hiệu quả đã được chứng minh là một chiến lược tiết kiệm và hiệu quả trong việc xây dựng nền kinh tế mà không nhất thiết phải tăng thêm chi phí tiêu thụ năng lượng. Một ví dụ cho việc đó, một bang của Mỹ California bắt đầu triển khai đo lường hiệu quả năng lượng. Trong những năm giữa thập niên 1970, bao gồm việc xây dựng mã và tiêu chuẩn thiết bị với yêu cầu hiệu quả nghiêm ngặt. Trong những năm tiếp theo, lượng tiêu thụ năng lượng của California vẫn ở mức bình quân trên cơ sở bình quân đầu người trong khi tiêu dùng quốc gia của Mỹ tăng gấp đôi.[5] Là một phần trong chiến lược của mình, California đã triển khai thực hiện "thứ tự tải" cho các nguồn năng lượng mới, nghĩa là đặt hiệu quả năng lượng đầu tiên, nguồn cung cấp năng lượng tái tạo thứ hai và các nhà máy điện hóa thạch mới cuối cùng.[6] Nhiều bang Connecticut và New York đã xây dựng Ngân hàng xanh để giúp các chủ tòa nhà dân cư và trung tâm thương mại tài chính nâng cấp hiệu quả năng lượng, làm giảm lượng khí thải và cắt giảm chi phí năng lượng cho người tiêu dùng.[7]

Lovin's Viện Rocky Mountain đã chỉ ra rằng trong việc xây dựng nền công nghiệp, "có nhiều cơ hội rộng mở để tiết kiệm từ 70% đến 90% năng lượng và chi phí cho việc thắp sáng, quạt, hệ thống máy bơm; 50% cho động cơ điện; và 60% trong các lĩnh vực như sưởi ấm, làm mát, thiết bị văn phòng và các thiết bị khác." Nhìn chung, có tới 75% lượng điện được sử dụng ở Mỹ hiện nay có thể được tiết kiệm bằng các biện pháp hiệu quả với chi phí thấp hơn, điều này cũng đúng với các thiết bị trong nhà. Bộ Năng lượng Hoa Kỳ đã tuyên bố tiềm năng trong việc tiết kiệm năng với cường độ 90 tỷ kWh bằng cách tăng hiệu suất năng lượng tại nhà.[8]

Những nghiên cứu khác cũng nhấn mạnh quan điểm này. Một báo cáo được xuất bản năm 2006 bởi tờ McKinsey Global Institute, khẳng định rằng "có nhiều cơ hội kinh tế khả thi để cải thiện năng suất sử dụng năng lượng, giữ cho mức tăng trưởng của nhu cầu sử dụng năng lượng toàn cầu ở mức dưới 1% một năm."— ít hơn một nửa so với mức tăng trưởng trung bình 2.2% dự kiến đến năm 2020 trong một bản phân tích kinh doanh như thường lệ.[9] Năng suất sử dụng năng lượng, dùng để đo lường đầu ra và chất lượng của hàng hóa và dịch vụ trên một đơn vị năng lượng đưa vào, có thể đến từ việc giảm lượng năng lượng cần thiết để sản xuất một cái gì đó, hay từ việc tăng số lượng hoặc chất lượng hàng hóa và dịch vụ từ cùng một lượng năng lượng.

Một báo cáo Vienna Climate Change Talks 2007, dưới hỗ trợ của Công ước Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu [UNFCCC], cho thấy rõ ràng "hiệu quả sử dụng năng lượng có thể giảm khí thải với chi phí thấp."[10]

Tiêu chuẩn quốc tế ISO17743 và ISO17742 cung cấp tài liệu, phương tháp để tính toán và báo cáo về tiết kiệm năng lượng và hiệu quả sử dụng năng lượng cho quốc gia và thành phố.[11][12]

Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả: Yêu cầu cấp thiết ở Việt Nam [ Phát lại ]

Đăng ngày: 29/06/2020 - 11:37

Một nhà máy sản xuất quần áo ở tỉnh Vĩnh Phúc. Ảnh chụp ngày 23/05/2017. Mức tăng của tiêu thụ điện năng vẫn rất cao, nhất để đáp ứng nhu cầu sản xuất. Reuters
Thanh Phương

Từ nhiều năm nay, để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ năng lượng ngày càng tăng, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu than cho các nhà máy nhiệt điện, nhập xăng dầu và nhập thêm điện. Nói chung là Việt Nam ngày càng thiếu các nguồn năng lượng bảo đảm cho một sự phát triển kinh tế bền vững, bảo đảm tốt cho sinh hoạt của người dân.

Quảng cáo
Đọc tiếp

Ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước ở khu vực châu Âu hay Bắc Mỹ, nhu cầu năng lượng chỉ tăng khoảng 1%/năm, có những nước đạt tăng trưởng âm, do áp dụng công nghệ sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Trong khi đó nhu cầu năng lượng và tiêu thụ năng lượng của Việt Nam hiện nay là khoảng 10%, theo lời thứ trưởng bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng khi trả lời báo chí vào đầu tháng 3/2019, nhân một cuộc hội thảo Việt Nam – Nhật Bản về năng lượng sạch. Theo ông Hoàng Quốc Vượng, điều này đang gây tác hại ngày càng nhiều lên môi trường, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Trước tình trạng nhu cầu và mức tiêu thụ năng lượng tăng quá nhanh, bên cạnh việc khai thác các nguồn năng lượng mới, nhất là các năng lượng sạch, vấn đề sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng đang được đặt ra ngày càng cấp thiết ở Việt Nam.

Chính sách sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả

Vào giữa tháng 3 vừa qua, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã phê duyệt Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019 - 2030. Chương trình đặt mục tiêu đạt mức tiết kiệm năng lượng 5,0 đến 7,0% tổng tiêu thụ năng lượng toàn quốc trong giai đoạn từ năm 2019 đến năm 2025; giảm mức tổn thất điện năng xuống thấp hơn 6,5%. Trả lời RFI Việt ngữ, giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện Nguyên tử Đà Lạt, nhận định về chương trình này:

“ Ít ra là hai lần, Việt Nam đã công bố chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong các kế hoạch trước đây. Những lần đấy vẫn chưa được tổng kết một cách thật rõ ràng là các mục tiêu có đạt được hay không, đạt được đến mức nào.

Lần này mục tiêu đặt ra thấy cũng tương đối rõ. Ví dụ như hàng năm phải tiết kiệm từ 5 đến 7% từ giờ cho đến 2025, rồi sau đó tiết kiệm nhiều hơn nữa. Riêng điện thì mức tổn thất phải được rút xuống còn 6%. Hiện nay, ở Việt Nam tổn thất về điện trên đường dây và trên hệ thống là vào khoảng 8-9% .

Rõ ràng nếu chúng ta có vấn đề sử dụng năng lượng không hiệu quả, thì phải phải làm rõ cái chuyện: ai là người sử dụng không hiệu quả, hay nói nặng nề hơn một tí: ai là thủ phạm? Các tập đoàn nhà nước, các địa phương, các ngành? Trong chương trình này có ghi một điểm quan trọng, đó là phải xây dựng một cơ sở dữ liệu, phù hợp với xu thế hiện nay. Và phải làm thế nào cho mọi ngành, mọi tập đoàn, mọi công ty sử dụng năng lượng đều phải đưa số liệu lên đấy để xem xét.”

Tiêu chí để đánh giá

Nhưng phải xem xét dựa trên tiêu chí gì để đánh giá là sử dụng năng lượng có tiết kiệm, có hiệu quả hay không? Giáo sư Phạm Duy Hiển cho biết:

“Cái tiêu chí rất đơn giản, rất kinh điển mà không phải ai cũng để ý đến, tức là anh dùng một Kilowatt giờ [ Kwh ] điện thì tạo ra được bao nhiêu sản phẩm GDP tính theo đôla Mỹ chẳng hạn. Hay nói ngược lại, để có được một đôla Mỹ thì anh phải dùng bao nhiêu Kwh. Trong khoa học, khái niệm này có tên là cường độ điện năng, hay cường độ năng lượng. Phải sử dụng bao nhiêu năng lượng để tạo ra một đôla Mỹ.

Việt Nam cho đến những năm gần đây muốn tạo ra một đôla Mỹ GDP thì phải sử dụng gần 1 Kwh điện. Trong khi đó, quốc gia cũng xài một cách tương đối không hiệu quả là Trung Quốc còn ít hơn mình 1,5 lần. Cường độ điện năng của Việt Nam như vậy là hơn gấp đôi Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia và một số nước khác và gấp bốn lần so với Philippines, Indonesia, và thậm chí gấp từ gần 7, 8 lần đến 10 so với các nước tiên tiến như Nhật, Singapore, Hồng Kông, Úc.

Căn cứ trên số liệu ấy, ta thấy là Việt Nam sử dụng điện năng rất là lãng phí. Nếu mình giảm lượng tiêu thụ điện năng cho có hiệu quả để đạt cường độ điện năng bằng như Thái Lan, Malaysia thì mình đã giảm bớt một nữa rồi, bằng như Philippines, Indonesia thì giảm được 4 lần.

Một điều quan trọng nữa là trong khi phần lớn các nước khác càng ngày càng giảm đi, kể cả Trung Quốc, còn các nước tiên tiến thì đã giảm từ lâu rồi, nhưng Việt Nam thì cứ tăng lên. Trong những năm tới, Việt Nam chưa có khả năng giảm đi được, là bởi vì theo cách tính toán về khoa học, khi tăng trưởng điện năng hàng năm mà cao hơn tăng trưởng GDP, thì cường độ điện năng không bao giờ giảm. Trong những năm trước đây, tăng trưởng điện năng luôn gấp đôi tăng trưởng GDP. Bây giờ phải làm thế nào giảm lượng tiêu thụ năng lượng xuống thì mới có hiệu quả.

Thế thì tại sao ở Việt Nam tăng trưởng điện năng cứ cao như thế? Các nhà khoa học phải vào cuộc để giải đáp bài toán này. Nhưng vấn đề chính là trước hết phải làm thế nào có hết được tất cả các số liệu về sử dụng năng lượng của các tổ chức, các đơn vị.”

Tăng giá điện: Biện pháp cần thiết

Với lý do là để có đủ tiền thanh toán cho các đối tác, từ ngày 20/03 vừa qua, Tập đoàn Điện lực Việt Nam [ EVN ] vừa điều chỉnh tăng giá bán lẻ điện bình quân lên thêm 8,36%. Đây vẫn là một vấn đề rất nhạy cảm ở Việt Nam, vì việc tăng giá điện bao giờ cũng gây nhiều lo ngại về ảnh hưởng tới đời sống người dân và hoạt động của các doanh nghiệp. Thế nhưng, theo giáo sư Phạm Duy Hiển, Việt Nam bắt buộc cần điều chỉnh lại giá điện năng cho đúng với giá thị trường, để qua đó tạo áp lực buộc các tổ chức và người dân ý thức nhiều hơn về vấn đề tiết kiệm điện:

“ Giá về năng lượng hiện nay ở là gần như quốc tế, bởi vì ta nhập dầu của thế giới, nhưng giá điện năng là vấn đề luôn gây tranh cãi. Giá điện đưa về người dân cũng như đưa về cho sản xuất hiện nay vẫn thấp hơn nhiều nước. Chúng ta không sử dụng được cái cơ chế giá đó để giải quyết bài toán về tiêu thụ điện năng.

Giá điện thấp khiến người ta không quan tâm nhiều đến việc giảm chi phí về điện năng. Điều đấy đã từng xảy ra. Ví dụ cách đây nhiều năm, thép của Việt Nam có thời gian sản xuất dư thừa, trong khi đó giá điện chi phí cho sản xuất thép không cao lắm, chỉ vào khoảng 10%, cho nên các nhà sản xuất thép không quan tâm. Vấn đề giá điện và giá năng lượng là vấn đề nhà nước cần lưu ý. Mục tiêu là đưa nó lên đúng với giá thị trường, tạo ra một thị trường cạnh tranh về năng lượng.

Điều này rất tế nhị vì cứ nói như thế thì sẽ có nhiều người phản đối, nói rằng mức sống của người dân tại tăng giá? Nhưng theo tôi, nói một cách rất công minh thì không thể không tăng giá được.

Công nghệ tiết kiệm năng lượng

Ở đây còn có vấn đề công nghệ. Vì giá điện thấp như thế, cho nên người ta không quan tâm đến vấn đề công nghệ tiết kiệm năng lượng. Bây giờ phải làm thế nào áp đặt cái đó vào. Và song song với việc điều chỉnh giá cả cho ngày càng phù hợp với thị trường, với quy luật cạnh tranh, phải có những biện pháp, thậm chí những biện pháp chế tài, không cho phép những công nghệ tiêu tốn năng lượng, tàn phá năng lượng tồn tại.

Chương trình này phải được thực hiện quyết liệt cho đến lúc có nhiều nhà máy phải đóng cửa nếu không cải tiến các công nghệ. Có như thế thì mới giải quyết thành công bài toán này. Ngay từ đầu, khi xin cấp phép cho các dự án đầu tư, anh phải đưa vào dự án đầu tư đó mục tiêu sử dụng năng lượng của anh và nhà nước phải có bộ phận theo dõi để bảo đảm là công nghệ mà anh đưa vào là những công nghệ tốt, những công nghệ tiết kiệm năng lượng và không tàn phá môi trường.”

  • Việt Nam
  • Tạp chí
  • Phát triển
  • Điện năng
  • Năng lượng
  • tiết kiệm năng lượng

Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả của Việt Nam: Thực trạng và vấn đề đặt ra

06:13 | 04/11/2020

-Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, nhu cầu năng lượng của nước ta ngày càng tăng cao. Để đáp ứng nhu cầu đó, một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu mang tính chiến lược đảm bảo sự phát triển bền vững là sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Việt Nam đã ban hành Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả vào năm 2010, có hiệu lực thực hiện từ năm 2011. Theo đó Chính phủ đã đề ra các Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả để triển khai thực hiện. Tuy nhiên, xét trên phạm vi nền kinh tế quốc dân, kết quả thực hiện trong thời gian qua chưa đạt được như mong muốn. Bài báo này sẽ phân tích tình hình cụ thể và nguyên nhân gốc rễ cùng giải pháp căn cơ để khắc phục trong thời gian tới.


Một biện pháp căn cơ góp phần khắc phục thiếu điện ở Việt Nam


PGS, TS. NGUYỄN CẢNH NAM [*]

Việt Nam đã ban hành Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả vào năm 2010, có hiệu lực thực hiện từ năm 2011.

Tại Khoản 5, Điều 3 của Luật quy định: “Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là việc áp dụng các biện pháp quản lý và kỹ thuật nhằm giảm tổn thất, giảm mức tiêu thụ năng lượng của phương tiện, thiết bị mà vẫn bảo đảm nhu cầu, mục tiêu đặt ra đối với quá trình sản xuất và đời sống”.

Để thực hiện Luật, Chính phủ đã đề ra Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2012 - 2015 [Quyết định số 1427/2012/QĐ-TTg] và Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019 - 2030 [Quyết định số 280/2019/QĐ-TTg].

Quyết định số 1427/2012/QĐ-TTg đề ra cho giai đoạn 2012-2015 là:

Đạt mức tiết kiệm từ 5 - 8% tổng mức tiêu thụ năng lượng của cả nước trong giai đoạn 2012 - 2015 so với dự báo nhu cầu năng lượng theo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tương đương từ 11 triệu TOE [tấn dầu tương đương] đến 17 triệu TOE trong giai đoạn 2012 - 2015.

Quyết định số 1427/2012/QĐ-TTg đề ra mục tiêu:

- Giai đoạn đến năm 2025: Đạt mức tiết kiệm năng lượng 5,0 đến 7,0% tổng tiêu thụ năng lượng toàn quốc trong giai đoạn từ 2019 đến 2025.

- Giai đoạn đến năm 2030: Đạt mức tiết kiệm từ 8,0 đến 10,0% tổng tiêu thụ năng lượng toàn quốc trong giai đoạn từ 2019 đến 2030.

Trên cơ sở mục tiêu chung, Chương trình đề ra mục tiêu cụ thể về tiết kiệm năng lượng cho từng ngành, lĩnh vực.

Để thực hiện mục tiêu đề ra, Chương trình đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp cho nền kinh tế nói chung và các ngành, lĩnh vực.

Tình hình thực hiện sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế giai đoạn từ năm 2010 - 2019 được trình bày trong bảng 1.

Bảng 1:

Chỉ tiêu

Đơn vị

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Dân số

106ng.

87,07

88,15

89,20

90,19

91,20

92,23

93,25

94,29

95,39

96,48

GDP [giá hiện hành]

103tỷ đ

2158

2780

3245

3584

3938

4193

4503

5006

5542

6037

Tỷ USD

110,7

133,3

155,2

171,2

186,2

193,4

205,3

223,7

245,1

262,0

GDP b/q đầu người

USD

1273

1517

1748

1907

2052

2097

2202

2373

2570

2715

Cơ cấu

%

100

100

100

100

100

100

100

100

100

100

- Nông nghiệp

%

18,38

19,57

19,22

17,96

17,70

17,00

16,32

25,34

14,68

13,96

- Công nghiệp

%

32,13

32,24

33,56

33,19

33,21

33,25

32,72

33,40

34,23

34,49

- Dịch vụ

%

36,94

36,73

37,27

38,74

39,04

39,73

40,92

41,26

41,12

41,64

- Thuế SP trừ trợ cấp SP

%

12,55

11,46

9,95

10,11

10,05

10,02

10,04

10,00

9,97

9,91

GDP [giá 2010]

103tỷ đ

2158

2292

2413

2544

2696

2876

3054

3263

3493

3739

Tỷ USD

110,7

117,6

123,8

130,5

138,3

147,5

156,7

167,3

179,2

191,8

Tốc độ tăng

%

6,24

5,25

5,42

5,98

6,68

6,21

6,81

7,08

7,02

Năng lượng sơ cấp [theo BP]

EJ

1,87

2,13

2,24

2,39

2,61

2,90

3,11

3,32

3,72

4,12

Tốc độ tăng

%

13,91

5,17

6,70

9,21

11,12

7,25

6,76

12,05

10,76

Sản lượng điện

109kWh

91,7

101,5

115,1

124,5

141,2

157,9

175,7

191,6

209,2

227,5

Tốc độ tăng

%

10,66

13,45

8,09

13,50

11,83

11,27

9,02

9,18

8,74

Hệ số ĐHNL

2,23

0,98

1,24

1,54

1,66

1,17

0,99

1,70

1,53

Hệ số ĐHĐN

1,71

2,56

1,49

2,26

1,77

1,81

1,32

1,30

1,25

Cường độ NL

GJ/103$

16,90

18,11

18,10

18,32

18,88

19,66

19,85

19,84

20,76

21,49

kgOE/

103$

405,6

434,6

434,4

439,7

453,1

471,8

476,4

476,2

498,2

515,8

Cường độ ĐN

kWh/

103$

828,7

863,2

930,4

953,9

1021,5

1070,8

1121,7

1144,9

1167,4

1186,2

Nguồn: [1], [2]. Tác giả tính toán các chỉ tiêu: GDP theo USD giá cố định năm 2010, Tốc độ tăng cung NLSC [%], Tốc độ tăng sản lượng điện [%], Hệ số đàn hồi năng lượng [HSĐHNL], Hệ số đàn hồi điện năng [HSĐHĐN], Cường độ năng lượng [CĐNL] và Cường độ điện năng [CĐĐN].

Ghi chú: HSĐHNL = Tốc độ tăng NLSC [%]/Tốc độ tăng GDP [%]; HSĐHĐN = Tốc độ tăng sản lượng điện/Tốc độ tăng GDP; CĐNL = Tổng NLSC cung cấp/GDP; CĐĐN = Tổng sản lượng điện sản xuất/GDP, trong đó GDP theo giá cố định năm 2010 và tỷ giá VND/USD năm 2010 = 19.496. Đơn vị GJ = 24 kgOE.

Theo Niên giám Thống kê Việt Nam [NGTK VN] 2019: Chỉ tiêu CĐNL [kgOE/103USD] năm 2015: 498,6; 2016: 512,8; 2017: 492,3; 2018: 542,2; Chỉ tiêu CĐĐN [kWh/103USD] năm 2015: 1061,2; 2016: 1130,1; 2017: 1184,9; 2018: 1223,1. GDP tính toán từ Tổng cung NLSC/CĐNL là [tỉ USD]: năm 2015: 132,7; 2016: 139,3; 2017: 145,8; 2018: 154,5. GDP tính toán từ Tổng điện thương phẩm/CĐĐN là [tỉ USD]: Năm 2015: 133,4; 2016: 140,1; 2017: 146,8; 2018: 154,5. Sự chênh lệch GDP từ 2 cách tính chỉ là do sai số khi tính. Vấn đề là không rõ GDP để tính chỉ tiêu CĐNL và CĐĐN trong NGTK 2019 được tính theo thời giá nào, vì không khớp với GDP theo giá hiện hành và GDP theo giá cố định năm 2010 nêu trong NGTK 2019.

Bảng 1 trên đây cho thấy:

Từ năm 2010 đến 2019 sau 10 năm kinh tế - xã hội của nước ta đa có sự phát triển mạnh, dân số tăng từ 87,07 lên 96,48 triệu người [tăng 1,11 lần], GDP [theo giá hiện hành] đã tăng từ 110,7 lên 262,0 tỷ USD [tăng gần 2,4 lần], GDP bình quân đầu người tăng từ 1.273 lên 2.715 USD/người [tăng hơn 2,13 lần]. GDP [theo giá cố định 2010] tăng từ 110,7 lên 191,8 tỷ USD, tăng hơn 1,73 lần.

Theo đó, tiêu dùng năng lượng và điện năng ngày càng tăng cao: Tổng cung năng lượng sơ cấp tăng từ 1,87 lên 4,12 EJ [tương đương từ 44,69 lên 98,47 triệu TOE] [2], tăng 2,2 lần, sản lượng điện sản xuất tăng từ 91,7 lên 227,5 tỷ kWh, tăng 2,48 lần.

Xét trên phương diện sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả thông qua các chỉ tiêu: Hệ số đàn hồi năng lượng [HSĐHNL], Hệ số đàn hồi điện năng [HSĐHĐN], Cường độ năng lượng [CĐNL] và Cường độ điện năng [CĐĐN] cho thấy như sau:

HSĐHNL có sự biến động lên xuống thất thường song về cơ bản theo xu thế giảm dần, từ 2,23 năm 2011 xuống còn 1,53 năm 2019.

HSĐHĐN cũng có sự biến động tăng giảm bất thường song về cơ bản theo xu thế giảm, từ 1,71 năm 2011 xuống còn 1,25 năm 2019.

Nguyên nhân chủ yếu là do tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu thế tăng, trong khi tốc độ tăng trưởng cung ứng NLSC và sản lượng điện năng có xu thế giảm.

CĐNL có sự gia tăng dần từ năm 2010 đến 2019, tương ứng tăng từ 16,9 lên 21,9 GJ/103USD, tăng 1,27 lần. So với Niên giám Thống kê Việt Nam [NGTK VN] 2019 có sự chênh lệch là do số liệu về cung NLSC và GDP có sự khác nhau.

CĐĐN có sự gia tăng tương đối cao từ năm 2010 đến 2019, tương ứng tăng từ 828,7 lên 1186,2 kWh/103 USD, tăng 1,43 lần. So với NGTK VN 2019 có sự chênh lệch là do sản lượng điện tính khác nhau [NGTK tính theo điện thương phẩm] và GDP khác nhau.

Thiết nghĩ, việc tính chỉ tiêu CĐĐN theo sản lượng điện sản xuất thì hợp lý hơn vì suy cho cùng lượng điện năng bị tổn thất trong quá trình truyền tải và phân phối cũng là tiêu dùng cho nền kinh tế. Theo đó, để giảm CĐĐN và nâng cao hiệu quả sử dụng điện cũng cần phải giảm tổn thất điện năng.

Vấn đề rút ra ở đây là dù có sự chênh lệch, các chỉ tiêu CĐNL và CĐĐN theo tính toán trên đây cũng như theo NGTK VN 2019 đều cho thấy có xu hướng gia tăng. Đó chính là điều cần quan tâm.

Qua sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự biến động của các chỉ tiêu CĐNL, CĐĐN nêu trên cho thấy rằng: Nền kinh tế nước ta thời gian qua tuy có sự tái cơ cấu nhất định nhưng xét trên tổng thể chưa theo hướng sử dụng hiệu quả năng lượng và điện năng.

Trong bài viết này chưa có điều kiện đi sâu phân tích chi tiết nguyên nhân cụ thể của tình trạng sử dụng năng lượng và điện năng chưa hiệu quả. Song qua đánh giá kết quả thực hiện Chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả giai đoạn năm 2012 - 2015 và phân tích tốc độ tăng dân số, GDP bình quân đầu người, cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho thấy các nguyên nhân chính bao gồm:

[i] Trình độ công nghệ kỹ thuật, thiết bị và việc quản lý sử dụng trong các ngành, lĩnh vực sản xuất còn bất cập, hạn chế, dẫn đến có mức tiêu hao nhiên liệu, năng lượng, điện năng cao.

[ii] Dân số tăng cùng với thu nhập ngày càng tăng nên mức tiêu dùng năng lượng và điện năng trong sinh hoạt tăng cao [tăng từ khoảng 25 tỷ kWh năm 2010 lên 59,3 tỷ kWh năm 2019].

[iii] Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm và chưa thực sự theo hướng sử dụng năng lượng có hiệu quả.

Cụ thể là khu vực tiêu hao ít năng lượng hơn như dịch vụ tuy có tỷ trọng tăng nhưng còn chậm: Từ năm 2010 đến năm 2019 chỉ tăng thêm 4,6% [từ 36,94% lên 41,64%].

Ngược lại, khu vực tiêu hao nhiều năng lượng, điện năng như công nghiệp, xây dựng cũng có tỷ trọng tăng tuy thấp hơn là 2,36% [từ 32,13% lên 34,49%]. Tỷ trọng tiêu dùng điện năng của lĩnh vực công nghiệp - xây dựng năm 2018 chiếm tới 55%, trong khi tỷ trọng của lĩnh vực này trong GDP chỉ là 34,49%; của nông, lâm và ngư nghiệp là 3%, trong khi tỷ trọng trong GDP chiếm tới 13,96%, giảm 4,42% so với năm 2010 [18,38%]; của lĩnh vực dịch vụ và các lĩnh khác là 42% [trong đó thương mại - dịch vụ: 6,0%; quản lý - tiêu dùng: 32,0%; khác: 4,0%], trong khi tỷ trọng của lĩnh vực dịch vụ trong GDP chiếm tới 41,64%.

Trong các nguyên nhân nêu trên thì nguyên nhân quan trọng mang tính chiến lược là tái cơ cấu nền kinh tế mới chỉ định hướng chung là chuyển dịch theo hướng công nghiệp và dịch vụ mà chưa gắn với mục tiêu cụ thể về sử dụng năng lượng hiệu quả.

Để biết mức độ sử dụng năng lượng và điện năng của nước ta cao thấp ra sao, trong bảng 2 trình bày các chỉ tiêu cường độ năng lượng và cường độ điện năng năm 2018 [GDP theo giá hiện hành bằng USD năm 2018] của một số nước trong khu vực và trên thế giới.

Bảng 2:

Chỉ tiêu

Đơn vị

Thái Lan

Malaysia

Hàn Quốc

Nhật Bản

Trung Quốc

Úc

Đức

Nga

Việt Nam

GDP [giá hiện hành]

109$

505,0

358,6

1619,4

4971,3

13608,2

1433,9

3947,6

1657,6

245,2

Cơ cấu GDP

%

- Nông nghiệp

8,1

7,5

2,0

1,2*

7,2

2,5

0,8

3,1

14,7

- Công nghiệp

35,0

38,3

35,1

29,1*

40,7

24,1

27,5

32,1

34,2

- Dịch vụ

56,9

53,0

53,6

69,1*

52,2

66,6

61,8

54,1

41,1

GDP [theo PPP]

109$

1261,2

1032,9

2077,8

5413,8

25418,7

1245,1

4394,6

3998,8

706,5

Tiêu dùng NLSC

109GJ

5,60

4,21

12,55

18,84

135,77

6,00

13,44

30,04

3,72

Sản lượng điện

109kWh

177,6

167,3

593,4

1056,2

7166,1

263,1

643,5

1109,2

209,2

CĐNL và CĐ ĐN tính theo GDP giá hiện hành

CĐNL

GJ/103$

11,10

11,74

7,75

3,79

9,98

4,18

3,40

18,12

15,17

CĐĐN

kWh/103$

351,7

466,6

366,4

212,5

526,6

183,5

163,0

669,2

853,3

VN so với:

Lần

- CĐNL

1,37

1,29

1,96

4,00

1,52

3,63

4,46

0,84

- CĐĐN

2,43

1,83

2,33

4,02

1,62

4,65

5,23

1,28

CĐNL và CĐ ĐN tính theo GDP sức mua tương đương [PPP]

CĐNL

GJ/103$

4,44

4,08

6,04

3,48

5,34

4,82

3,06

7,51

5,26

CĐĐN

kWh/103$

140,8

162,0

285,6

195,1

281,9

211,3

146,4

277,4

296,1

VN so với:

Lần

- CĐNL

1,18

1,29

1,04

1,51

0,99

1,09

1,72

0,70

- CĐĐN

2,10

1,83

1,04

1,52

1,05

1,40

2,02

1,08

Nguồn: GDP theo [1], Tiêu dùng NLSC và sản lượng điện năng theo [2]. Tác giả tính toán chỉ tiêu CĐNL và CĐĐN. Ghi chú: GDP [giá hiện hành] là của năm 2018; GDP [theo PPP] là theo sức mua tương đương của năm 2018 lấy theo NGTK VN năm 2019. [*] cơ cấu của năm 2017.

Qua bảng 2 cho thấy:

Thứ nhất: CĐNL của Việt Nam chỉ thấp hơn của Nga [bằng 0,84 lần], nhưng rất cao so với các nước. Cụ thể là cao hơn Thái Lan 1,37 lần; Malaysia 1,29 lần; Hàn Quốc 1,96 lần; Nhật Bản 4,0 lần; Trung Quốc 1,52 lần; Úc 3,63 lần và Đức 4,46 lần.

Thứ hai: CĐĐN của Việt Nam cao hơn tất cả các nước. Cụ thể là cao hơn Thái Lan 2,43 lần; Malaysia 1,83 lần; Hàn Quốc 1,33 lần; Nhật Bản 4,02 lần; Trung Quốc 1,62 lần; Úc 4,62 lần; Đức 5,23 lần và Nga 1,28 lần. Như vậy, rất cao so với Thái Lan, Malaysia, Nhật Bản, Úc và Đức.

Vì rằng, mặt bằng giá của các nước cao thấp khác nhau do sức mua khác nhau làm cho GDP theo giá hiện hành của các nước không có giá trị ngang nhau - tức không đảm bảo tính so sánh được với nhau. Theo đó, các chỉ tiêu CĐNL và CĐĐN tính trên GDP theo giá hiện hành của các nước chưa hoàn toàn phản ánh chính xác hiệu quả sử dụng năng lượng và điện năng để đảm bảo tính so sánh được.

Vì vậy, để khắc phục khiếm khuyết này, GDP được tính theo sức mua tương đương [Purchasing Power Parity - PPP] [1] và các chỉ tiêu CĐNL và CĐĐN tính trên GDP theo PPP, viết tắt là GDP [PPP].

Trong trường hợp này ta thấy, CĐNL và CĐĐN của Việt Nam so với các nước có sự thu hẹp khoảng cách. Cụ thể là, chỉ tiêu CĐNL của Việt Nam thấp hơn của Nga và Trung Quốc, cao hơn chút ít so với Úc và Hàn Quốc, chỉ cao hơn đáng kể so với Thái Lan và rất cao so với Malaysia, Nhật Bản và Đức. Còn chỉ tiêu CĐĐN của Việt Nam cao hơn tất cả các nước. Qua đó, chứng tỏ hiệu quả sử dụng năng lượng và điện năng của Việt Nam vẫn còn thấp và rất thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.

Nhìn chung, cho thấy nước nào có lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao và cao hơn nhiều so với tỷ trọng của lĩnh vực công nghiệp trong GDP thì có CĐNL và CĐĐN thấp - tức sử dụng năng lượng và điện năng hiệu quả hơn. Còn nước nào có lĩnh vực công nghiệp cao và cao gần với tỷ trọng của lĩnh vực dịch vụ trong GDP thì có CĐNL và CĐĐN cao - tức sử dụng năng lượng và điện năng kém hiệu quả hơn.

Vấn đề rút ra cho Việt Nam trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng:

1/ Cần nhận thức đúng đắn và phân biệt rõ nội hàm hai khái niệm: Sử dụng năng lượng tiết kiệm và sử dụng năng lượng hiệu quả để có cơ chế, chính sách và giải pháp thực hiện phù hợp.

Hiện nay, nội hàm của hai khái niệm này còn hiểu và quy định chung chung, chưa tách biệt rõ ràng.

Chẳng hạn, như quy định của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2010 nêu: “Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là việc áp dụng các biện pháp quản lý và kỹ thuật nhằm giảm tổn thất, giảm mức tiêu thụ năng lượng của phương tiện, thiết bị mà vẫn bảo đảm nhu cầu, mục tiêu đặt ra đối với quá trình sản xuất và đời sống”.

Như vậy, thực chất quy định này chỉ mới đề cập đến khía cạnh sử dụng năng lượng tiết kiệm với nghĩa vẫn đảm bảo nhu cầu, mục tiêu đặt ra, nhưng với mức tiêu hao năng lượng thấp hơn. Theo đó, các Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả cũng chỉ đề ra mục tiêu giảm tiêu hao và các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện giảm tiêu hao năng lượng.

Ví dụ, như Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019 - 2030 [Quyết định số 280/2019/QĐ-TTg] đã đề ra mục tiêu cụ thể cho giai đoạn 2019-2025 là: Giảm mức tiêu hao năng lượng bình quân cho các ngành/phân ngành công nghiệp so với giai đoạn 2015 - 2018. Cụ thể:

[i] Đối với công nghiệp thép: Từ 3,00 đến 10,00% tùy loại sản phẩm và công nghệ sản xuất.

[ii] Đối với công nghiệp hóa chất: Tối thiểu 7,00%.

[iii] Đối với công nghiệp sản xuất nhựa: Từ 18,00 đến 22,46%.

[iv] Đối với công nghiệp xi măng: Tối thiểu 7,50%.

[vi] Đối với công nghiệp dệt may: Tối thiểu 5,00%.

[vii] Đối với công nghiệp rượu, bia và nước giải khát: Từ 3,00 đến 6,88% [tùy vào loại sản phẩm, quy mô sản xuất].

[viii] Đối với công nghiệp giấy: Từ 8,00 đến 15,80% tùy từng loại sản phẩm và quy mô sản xuất.

Theo đó, đề ra các nhiệm vụ thực hiện mục tiêu giảm mức tiêu hao năng lượng nêu trên.

Đề nghị quy định lại rõ ràng hai khái niệm sử dụng năng lượng tiết kiệm và sử dụng năng lượng hiệu quả như sau:

Thứ nhất: Sử dụng năng lượng tiết kiệm là cùng một kết quả đầu ra nhưng với mức tiêu hao năng lượng đầu vào ít hơn.

Thứ hai: Sử dụng năng lượng hiệu quả là cùng một mức tiêu hao năng lượng đầu vào nhưng đạt được kết quả đầu ra nhiều hơn.

Tuy kết quả cuối cùng của cả hai trường hợp đều là giảm mức tiêu hao năng lượng trên một đơn vị đầu ra, nhưng bản chất và việc áp dụng trong thực tiễn lại có sự khác nhau.

Sử dụng năng lượng tiết kiệm thường được áp dụng đối với việc sản xuất, hoặc sử dụng những loại sản phẩm, vật tư, thiết bị, máy móc, phương tiện hiện có với mục tiêu giảm mức tiêu hao năng lượng đầu vào bằng các giải pháp thích hợp.

Ví dụ, việc thay thế các bóng đèn sợi đốt hiện đang sử dụng tiêu hao nhiều điện năng bằng các bóng đèn LED có cùng độ sáng như nhau nhưng mức tiêu hao điện năng thấp hơn nhiều.

Tương tự, việc thay thế thế hệ cũ các điều hòa, quạt gió, nồi cơm điện, xe máy, ô tô, thiết bị, phương tiện, v.v... bằng thế hệ mới có mức tiêu hao nhiên liệu, điện năng, nhiệt lượng thấp hơn. Hoặc việc cải tạo hiện đại hóa, đổi mới thiết bị, máy móc, phương tiện, tòa nhà, dây chuyền sản xuất hiện có để giảm tiêu hao năng lượng hoặc điện năng, v.v... Như vậy, trong trường hợp này việc giảm tiêu hao năng lượng là do sử dụng tiết kiệm. Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả chủ yếu đang theo hướng này.

Còn sử dụng năng lượng hiệu quả thường được áp dụng đối với đầu tư để phát triển, hoặc mở rộng các ngành, lĩnh vực, loại sản phẩm, dịch vụ tiêu hao ít năng lượng nhưng có giá trị kinh tế cao với mục đích nâng cao giá trị đầu ra trên một đơn vị năng lượng tiêu hao.

Ví dụ, các ngành luyện kim, vật liệu xây dựng, chế tạo máy, giấy, hóa chất, giao thông vận tải, v.v... là những ngành tiêu thụ nhiều năng lượng nhất. Các ngành nông lâm thủy hải sản và các lĩnh vực dịch vụ du lịch, thương mại, tài chính, ngân hàng, giải trí, v.v... là các ngành, lĩnh vực tiêu thụ ít năng lượng. Cho nên, để nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, thay vì đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu hao nhiều năng lượng [cho dù đã áp dụng giải pháp sử dụng tiết kiệm] chuyển sang đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu hao ít năng lượng. Theo đó cơ cấu kinh tế sẽ chuyển dịch từ các ngành, lĩnh vực tiêu hao nhiều năng lượng sang các ngành, lĩnh vực tiêu hao ít năng lượng - tức là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sử dụng năng lượng hiệu quả.

Như vậy, trong trường hợp này, việc giảm tiêu hao năng lượng là do chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu hao ít năng lượng. Chính vì vậy, như đã nêu trên các nền kinh tế có lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao thường có chỉ tiêu sử dụng năng lượng hiệu quả cao hơn nhiều so với các nền kinh tế có lĩnh vực công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng cao.

2/ Với nhận thức nêu trên, đi đôi với sử dụng năng lượng tiết kiệm cần tăng cường sử dụng năng lượng hiệu quả.

Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị về“Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam đến 2030, tầm nhìn đến 2045” đề ra một trong các mục tiêu là Cường độ năng lượng sơ cấp đến năm 2030 đạt từ 420-460 kgOE/1.000 USD GDP, năm 2045 từ 375-410 kgOE/1.000 USD GDP.

Để thực hiện được mục tiêu đó, đi đôi với việc sử dụng năng lượng tiết kiệm trên cơ sở áp dụng các giải pháp thay thế, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ, thiết bị, sản phẩm và quản lý nhằm giảm tiêu hao năng lượng, Việt Nam cần đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu kinh tế gắn với mục tiêu sử dụng năng lượng hiệu quả trên cơ sở hạn chế phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu hao nhiều năng lượng. Đặc biệt là những ngành, lĩnh vực sản xuất sản phẩm xuất khẩu tiêu hao năng lượng nhiều, chỉ hạn chế ở mức quy mô vừa đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước, đẩy mạnh phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu hao ít năng lượng nhưng đem lại giá trị kinh tế gia tăng cao. Đây là nhiệm vụ của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả cụ thể hóa mục tiêu và đề ra nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ để thực hiện./.

[*] HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM; KHOA QUẢN LÝ CÔNG NGHIỆP VÀ NĂNG LƯỢNG - EPU


Tài liệu tham khảo:

[1] Niên giám Thống kê Việt Nam [NGTK VN] 2019, 2016, 2014.

[2] BP Statistical Review of World Energy 2020, 2019.

nangluongvietnam.vn/

Video liên quan

Chủ Đề